Theo sách Phả hệ họ Ngô Việt Nam, ông là con cả của Thiên Sách vương
Ngô Xương Ngập vốn có tên là Xương Tỷ. Ông là anh của sứ quân Ngô Xương
Xí. Sách Thiền Uyển tập anh chỉ ghi ông thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế 1.
Ngô Xương Tỷ ra đời dưới thời cai trị của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ
(933), cha vợ thứ của ông nội ông là Ngô Quyền. Năm 937, Đình Nghệ bị
Kiều Công Tiễn giết, Ngô Quyền giết Tiễn và đánh bại quân Nam Hán, lên
ngôi vua (938). Năm 944, Ngô Quyền mất, đáng lý cha ông là Ngô Xương
Ngập phải được thừa kế, nhưng người con của Dương Đình Nghệ là Dương
Tam Kha tranh ngôi. Cha ông phải bỏ trốn về Hương Trà, nương nhờ Phạm
Lệnh Công và lấy con gái Lệnh Công, sinh ra người em Xương Xí.
Dương Tam Kha lùng bắt cha ông rất gắt gao nhưng không bắt được. Chú
hai Ngô Xương Văn là con bà nội kế Dương Như Ngọc nên được Tam Kha nhận
làm con nuôi. Có lẽ trong cảnh gia đình gặp tai họa đó, người cha không
biết sống chết lúc nào, cậu bé Ngô Chân Lưu (11 tuổi năm 944) không nơi
nương tựa đã tìm đến cửa Thiền đề thoát nạn.
Cơ duyên và hành trạng
Sư Khuông Việt có tướng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng. Lúc nhỏ theo học Nho, lớn lên quy y Phật.
Sư cùng bạn học Trụ Trì đến Thiền Sư Vân Phong chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc), thọ giới Cụ túc 2.
Từ đó, Sư đọc khắp sách Phật, tìm hiểu yếu chỉ của Thiền.
Một lần Sư đi chơi núi Vệ Linh, ở quận Bình Lỗ 3, thích
phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm xuống nằm mộng thấy một
vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ
bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: "Ta
là Tỳ Sa Môn thiên vương, những người theo ta là Dạ-xoa. Thiên đế có
sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh
hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết". Sư kinh
hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu la ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ.
Đến sáng Sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá
sum suê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt.
Đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng, để thờ...
Các tràng kinh của Đinh Liễn
Chùa Nhất Trụ ở Cố đô Hoa Lư
Năm
bốn mươi tuổi, danh Sư vang tới triều đình. Năm 969, Đinh Tiên Hoàng
mời Sư đến. Thấy Sư đối đáp hiệp chỉ, bèn phong làm đã phong cho Khuông
Việt làm Tăng thống. Đây là lần đầu tiên chức Tăng thống lịch sử Việt
Nam. Và sau này cho đến thời nhà Trần và nhà Lê vẫn còn sử dụng. Nhiệm
vụ của người giữ chức này, tuy sử sách không ghi lại rõ ràng, song vẫn
có thể hiểu như một chức để nắm các sư sãi ở trong nước. được nói đến
trong
Các nhà khảo cổ học cho biết năm 1963, tại vùng đất Hoa Lư, đã tìm
được gần 20 tràng kinh hình bát giác cao từ 50 đến 80 cm. Theo những
dòng chữ ghi trên tràng kinh thì năm Quí Dậu (973), Nam Việt Vương Đinh
Khuông Liễn đã cho dựng 100 tràng kinh.
Vào năm 1987 một số tràng kinh khác lại được phát hiện. Căn cứ thông
tin trên số tràng kinh cho thấy năm 979 Đinh Khuông Liễn lại dựng 100
tràng kinh nữa.
Các kinh tràng và sự tham mưu của Khuông Việt, tuy gián tiếp, nhưng
rất có ý nghĩa đối với lịch sử và văn hóa dân tộc cũng như Phật giáo.
Năm Thái Bình thứ hai (971). Vua ban hiệu Khuông Việt đại sư. 4
Vương Lang Quy
Lý Giác là người đã từng đi trong phái bộ Lý Nhược Chuyết trong năm
trước để sang phong cho vua Lê Đại Hành làm An Nam đô hộ Tĩnh Hải quân
tiết độ sứ và đòi vua Lê Đại Hành trao trả hai tên tướng là Quách Quân
Biện và Triệu Phụng Huân bị bắt trong cuộc chiến năm 981.
Phái bộ của Lý Giác đến Việt Nam lần hai vào năm Thiên Phúc thứ 7 (987).
