với tư cách là một Thiền sư Việt Nam mang quốc tịch Mỹ, đã được Hội đồng
Trị sự TW.GHPGVN, Ban Hoằng Pháp Trung ương Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, thỉnh Ngài vào Ủy viên Ban Hoằng Pháp Trung
Ương GHPGVN, được Giáo hội thỉnh vào trong Ban Giáo Thọ sư, giảng tại các Khóa
Bồi Dưỡng Hoằng pháp ngắn hạn cho các tỉnh miền Trung tổ chức tại Bình Định,
cho các tỉnh Miền Nam tại Văn Phòng 2 Trung Ương Giáo Hội PGVN và Khai thị cho
các Đại giới đàn, trường Phật học khắp nơi . . .
Thiền Sư Thích Duy Lực, Ngài biện tài vô ngại, tùy duyên hóa độ
và tận tụy với hoằng pháp lợi sanh, chẳng kể gian lao, không từ khó nhọc. Người
xưa có nói “Bồ Tát dĩ lợi sanh vi bổn hoài,” thật khế hợp với Ngài
biết bao. Hóa duyên ký tất, Ngài an tường xả báo thân và thể nhập Chân Tánh vào
lúc 01 giờ 30, ngày 02 tháng 12 năm Kỷ Mão (08.01.2000) giờ Việt Nam, trụ thế
77 năm. Nhưng Pháp thân của Ngài mãi thường trú và phổ chiếu khắp muôn phương.
Nay xin trích một
đoạn trong khóa Bồi dưỡng Giảng sư miền Trung, tại Thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình
Định để chúng ta cùng nhau tham khảo:
THIỀN SƯ
DUY LỰC KHAI THỊ (13 – 4 – 1999)
KHÓA BỒI
DƯỠNG GIẢNG SƯ TẠI CHÙA LONG KHÁNH Tp. QUY NHƠN (BÌNH ĐỊNH)
Tâm là gì?
Nguồn gốc Phật pháp
là Tâm, ai cũng nói được, mà chẳng có ai biết, vì Chân Tâm vô hình vô tướng
không có số lượng, mọi người đều sẳn có. Chư Phật nói Tâm như hư không vô sở
hữu; Tổ sư thứ 14 Thiền tông là Ngài Long Thọ có giảng trong Trí Độ Luận; trong quyển : “Phật Pháp Với Thiền Tông”, tôi
có giải thích.
Ngài Long
Thọ nói: “Tâm như hư không vô sở hữu”. Vô sở hữu là không có hư không, mà dung
nạp và ứng dụng, ấy là cái thực dụng. Như bây giờ nhà cửa đất đai, cây cối, núi
sông đều phải nhờ vô sở hữu này dung nạp và ứng dụng, nhưng hiện nay, các
vị ngồi đây cũng nhờ vô sở hữu mới có chỗ ngồi.
Vô sở hữu
tức là trống rỗng, Phật pháp nói là Tánh Không, vì trống rỗng mới hiện bày cái
dụng. Tâm mình trống rỗng, không bị thời gian không gian hạn chế, nên tất cả vũ
trụ vạn vật đều ở trong đó. Nhưng cái thông minh của bộ não làm hạn chế lại,
như cái tách bít lại là cái tách chết không dùng được, cái bình nầy cũng vậy,
nó có cái KHÔNG mới đựng nước được. Tất cả các thứ muốn dùng đều phải nhờ cái
KHÔNG.
Ngài Long
Thọ nói: “Trống rỗng mới dùng được, nếu không trống rỗng thì không dung nạp và
không dùng được”. Như cái tách bị bể thì không còn dùng được, còn hư không
trống rỗng thì không bị thời gian, không gian hạn chế. Cái tách bị không gian
thời gian hạn chế, nếu cái gì có thể tiêu mất thì không chân thật.
Có và Không
là phân biệt của bộ não, vì Có và Không là nhị biên tương đối, Phật pháp không
có tương đối. Trong Trung Quán Luận phủ định tương đối. Có là pháp Hữu vi, Không
là pháp Vô vi. Trong đó phẩm Quán Như Lai, Quán Niết Bàn đều phá pháp Vô vi.
Quán Nhân Duyên, Quán Khứ Lai,… đều phủ định pháp Hữu vi.
