Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
8 vị Tỳ kheo Ni đặc biệt nhất thời Hai Bà Trưng
07/03/2013 19:03 (GMT+7)

Họ đã thể hiện thật đặc sắc tinh thần người phụ nữ Việt Nam là giặc đến nhà, đàn bà phải đánh. Dứt khoát là vậy, không thể khác và không thể chần chừ.


Công chúa Bát Nàn

Bà họ Vũ, ở làng Phượng Lâu, huyện Kim Động, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Thân phụ của bà là thầy thuốc làm nhiều việc phước đức. Bà nổi tiếng là phụ nữ xinh đẹp và giỏi võ nghệ. Vì vậy, Thái thú Tô Định đã sai quan quân đến bắt bà về làm hầu thiếp. Thân phụ và vị hôn phu của bà đã bị chúng giết chết. Nhờ giỏi võ, bà đã cầm song đao chống cự, nhưng vì thế cô, bà đã bị thương. Nhưng bà cũng đã phá được vòng vây và chạy đến chùa xã Tiên La, huyện Diên Hà (nay là xã Tiên La, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Vị sư trụ trì biết trước việc này qua điềm mộng, nên đã che giấu bà và làm lễ quy y cho bà tu ở chùa.

Khoảng năm 36-39, Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Hán. Cũng mang chí lớn là trả thù nhà và nợ nước như hai nữ Vương, Bà đã triệu tập được một đạo nữ binh đến 3.000 người, đánh giặc giỏi, bà được cử làm Tướng tiên phong. Sau đó, bà lập được nhiều chiến công, nên được phong là Tướng quân Bát Nàn (nghĩa là tướng quân dẹp nạn). Năm Canh Tý (40), Hai Bà Trưng chiếm lại 65 thành của Lạc Việt, giành độc lập cho nước nhà và lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh. Bà đã được Trưng vương thương mến, ban thưởng công trạng, nên phong cho nữ tướng Bát Nàn làm Công chúa.

Mặc dù được sống trong cảnh giàu sang nhung lụa, nhưng nhờ căn lành sâu dày với Phật pháp, Công chúa Bát Nàn lại nhớ đến nghĩa lý sâu xa của Phật pháp mà bà đã từng tu hành lúc còn ẩn thân nương náu ở chùa. Với thì giờ rảnh rang suy tư, quán tưởng, bà đã trực nhận được lý đạo, nên quyết tâm xin từ quan để tiếp tục tu hành. Công chúa đã xuất gia trở lại ở chùa xã Tiên La.

 Ngày nay, Tỳ kheo Ni vẫn giữ được những nét truyền thống của Tỳ kheo Ni thời xưa - Ảnh minh họa

Sau nhiều năm tu hành miên mật và hoằng pháp độ sinh, Công chúa Bát Nàn đã viên tịch ở chùa Tiên La. Dân chúng ở xã này thương mến và nhớ ơn bà, đã lập đền thờ; hàng năm đều mở lễ hội vào ngày 16/3 Âm lịch, dân chúng về cúng rất đông. Tục truyền rằng bà tu hành đắc đạo, nên dân chúng cầu nguyện bà đều được linh ứng. Ở tỉnh Thái Bình hiện nay vẫn còn hàng chục ngôi đền thờ bà.

Bà Thiều Hoa

Bà sinh ngày 2/1 năm Quý Tỵ (năm 3, sau Tây lịch), quê ở vùng động Lăng Xương (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), một vùng đất nổi tiếng linh thiêng từ thời Hùng Vương. Cha của bà là Hoàng Phụ và mẹ là bà Đào Thị Côn. Bà cũng nổi tiếng đẹp, hiếu hạnh và giỏi võ thuật. Lúc 16 tuổi, nhiều gia đình muốn rước bà về làm dâu, nhưng bà Thiều Hoa từ chối vì rất có hiếu, chỉ muốn ở kề cận săn sóc cha mẹ già. Mấy năm sau, cha mẹ bà qua đời, bà liền xin tu học ở chùa Phúc Khánh, làng Hiền Quang (thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay).

Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, bà Thiều Hoa đã dẫn 500 quân về dự lễ Hội thề Xuất quân. Cũng giống như Công chúa Bát Nàn, khi Hai Bà Trưng đánh thắng quân Hán, nữ tướng Thiều Hoa đã xin từ quan, trở lại chùa tu hành. Trưng Vương đã hỗ trợ bà trong việc trùng tu chùa Phúc Khánh. Bà cũng rất tinh tấn hoằng truyền Phật pháp.

Năm sau, bà mất tại chùa Phúc Khánh. Trưng Vương truy phong bà làm “Phù Vương Công chúa” (nghĩa là công chúa phò giúp vua) và cho lập đền thờ bà. Từ đó, mỗi năm vào ngày mùng 2 Tết Âm lịch là ngày sinh của bà, dân làng tổ chức lễ hội kỷ niệm công đức của bà.

Bà Vĩnh Huy

Quê của bà ở huyện Đông Triều, trấn Hải Dương. Mới 16 tuổi, bà Vĩnh Huy đã theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Hán. Sau khi Hai Bà Trưng thua trận, tuẫn tiết, bà Vĩnh Huy đã ẩn tu ở chùa làng Cổ Châu (làng Dâu), huyện Tiên Du, trấn Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh).

Nữ tướng Phương Dung

Bà Phương Dung và hai người con nuôi là Trung Vũ và Đài Liệu đã theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Hán. Năm 40, Hai Bà Trưng giành được độc lập cho dân tộc, lên ngôi vua, Trưng Vương phong cho bà Phương Dung làm Công chúa, Trung Vũ làm Tả Tướng quân, Đài Liệu làm Hữu Tướng quân.

