Những
công lao của ông được ghi dấu cùng những chuyến đi khắp năm châu
bốn bể và ngay cả trên mảnh đất quê nhà. Trong quãng đời bôn
ba đó, Hà Nội trong trái tim ông tựa như một người bạn khó
quên. Hà Nội – Thời sinh viên trai trẻ, Hà Nội – nơi tìm kiếm
tinh hoa cổ nhạc, Hà Nội – chút tiếc nuối cho di sản và Hà
Nội – vài nhắn nhủ tới dịp đại lễ nghìn năm. Muôn mặt tình
yêu với Hà Nội của Giáo sư Trần Văn Khê sẽ phần nào được gợi
mở trong cuộc trò chuyện cùng ông.
- Thưa Giáo sư, thời sinh viên của ông ở Hà Nội bắt đầu như thế nào ạ ?
- Tôi ra Hà Nội học trường Y từ tháng
9-1941. Ngày khai giảng (tại 19 Lê Thánh Tông bây giờ) để lại ấn tượng
không thể phai mờ trong tôi. Sau khi dứt bài quốc ca Pháp La
Marseillaise cùng lá cờ nước Pháp mà tôi vẫn hay nghe từ nhỏ, một điệu
nhạc lạ tai trỗi lên cùng lá cờ màu vàng (hồi đó nước ta còn chưa độc
lập nên chưa có cờ đỏ sao vàng 5 cánh). Một anh bạn miền Bắc khẽ nói:
“Quốc kỳ và quốc ca của ta đấy”. Tôi xúc động quá, ngây người ngắm lá
cờ vươn lên cao và lắng nghe điệu nhạc mới mẻ mà trào nước mắt: “Bên
núi non hùng vĩ trời Nam/ Đã bao đời khí anh hùng chưa hề tan”. Đó cũng
là lần đầu tiên tôi ý thức được rằng dân tộc mình phải có một đất nước
độc lập.
- Hà Nội đã gắn bó với ông trong thời
đại học với những phong trào sinh viên đầy nhiệt huyết. Giáo sư có thể
chia sẻ kỷ niệm đáng nhớ nhất với Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ trai trẻ
đó của mình được không ạ?
- Bắt đầu năm 1942 tôi đã tham gia các
hoạt động của Tổng hội Sinh viên Việt Nam với nhiệm vụ chỉ huy dàn nhạc
sinh viên. Lúc ấy, anh Lưu Hữu Phước lãnh phần sáng tác những bài hát
ca ngợi những chiến công oanh liệt của người Việt trong lịch sử, trong
đó có bài “Người xưa đâu tá” có nhiều câu gợi tình yêu nước như:
Người xưa đâu tá hãy giúp thiếu niên dũng cảm
Người xưa đâu tá hãy giúp tấm lòng can đảm
Người xưa đâu tá hãy nổi gió mưa lửa sóng
Người xưa đâu tá hãy giúp cho dân Lạc Hồng
Hôm giới thiệu bài “Người xưa đâu tá”
tại đại giảng đường trường đại học Hà Nội, chúng tôi gặp sự cố. 15 phút
trước buổi diễn, một viên mật thám bước vào giảng đường đưa cho tôi
một bức thư và nói “Có lịnh cấm hát bài “Người xưa đâu tá””. Tôi mở bức
thư ra xem kỹ rồi xếp lại và thưa với thính giả: “Vừa rồi có lịnh của
Sở mật thám cấm hát bài “Người xưa đâu tá”, nhưng tôi không thấy cấm
diễn tấu bản nhạc “Người xưa đâu tá” xin quý vị thính giả thông cảm vì
không nghe được ban hợp xướng hát lời ca của bài này”.