Phàm có
tương đối đều bị phủ định. Vì sao lại phủ định ? Vì nó không phải thực tế, thực
tế thì không có tương đối; nhưng cuộc sống hằng ngày đều phải nhờ tương đối,
cũng như mình hiện giờ ở trong mở mắt chiêm bao.
Trong biểu
đồ Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 (do tôi biên soạn), có 2 bộ phận: “Thật thể và Hư thể,
ở chính giữa là Diệu giác. Diệu giác là cái biết cao nhất”. Vừa rồi tôi
nói: “Trống rỗng mới dung nạp tức là Tánh Không, Không này chẳng phải cái không
chết, không này có cái biết cao nhất của Diệu giác. Cái biết này không phải cái
biết của bộ não, cái biết bộ não gọi là Vọng tâm. Còn cái biết chuyển thành trí
gọi là Chân tâm. Thức chưa chuyển thành Tứ trí thì nó hợp tác với hệ thống thần
kinh bộ não, tức là lục căn (2) gọi là Vọng tâm. Cuộc sống hằng ngày ở trong Vọng
tâm, vì mình ở trong chiêm bao.
Triết Học,
Tự Nhiên Khoa Học, Y Học, Tâm Lý Học; 4 thứ hợp lại giải quyết cơ thể của mình
chưa đầy đủ. Tại sao? Vì họ không phân biệt được lục căn, lục thức. Lục căn đảm
nhiệm chức vụ gì? Lục thức đảm nhiệm chức vụ gì? Tất cả đều không rõ mà chỉ
biết bộ não. Thức thứ 6 và thức thứ 7 thì hoàn toàn không biết, cho nên họ giải
thích không thông, như các giáo sư trường đại học, nghi thiếu cái gì nhưng
không biết.
Quyển Vũ Trụ
Quan Thế Kỷ 21 tôi giải thích rõ và đầy đủ hơn 4 đại học hợp lại. Duy Thức nhà
Phật diễn giải thông suốt tất cả. Trong thật thể biểu đồ: “Nhãn căn như cây đèn
đảm nhiệm sự chiếu soi, nhãn thức thì phân biệt. Tức là nhờ nhãn căn chiếu soi
thấy chậu bông thì nhãn thức mới nhận ra màu trắng, đỏ, vàng, xanh; đồng thời
có thức thứ 6 để giúp. Nhãn căn chiếu soi hiện cái hình ra, còn nhãn thức phân
biệt cái hình gì, thức thứ 6 phân biệt đầy đủ hơn; nhãn thức chỉ phân
biệt cố định, thức thứ 6 có tánh khả biến. Vì tánh khả biến bao gồm tam tánh:
Thiện, ác và vô ký. . .”
Tam tánh gồm
có: Biến kế chấp, Y tha khởi và Viên thành thật. Thiện ác thì người nào cũng
biết, nhưng không có rõ, không có tiêu chuẩn. Tôi muốn hoằng dương Phật pháp với
người tây phương, nên mới nói có tiêu chuẩn. Thế nào gọi là thiện? Thế nào gọi
là ác? Trong cuốn Vũ Trụ Quan tôi có giải thích kỹ.
Đã nói nhãn
căn rồi, thì các căn kia cũng như vậy; chỉ có ý căn nhiều người chưa hiểu; ý
căn đảm nhiệm suy nghĩ, còn ý thức theo đó phân biệt thiện, ác… ý căn và ý thức
khác nhau.
Thức thứ 7
có 2 nhiệm vụ:
-Ngày đêm chấp
thức thứ 8 là TA (thức thứ 8 là Bản thể của vũ trụ, là bao gồm tất cả các chủng
tử vũ trụ, cũng là Bản thể của Tâm mình. Đầu thai đến trước và chết đi sau cùng
là do thức này).
-Truyền tống thức:
Đem chủng tử thiện nghiệp, ác nghiệp của thức thứ 6 hay không thiện không ác
truyền vô thức thứ 8 (còn gọi là Tạng thức hay kho tàng), khi nào chủng tử chín
mùi, thì nó truyền ra giao cho thức thứ 6 đi thi hành. Cái nào tâm lực mạnh thì
cái quả đến trước, cái nào tâm lực yếu thì cái quả đến sau, có khi kiếp này tạo
cái nhân, kiếp sau mới nhận cái quả, hoặc là 10 kiếp, 100 kiếp mới nhận cái
quả.
