Thật
vậy, ngọn lửa tự thiêu ngời sáng tinh thần Bi Trí Dũng của Bồ tát Quảng
Đức đã khiến cho nhân dân thế giới phải kinh ngạc, phải xúc động và
khen ngợi vô cùng. Ngọn lửa tự thiêu của Ngài cũng tỏa sáng cho các dân
tộc thế giới biết đến sự hiện hữu kỳ vĩ của Phật giáo Việt Nam cộng tồn
trong một đất nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến.
Và hơn thế nữa, ngọn lửa tự thiêu của Bồ tát Quảng
Đức còn gióng lên hồi chuông ngân vang sức mạnh của sự kham nhẫn, một
sức mạnh phi thường và kỳ diệu. Đức Phật đã nói đó là điều quan trọng
nhất mà người tu phải trang nghiêm thân tâm mình.
Hồi tưởng lại cuộc đời của Bồ tát Quảng Đức, chúng
ta biết rằng Ngài ra đời và lớn lên xuất gia học đạo ở chùa Long Sơn,
Ninh Hòa, thuộc Nha Trang. Đó là nơi có nhiều danh mộc và đặc biệt nơi
đó còn được gọi là xứ trầm hương. Trầm hương tiêu biểu cho sự cao quý
của đất nước và cũng tiêu biểu cho con người đức hạnh. Đức Phật từng
dạy rằng các loài hương không thể bay ngược gió, chỉ có hương thơm của
người đức hạnh ngược gió bay xa.
Và trên bước đường tu hành, trong suốt 49 năm, Bồ tát Quảng Đức chuyên nghiên cứu và hành trì kinh Pháp Hoa.
Điều đáng trân quý là Ngài đã thấm nhuần sâu sắc tinh thần Bồ tát của
bộ kinh này, tức hiện thân vào đời để làm đẹp cuộc đời. Cho nên, chẳng
những Ngài xây dựng nhiều ngôi chùa ở các tỉnh miền Trung của nước ta,
mà Ngài còn sang Campuchia và Lào để xây chùa. Và đặc biệt, Ngài xây
chùa nhiều nhất ở các tỉnh Nam Bộ. Hơn thế nữa, Ngài đi đến đâu cũng
gieo vào lòng người niềm tôn kính đối với một bậc chân tu thạc đức.
Điểm đặc sắc thứ ba của Bồ tát Quảng Đức trên bước đường hành trì kinh Pháp Hoa,
chúng ta có thể khẳng định rằng Ngài đã thành tựu được sở đắc là Pháp
Hoa Tam muội. Vì vậy, sống trong đời thường như mọi người, nhưng gần
như Bồ tát Quảng Đức đoán định được các việc sẽ xảy ra cho đất nước và
cho Phật giáo. Điển hình là năm 1963, khi Pháp nạn diễn ra dưới chế độ
Ngô Đình Diệm, Ngài đã đến chùa Ấn Quang để gặp gỡ các vị lãnh đạo
trong Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo và xin được tự thiêu để cúng
dường. Bấy giờ, Ngài dám khẳng định rằng chỉ có việc tự thiêu của Ngài
mới chấm dứt được sự khủng bố và đàn áp Phật giáo của chế độ Diệm.
Đến khi cuộc tranh đấu của Phật giáo rơi vào tình
trạng bế tắc, thì Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo mới chấp nhận cho
Ngài tự thiêu. Và quả đúng như lời tiên đoán của Bồ tát Quảng Đức, sau
khi Ngài tự thiêu, hàng hàng lớp lớp Tăng Ni ở các tỉnh đã tập trung về
Sai Gòn để viếng tang Bồ tát và biểu tình phản đối chế độ độc tài Ngô
Đình Diệm.
Sự kiện này đã đẩy phong trào tranh đấu lên đỉnh
cao, khiến Chính phủ Diệm hoảng sợ, đã sử dụng chiến dịch Nước lũ.
Trong đêm 20 tháng 8 năm1963, Chính phủ Diệm dùng toàn bộ lực lượng
cảnh sát và công an tấn công các chùa và bắt giam tất cả Tăng Ni cùng
Phật tử.