Năm 43, quân Hán lại sang xâm lăng nước ta, Hai Bà Trưng thua trận và tuẫn tiết. Công chúa Phương Dung trở về ẩn tu ở chùa Thanh Vân, trang Yên Phú, huyện Thanh Đàn, trấn Sơn Nam (nay là thôn Yên Phú, xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Sau khi bà mất, dân làng thờ bà ở chùa Thanh Vân (Thanh Vân cổ tự). Trung Vũ và Đài Liệu cũng được dân chúng thờ làm thần Thành hoàng của làng (giỗ ngày mùng 7 tháng 11 Âm lịch).

Hai nữ tướng Nguyệt Thai và Nguyệt Độ

Nguyệt Thai và Nguyệt Độ là hai chị em sinh đôi. Mẹ của hai bà là Tống Nga tu ở chùa Thiên Thai trên núi Đông Cứu, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, trấn Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Khi hai Bà mới 16 tuổi thì mẹ qua đời, Nguyệt Thai và Nguyệt Độ vẫn tiếp tục sống ở chùa Thiên Thai.

Nguyệt Thai và Nguyệt Độ đã mộ tập được 1.000 nam nữ nghĩa binh theo Hai Bà Trưng kháng chiến. Hai bà là nữ tướng nổi danh trong trận đánh ở làng Me.

Sau khi Hai Bà Trưng thua trận và tử tiết, hai bà Nguyệt Thai và Nguyệt Độ đã về ẩn tu trên núi Yên Tử (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Dù hai nữ tướng đã viên tịch ở núi Yên Tử, dân làng Me vẫn lập miếu thờ hai Bà. Mỗi năm, vào ngày sinh của hai Bà (mùng 10 tháng Giêng Âm lịch) và ngày mất (mùng 8 tháng 5 Âm lịch), dân làng đều mở lễ hội để tưởng niệm ở Miếu Cổ tại làng Me, nay là xã Mỹ Thử, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

Công chúa Chiêu Dung

Công chúa tên thật là Lý Thị Ngọc Ba, chồng của bà là Đặng Thanh, quê ở quận Cửu Chân, sau về ở vùng Đất Cốc. Hai ông bà có 5 người con trai đều quyết tâm chống giặc Hán.

Sau khi chồng chết, bà cùng 5 người con tiếp tục chống giặc ở vùng phía Tây sông Đáy. Bà cùng con trai trưởng đóng quân ở giữa làng Cốc, đồn tiền tiêu đóng ở Cốc Thượng do Đặng Nghiễm và Đặng Liễu chỉ huy, đồn Cốc Hạ do Đặng Diên và Đặng Tiên trấn thủ.

Bị quân Hán tấn công tiêu diệt căn cứ Đất Cốc, bà Ngọc Ba và các con phải rút lui, về ẩn trú ở chùa Hương Lang. Được Thiền sư Đạo Uẩn che giấu, mẹ con Bà ban ngày tụng kinh niệm Phật, ban đêm vẫn luyện tập võ nghệ.

Sau đó, bà và các con cùng thuộc hạ đã quy tụ về tham gia kháng chiến và phát triển căn cứ ở Đất Mới dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Sau khi giành lại độc lập cho nước nhà, Trưng Vương đã phong cho bà Ngọc Ba làm Công chúa Chiêu Dung cai quản đội nghĩa binh và căn cứ Đất Cốc. Đến khi Hai Bà Trưng thua trận, Công chúa Chiêu Dung đã về ẩn tu, học đạo với Thiền sư Đạo Uẩn ở chùa Hương Lan, vùng Đất Cốc, nay thuộc xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây.

Nữ tướng Hương Thảo

Bà xuất thân nhà nghèo, nhưng rất khỏe mạnh, tên thật là Thảo. Trong phong trào khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, bà đã theo nữ tướng Thánh Thiên đánh giặc, lập được nhiều chiến công, nên được ban cho tên hiệu là Hương Thảo.

Nữ tướng được giao cai quản đội nữ quân chuyên nuôi voi trận và ngựa chiến. Bà tổ chức những nông trại trồng cỏ ở vùng đồng bằng châu thổ ở Bích Tràng. Bà thường đến cúng dường và lo trùng tu chùa Cỏ ở vùng đó.

Khi Mã Viện đem quân sang thôn tính nước ta lần thứ hai, nữ tướng Hương Thảo đã tổ chức một trận hỏa công lớn ở Bích Tràng, tiêu diệt được nhiều tướng sĩ giặc; nhưng sau cùng, bà cũng đã tử trận. Dân làng đã thờ cúng nữ tướng Hương Thảo ở chùa Cỏ.

Trước cảnh cai trị bạo tàn của quân Hán, gây ra sự lầm than, đau khổ, chết chóc, tủi nhục cho dân tộc Lạc Việt, người phụ nữ chân yếu tay mềm đã chuyển đổi được sự yếu mềm của họ thành ý chí dũng cảm đáng nể, thành những chiến thắng hào hùng vô cùng đáng kính.

Trở về chùa tiếp tục nếp sống tu hành cao quý, không màng bổng lộc, lợi danh, quả là hình ảnh tuyệt đẹp của hàng nữ lưu Ni giới và nữ cư sĩ Phật tử Việt Nam ở thời Bắc thuộc. Đó cũng chính là hình ảnh của các vị Bồ tát hiện hữu trong cuộc đời như hoa sen xinh đẹp, tỏa hương thơm ngát cho đời, chẳng hề bị mùi tanh của danh lợi làm nhơ bẩn.

(Bài viết khai thác và sử dụng tư liệu của Hòa thượng Thích Trí Quảng)

Phương Bối

Các tin đã đăng:
Về đầu trang