Nếu tu Tổ Sư
Thiền, tăng cường sức mạnh của tâm, tức là tạo nhân mạnh thì quả đến liền. Mặc
dầu tạo nhân ác nhiều kiếp trước, nhưng nó yếu hơn nên quả đến sau. Ví dụ như
tạo nhân là 1 độ, mà tham thiền 10 độ thì quả tham thiền đến trước, đến hết rồi
thì tới quả 9 độ, 8 độ, cuối cùng đến quả 1 độ.
Nếu tham
thiền được 10 độ, mà không ngưng tham lại tiến thêm 100 độ, 1000 độ, 1000000 độ
cho đến thành Phật thì cái nhân ác không có cơ hội đến được. Thành Phật rồi
phải độ chúng sanh nào có nhân duyên. Trong kinh Kim Cang nói: Tiền thân Phật
Thích Ca bị Ca Lợi Vương xẻ thân ra từng miếng, mà Phật Thích Ca lại độ ông ấy
trước. Ca Lợi Vương sau này là tôn giả Kiều Trần Như.
Bất cứ chủng
tử thiện ác, một khi đã chín mùi thì cái quả mới đến, nhân yếu dời lại sau,
nhân mạnh thì đến trước. Cho nên tự mình có thể sửa đổi nhân quả, nhưng người
khác không sửa được. Như ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ, ngài đã chứng quả A
La Hán được đệ nhất thần thông, nhưng không cứu được cái nghiệp mẹ ngài là bà
Thanh Đề; phải nhờ tâm lực của1250 vị Tỳ Kheo A La Hán hợp lại mới chiêu cảm được
tâm bà Thanh Đề, rồi tâm bà tự chuyển ra khỏi cõi ngạ quỷ.
Nhân quả là
vậy! Ai ăn người nấy no, con cái có hiếu không ăn no dùm cho cha mẹ, cha mẹ
thương con cách mấy cũng không ăn no dùm cho con.
Hỏi:
Thiền là một pháp môn tương đối khó thực
hiện trong hiện tại, vậy cúi mong Hòa thượng dạy cho phương pháp dễ thực hiện
nhất, mà vẫn đạt như sở nguyện?
Đáp:
Phương pháp Tổ Sư thiền rất dễ tu, chỉ hỏi câu thoại và nhìn thoại đầu. Tham là
hỏi câu thoại, để kích thích lên một niệm không biết; Khán là Nhìn, Nhìn chỗ
không biết, nhưng chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có
mục tiêu để nhìn, không có mục tiêu để nhìn, thì nhìn mãi không thấy gì vẫn còn
không biết; chính vẫn còn không biết đó, Thiền tông rất chú trọng gọi là nghi
tình, tức là cái không biết; hỏi và nhìn, hai cái song song đi một lượt, vừa
nhìn để giữ cái không hiểu không biết, tức là nghi tình để đưa hành giả đến
thoại đầu, rồi kiến tánh thành Phật.
Ví dụ chỗ
trên cây viết là thoại đầu, ở dưới là thoại vỉ. Bắt đầu hỏi và nhìn là rời khỏi
thoại vỉ, nhưng chưa đến thoại đầu là đang đi ở giữa đường. Vì mục đích của
mình là muốn đến thoại đầu, cho nên gọi là tham thoại đầu hay khán thoại đầu.
Phật Thích
Ca dạy dùng không biết của bộ não, để chấm dứt cái biết của bộ não. Tất cả biết
bộ não chia ra làm 3 bộ phận: Tìm hiểu biết, Ghi nhớ biết và Tùy duyên biết. 3
cái biết này hết thì sẽ đến thoại đầu, Thiền tông gọi là đầu sào trăm thước, có
người dịch là đầu sào trăm trượng, chỗ này cũng gọi là nguồn gốc của ý thức,
ngài Nguyệt Khê Thiền sư nói là Vô thỉ vô minh, tức là Căn bản vô minh.
Tại sao còn
có vô minh? Vì còn không biết của bộ não, nên sát na cuối cùng của đầu sào trăm
thước tiến lên một bước lìa khỏi ý thức, thì biết và không biết của bộ não đều
sạch, cái biết Phật tánh hiện ra khắp không gian và thời gian.