Tin tức và hình ảnh Bồ tát Quảng Đức ngồi an nhiên
trong ngọn lửa tự thiêu vào ngày 20 tháng 4 nhuần, năm Quý Mão (1963)
nơi ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng (ngày nay là ngã tư Cách
Mạng Tháng 8 và Nguyễn Đình Chiểu) đã được lan truyền khắp thế giới.
Nhiều tổ chức Phật giáo biểu tình phản đối và kêu gọi Chính phủ Diệm
chấm dứt cuộc đàn áp Phật giáo. Đặc biệt là tiếng nói của ông U Thant,
Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc lúc bấy giờ cũng đã phản đối việc bắt bớ và
tàn sát dã man của Chính phủ Diệm đối với Tăng Ni và Phật tử. Và ngay
cả Ngoại trưởng của chế độ Diệm là giáo sư Vũ Văn Mẫu đã cạo tóc để
hành hương sang Ấn Độ nhằm chiêm bái và kêu gọi nhân dân thế giới phản
đối chế độ độc tài Nhu-Diệm.
Chẳng những tín đồ Phật giáo, mà các tôn giáo khác
trên thế giới và các dân tộc yêu chuộng hòa bình đã đồng loạt ủng hộ
phong trào tranh đấu của Phật giáo Việt Nam.
Ngày hôm nay, với sự quyết định và cho phép của
Chính phủ, chúng ta đã hoàn thành việc xây dựng Tượng đài Bồ tát Thích
Quảng Đức để khắc ghi hình ảnh một bậc danh tăng siêu việt đã lưu lại
cho Phật giáo Việt Nam và đất nước Việt Nam việc làm cao quý và đức
hạnh ngời sáng.
Được thừa hưởng sức mạnh bất tử của Bồ tát Quảng Đức, chúng tôi tin
tưởng rằng các thế hệ kế tiếp sẽ noi gương sáng của Bồ tát để tạo dựng
cuộc sống từ bi, bình đẳng, vô ngã, vị tha, làm cho đạo pháp hưng thạnh
và đất nước phồn vinh. Đó chính là điều mà Tăng Ni và Phật tử thành phố
nói riêng và cả nước nói chung đều mong muốn.
Sự kiện này đã đẩy phong trào tranh đấu lên đỉnh
cao, khiến chính phủ Diệm hoảng sợ, đã sử dụng chiến dịch nước lũ.
Trong đêm 20 tháng 8 năm1963, chính phủ Diệm dùng toàn bộ lực lượng
cảnh sát và công an tấn công các chùa và bắt giam tất cả Tăng Ni cùng
Phật tử.
Tin tức và hình ảnh Bồ tát Quảng Đức ngồi an nhiên
trong ngọn lửa tự thiêu vào ngày 20 tháng 4 nhuần, năm Quý Mão (1963)
nơi ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng (ngày nay là ngã tư Cách
Mạng tháng 8 và Nguyễn Đình Chiểu) đã được lan truyền khắp thế giới.
Nhiều tổ chức Phật giáo biểu tình phản đối và kêu gọi chính phủ Diệm
chấm dứt cuộc đàn áp Phật giáo. Đặc biệt là tiếng nói của ông U Thank,
Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc lúc bấy giờ cũng đã phản đối việc bắt bớ và
tàn sát dã man của chính phủ Diệm đối với Tăng Ni và Phật tử. Và ngay
cả Ngoại trưởng của chế độ Diệm là giáo sư Vũ Văn Mẫu đã cạo tóc để
hành hương sang Ấn Độ nhằm chiêm bái và kêu gọi nhân dân thế giới phản
đối chế độ độc tài Nhu Diệm.
Chẳng những tín đồ Phật giáo, mà các tôn giáo khác
trên thế giới và các dân tộc yêu chuộng hòa bình đã đồng loạt ủng hộ
phong trào tranh đấu của Phật giáo Việt Nam.
Ngày hôm nay, với sự quyết định và cho phép của chính phủ, chúng ta
đã hoàn thành việc xây dựng tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức để khắc
ghi hình ảnh một bậc danh Tăng siêu việt đã lưu lại cho Phật giáo Việt
Nam và đất nước Việt Nam việc làm cao quý và đức hạnh ngời sáng...
HT Thích Trí Quảng
Quả tim Bồ Tát hiện giờ ở đâu