Vua Lê Đại Hành đã nhờ Pháp Thuận và Khuông Việt cùng đứng ra đón
tiếp. Pháp Thuận đã đón Lý Giác từ chùa Sông Sách, nay thuộc tỉnh Hải
Dương, để đưa về kinh ấp Hoa Lư. Đến Hoa Lư, Khuông Việt đã đứng ra
tiếp.
Trước khi Lý Giác ra về, vua Lê Đại Hành đã ra lệnh cho Khuông Việt
viết một khúc nhạc để tiễn đưa phái bộ. Đây có thể nói là lần đầu tiên
văn chương nghệ thuật đã công khai đưa vào phục vụ sự nghiệp chính trị
ngoại giao. Đây là một loại từ khúc lưu hành khá phổ biến thời bấy giờ,
có thể dùng như lời của một bản nhạc để hát với việc sử dụng các nhạc
khí để tấu kèm theo. Khúc từ này có tên là Ngọc Lang Quy, mà truyền bản
nhà Nguyễn viết thành Vương Lang Quy.
Đây là một tác phẩm văn học đầu tiên hiện còn của lịch sử ngoại giao
Việt Nam, nếu không kể đến các văn thư ngoại giao với Trung Quốc. Đồng
thời, nó cũng là bài Nguyễn Lang Quy không những xưa nhất của văn học
Việt Nam, mà còn của văn học thế giới, bởi vì những bài từ loại này
hiện còn chép trong các sách Trung Quốc như Tống lục thập danh gia từ,
Tuyệt diệu hảo từ thiêm, Từ tổn v.v. đều là của những tác giả về sau
như Âu Dương Tu (1007-1072), Tô Thức (1037-1101), Hoàng Đình Kiên
(1045-1105)...
- Tường quang, phong hảo, cẩm phàm trương
- Thần tiên phục đế hương
- Thiên trùng vạn lí thiệp thương lang
- Cửu thiên quy lộ trường
- Nhân tình thảm thiết đối li trường
- Phan luyến tinh tinh lang
- Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
- Phân minh báo ngã hoàng
|
- Trời lành gió thuận, gấm buồm dương
- Thần tiên về để hương
- Muôn trùng vạn dặm biển mênh mang
- Trời xanh xa dặm trường
- Tình ray rứt chén lên đường
- Bịn rịn sứ tinh lang
- Nguyện đem thâm ý vì Nam bang
- Phân minh tâu Thượng hoàng.
|
Triết lý hành động
Trên 30 năm đại sư Khuông Việt đã phục vụ trong các chính quyền của
Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại HànhPhật giáo Việt Nam lúc ấy đã thực hiện
tốt chức năng đào tạo những người trí thức có khả năng gánh vác không
chỉ việc đạo mà cả việc nước việc dân. và đã thể hiện được tài năng
nhiều mặt của mình. Không chỉ trong lĩnh vực sinh hoạt Phật giáo mà cả
trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao. Điều này chứng tỏ nền giáo dục
Việt Nam và
Khuông Việt, trong thời gian theo học tại chùa Khai Quốc, đã được
Thiền sư Vân Phong dạy những gì hiện không ai biết, và tiểu sử của Vân
Phong cũng không ghi nhận có dấu tích nào. Tuy nhiên, quan điểm học
thuật của Vân Phong, dẫu có nằm trong dòng chủ lưu của tư tưởng thiền,
xoay quanh những vấn đề như sống chết, nhưng đã đưa ra những kiến giải
mới phù hợp với hệ tư tưởng thiền của dòng thiền Pháp Vân. Đó là, muốn
tránh khỏi sống chết thì hãy ở trong sống chết mà nắm lấy. Nói cách
khác, không có chỗ không sống chết bên người sống chết để cho người ta
tìm thấy được. Chính trong chỗ sống chết người ta mới tìm được sự không
sống chết.
Đây rõ ràng phản ảnh tư tưởng "Tây thiên cõi này, cõi này Tây thiên"
và quan điểm "Phật ở khắp mọi nơi" của Cảm Thành. Nếu suy rộng ra, thì
đây cũng là tư tưởng trong kinh Kim Cương mà Thanh Biện đã đề xuất. Đó
là "tất cả pháp đều là Phật pháp". Xuất phát từ một học lý như thế,
người ta mới có thể dễ dàng ung dung tham dự vào mọi sinh hoạt của cuộc
đời, coi sự hoàn thành việc đời như một chứng tích cho sự hoàn thành
việc đạo. Người ta không thể tìm có một thế giới giác ngộ nào khác bên
ngoài cuộc đời này. Nói một cách hình ảnh, thì lửa có sẵn trong cây,
vấn đề là làm sao cho cây bật ra lửa.