Khắp không
gian tức là trống rỗng nên gọi là Tánh Không, khắp không gian không có khứ lai
nên gọi là Như Lai. Khắp thời gian không có gián đoạn, chẳng có sanh diệt nên
gọi là Niết Bàn. Vì không sanh không diệt nên trống rỗng, không có chỗ trụ gọi
là Vô Sở trụ. Lục Tổ Huệ Năng nghe Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giảng Kinh Kim Cang đến
câu: “Ưng Vô Sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” rồi ngộ triệt để.
Cái tay nắm
mở, muốn lấy gì cũng được gọi là hoạt bát vạn năng, vì nó không có trụ, tức
không nắm hẳn một nắm tay cố định. Nếu nắm hẳn lại thì cái hoạt bát vạn năng bị
mất, không thể cầm lấy cái gì nữa.
Cái không
biết của nghi tình là cái chổi tự động (Automatic) quét tất cả biết và không biết
của bộ não, khôi phục hoạt bát vạn năng của Bản Tánh, nên sử dụng việc gì cũng
thông. Như cái tay tự làm nắm tay, thì trụ nơi nắm tay cũng không lấy cái gì
được, nên không trụ nơi nắm tay, mới có được hoạt bát vạn năng, muốn lấy gì
cũng được.
“Ưng vô sở
trụ, nhi sanh kỳ tâm”, Ưng là nên, Vô sở trụ là không có chỗ trụ. Sanh kỳ tâm
là cái dụng, tức muốn dùng phải Vô sở trụ, nếu có Trụ thì không dùng được; mặc dù
Trụ nơi có, Trụ nơi không, hay bất cứ Trụ nơi nào đều không được; như Trụ nơi
Phật, Trụ nơi Bồ Tát đều bị chướng ngại, không hiện ra cái dụng hoàn toàn.
Hỏi:
Lục căn tiếp xúc lục trần, làm sao lục
thức không bị đắm nhiễm?
Đáp:
Tông Tịnh Độ dùng Ngài Đại Thế Chí Bồ tát trong kinh Lăng Nghiêm làm
gương mẫu, có nói “thâu nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”. Nếu nhiếp được
nhãn căn không phân biệt tốt xấu, vì thấy tốt ham thích, thấy xấu chê bai;
nhiếp được nhĩ căn thì không phân biệt tiếng hay dở, khen không mừng, chê cũng
không tức giận.
Nhiếp được
lục căn thì tịnh niệm mới được tương tục. Tức là niệm trong sạch không có niệm
nào khác. Nếu nhiếp không được thì có tương đối, có lúc thương lúc ghét, ham
thích, khen chê. Vậy làm sao có niệm trong sạch được! Tất cả các pháp môn tu
đều như vậy.
Tham thiền (Tham
câu thoại đầu) trạng thái không hiểu không biết (nghi tình) thì đã nhiếp được
lục căn. Không biết tốt thì không ham thích, không biết xấu thì không chê. Nếu
dùng cái biết để tu thì khó hơn, dùng cái không biết để tu thì dễ hơn. Cái
không hiểu không biết gọi là pháp Thiền trực tiếp.
Có người hỏi
tôi: Nếu dùng cái không biết để tu tới thoại đầu thì sắp kiến tánh, có phải sắp
biết không?
Tôi nói:
không phải, không được nói là sắp biết.
Người ấy
hỏi: Nếu không được nói là sắp biết, như vậy có giống như gỗ đá không?
Tôi nói:
Cũng không phải, vì cái biết Chơn Tâm không bao giờ ngưng, nếu có ngưng rồi trở
lại biết thì nói là sắp biết được. Nó không bao giờ ngưng, làm sao nói là sắp
biết! Người đó không hiểu, vì cứ dùng bộ não, làm sao biết được Chơn Tâm?
Tôi đổi lại
câu hỏi: Trời gần sáng thì mặt trời sắp chiếu, vậy có được không? Không
được, không được nói mặt trời sắp chiếu! Tại sao? Vì mặt trời có ngưng
chiếu hồi nào, mà nói mặt trời sắp chiếu! Trời sáng, mặt trời đâu có bắt đầu
chiếu. Bây giờ nó cũng đang chiếu, vì không thấy mặt trời là do bị trái đất hay
mây đen che khuất, đâu phải nó bị ngưng chiếu!
Cái biết
Chân Tâm của mình cũng vậy, nó không có ngưng biết, vì bị che khuất bởi biết và
không biết của bộ não. Cho nên, Phật dùng phương tiện không biết của bộ não, để
dẹp cái biết che khuất của bộ não thì mới đến thoại đầu. Chứ không phải cái biết
của Chân Tâm bị ngưng, nếu cái biết Chơn Tâm bị ngưng thì bị sanh diệt luân
hồi, Kiến tánh thành Phật đâu có ích lợi gì!
Bản Tâm của
mình không có sanh diệt, nên Phật gọi là Vô thỉ (không có bắt đầu) cũng là
nghĩa Vô sanh (không có sự sanh khởi). Nếu có sự sanh khởi là có sự bắt đầu.
Vậy, người chứng quả là ngộ pháp Vô Sanh hay chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Theo lý
toán học không có con số nhỏ nhất và cũng không có con số lớn nhất, các nhà
giỏi toán cũng biết không có con số nhỏ nhất, vì đem chia mãi không có hết.
Trong quyển
toán học của Hồng Kông nói: Con sâu dép cỏ nhỏ bằng một đơn tế bào, cách ngày
đêm nó sanh ra làm hai; như ngày nay 1 con, ngày mai thì 2 con, ngày mốt thì 4
con… cứ như thế trải qua 90 ngày đêm thì thể tích bằng một mét khối, cho đến
130 ngày đêm thì thể tích bằng quả địa cầu, nếu một ngày nữa thì 2 quả địa cầu.
Ngược lại,
đem quả địa cầu xẻ ra, xẻ đến 130 ngày đêm thì khôi phục con sâu dép cỏ. Nếu
lấy toán học đem con sâu xẻ thêm 130 lần nữa, thì thịt con sâu mình có thể biết
không? Cứ theo toán học như vậy mà đến trăm lần 130, ngàn lần 130, nhưng vẫn
thấy con số để biểu thị thịt con sâu dép cỏ. Nhưng thực tế còn có thịt con sâu
dép cỏ đó không? Có chia nữa thì con số vẫn còn mãi.
Nếu đem con
sâu đó làm đơn vị 1, thêm trước số 1 là số “0.” thì nó nhỏ 10 lần, rồi thêm số
0 sau “0.” thì nhỏ thêm 10 lần nữa, cứ thêm như thế, dài bằng một quả đất, hai
quả đất… con số cứ nhỏ nhưng không có hết.
Cái gì nhỏ
nhất có thể dùng kính hiển vi mới thấy được. Giả thiết khoa học cải tiến kính
hiển vi, còn nhanh hơn mình thêm con số 0 thì cũng có thể nhìn thấy thịt con
sâu đó. Nhưng thịt con sâu đó chưa phải thực tế. Tại sao? Vì còn phân chia được
nữa.
Vậy, biết
định lý toán học không thể tìm sự bắt đầu. Nên Phật nói: “Vô thỉ, bất khả đắc”
gọi là Vô Sanh. Nhà khoa học dùng toán tìm sự bắt đầu của sanh mạng và vũ trụ,
có phải si mê không? Nói nhà khoa học si mê thì không có được. Vì khoa học tạo
hạnh phúc cho con người.
Hỏi:
Mấy mươi năm thực hành thiền, Hoà thượng có tâm đắc điều gì của mình và có suy
nghĩ gì sự truyền bá trong giai đoạn phát triển của xã hội, có thuận nghịch gì
không?
Đáp:
Vì sự Hoằng pháp cũng làm sự chướng ngại việc tu của tôi. Tại sao? Vì bắt đầu
ra Hoằng dương Tổ Sư thiền, người ta hỏi tôi thì tôi phải biết. Nếu tôi không
biết thì sao người ta tin tôi được! Bất cứ người ta hỏi cái gì thì tôi phải
biết. Bây giờ, tình hình xã hội kinh tế… tôi phải biết, chính cái đó làm chướng
ngại việc tu. Đã dùng cái không biết để tu, mà lại dùng cái biết mãi, vậy làm
sao không bị chướng ngại?
Nhưng tôi hy
vọng các vị Kiến tánh trước tôi, như trong Thiền tông có: Ngài Thần Tán Kiến
tánh, mà thầy của ngài chưa Kiến tánh. Nên thầy của Ngài đảnh lễ xin làm đệ tử
ngài.
Thích Vân Phong
biên tập