Triết lý hành động của Khuông Việt như thế dựa trên một nhận thức
luận coi cuộc đời là nơi mình có thể giải thoát được bằng chính nhận
thức của mình. Thế giới giác ngộ cũng như hành động của Phật giáo không
nằm bên ngoài cuộc đời, và con người không cần đi tìm bất cứ một thế
giới nào khác. Điều này giải thích cho ta tại sao Khuông Việt đã ung
dung tích cực tham gia vào việc nước việc dân và có những đóng góp to
lớn cho sự nghiệp bảo vệ độc lập của tổ quốc.
Khi đã rời nhiệm vụ Tăng thống và những chính sự khác, Đại sư đã trở
về mở trường ở chùa Thanh Tước núi Du Hý của quận Thường Lạc. Tại đây,
"học trò tìm tới đông đảo". Dù vậy, Khuông Việt đã không quên ngôi chùa
lịch sử của thầy mình, đó là chùa Khai Quốc. Sư cũng thường lui tới
giảng dạy tại trường giảng của chùa này. Sử sách đã ghi lại cho ta một
người có thể bước theo bước chân của thầy mình, đó là thiền sư Đa Bảo,
người có ảnh hưởng đến sự việc lên ngôi của Lý Công Uẩn.
Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi: "Thế nào là chung thủy của
sự học đạo". Sư đáp: "Thủy chung không vật, diệu hư không. Hiểu được
chân hư, thể tự đồng"5.
- Bảo tiếp: "Làm sao đảm bảo được?"
- Sư đáp: "Không có chỗ cho nguời xuống tay."
- Bảo nói: "Hòa thượng nói xong rồi."
- Sư lại hỏi: "Ngươi hiểu gì."
- Bảo bèn hét lên.
Ngày 15 tháng hai năm Thuận Thiên thứ 2 (1011), khi sắp cáo tịch, Sư dạy Đa Bảo kệ rằng:
- Mộc trung nguyên hữu hoả
- Hữu hoả, hoả hoàn sinh
- Nhược vị mộc vô hoả
- Toản toại hà do manh.
|
- Trong cây vốn có lửa
- Có lửa, luẳ mới bừng
- Nếu bảo cây không lửa
- Cọ xát do đâu bùng.
|
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất, thọ 82 tuổi5...
Chú thích
- Bài này lấy từ sách Thiền Uyển tập anh, ghi nguyên văn là Ngô Thuận
Đế. Trong sách in có chú thích Thuận đế chính là Tiền Ngô vương Quyền,
dù ông chưa từng xưng đế nhưng không biết vì sao ở đây lại gọi như vậy.
Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam thì sư Khuông Việt vốn tên là Xương Tỷ, con
Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập.
Thọ giới Cụ túc, tức nhận lấy đầy
đủ những kỷ luật chi phối đời sống cá nhân và đời sống tập thể của tổ
chức Phật giáo. Thường thường, những kỷ luật ấy gồm số những điều luật,
mà tùy theo tôn phái và nam nữ, có thể bắt đầu từ khoảng hai trăm mấy
chục giới cho đến 500 giới, dùng cho đời sống cá nhân. Khi một người
nào chịu nhận số những điều luật đó, họ được gọi là Tỳ kheo nếu là đàn
ông, hay Tỳ kheo ni nếu là đàn bà, và họ là những người đã thọ Cụ túc
giới. - Địa danh Bình Lỗ xuất hiện xưa nhất trong Việt sử Toàn thư trong
trận đánh vào tháng 5 năm 1141. Ngày nay tại huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh
Phú ta có một làng tên Phù Lỗ. Quận Bình Lỗ có thể rơi vào khoảng đất
huyện Kim Anh ngày nay.
- Đại Việt sử lược ghi: "Năm Thái Bình thứ hai (971) đặt phẩm trật
cho quan văn quan võ, thầy tu và đạo sĩ". Việt sử Toàn thư cũng ghi:
"Năm Thái Bình thứ 2 hai bắt đầu định phẩm cho văn võ Tăng đạo", nhưng
còn thêm: "Tăng thống Ngô Chân Lưu được vua ban hiệu là Khuông Việt đại
sư". Đây là lần đầu tiên chức Tăng thống được nói đến trong lịch sử của
Việt Nam.
- Tạm dịch: Vốn không có thủy, không có chung, chỉ có hư không là kỳ
diệu - Nếu hiểu thấu chân như (thực tại) thì sẽ rõ vạn vật có cùng tâm
thể với chân như.
- Có tài liệu ghi Thiện sư Khuông Việt thọ 79 tuổi.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia / Vĩ Nhân Online