Dàn hợp xướng không được hát nhưng thay
vào đó tất cả nhạc công trong dàn nhạc theo nhịp chiếc đũa tôi cầm
trong tay biểu diễn bản nhạc một cách hùng hồn. Thính giả trong phòng
đồng loạt đứng dậy nghiêm trang. Lời ca của bản nhạc được nhiều người
biết nên tuy ban hợp xướng không hát mà tất cả phòng đều như nghe rõ
từng câu. Đến đoạn “Chờ dậy cả thảy! Quyết chí phấn đấu thi gan nam nhi
cùng ai” thì tất cả thính giả đưa nắm tay ra phía trước theo nhịp đúng
nhịp nhạc. Khi bản nhạc dứt, thính giả vỗ tay vang dội cả phòng và vô
cùng xúc động. Chúng tôi trong dàn nhạc không cầm được nước mắt. Hành
động của chúng tôi lúc đó được các bạn trong ban lãnh đạo Hội sinh viên
khen ngợi và đến ngày nay khi hát lại bài “Người xưa đâu tá” tôi vẫn
nhớ như in không khí tại giảng đường hôm đó.
- Thưa giáo sư, mặc dù giới trẻ Hà thành
ngày ấy rất chuộng văn hoá Pháp nhưng ông là người đầu tiên đề xuất
một đêm nhạc sinh viên không có khiêu vũ mà thay vào đó là dân ca và
các ca khúc Việt Nam. Ông có thể chia sẻ hồi ức về đêm nhạc đặc biệt
đó?
- Khi ra Hà Nội học tôi rất ngạc nhiên
vì thanh niên lúc đó đang theo phong trào “vui vẻ trẻ trung”, ưa ăn mặt
theo thời trang của Pháp, hát những bài ca Pháp và tổ chức khiêu vũ
trong những buổi họp.
Khi tôi được cử vào ban tổ chức đêm “Dạ
hội sinh viên”, tôi đề nghị bỏ bớt nhạc Pháp thêm nhạc Việt và thay vào
chương trình khiêu vũ tôi đề nghị dựng một tiết mục dân ca ba miền như
dựng lại cảnh hội Lim tại Bắc Ninh, hát bài “Cò lả”, “Hò mái nhì” hay
“Hò cấy” của nông dân miền Nam.... Một số sinh viên trong phong trào
“vui vẻ trẻ trung” muốn gây sự với tôi và trách rằng tôi đã làm nhục họ
khi để cho sinh viên mặc áo bà ba đen như là những nông dân chân lấm
tay bùn. Nhưng ngược lại đa số thính giả, kể cả giáo sư và sinh viên
người Pháp lại rất hoan nghênh. Tôi còn nhớ rõ lúc đó anh Ngô Gia Hy
đến ôm tôi và khen rằng: “Nhờ anh mà dân ca Việt Nam được lên sân khấu
của nhà hát Tây”. Sau này, khi giáo sư bác sĩ Ngô Gia Hy làm Hiệu
trưởng trường đại học dân lập Hùng Vương, có mời tôi dạy nhạc dân tộc
trong trường, ông vẫn còn nhắc lại kỷ niệm đó.
- Ấn tượng của ông về con gái Hà thành những năm 1940 như thế nào ạ?
Từ trong Nam ra Hà Nội tôi đã quen nhìn
các cô gái Nam Bộ nước da bánh ít mặn mà, nên khi tôi ra Hà Nội thấy
các cô gái da trắng má hồng, môi đỏ như thoa son, ăn mặc rất sang
trọng, tay đeo “găng” (bao tay) trắng, chân đi vớ (tất) màu trắng, mang
giày mule bằng nhung đen (loại giày hở gót, phía trước bao cả bàn
chân), nên cảm giác đầu tiên của tôi là các cô gái Bắc đẹp như những
người trong tranh vẽ, nhất là các cô nữ sinh Đồng Khánh. Các cô lại ăn
nói dịu dàng, tùy khi mới gặp hay đã quen lâu mà gọi chúng tôi là “các
anh” và xưng “chúng tôi”, hay “chúng em”. Đôi khi các cô tay cầm quạt
phe phẩy, ngồi trên những chiếc xe tay vẻ đài các lắm. Họ thường lấy
quạt che mặt khi cười, miệng cười thì như hoa nở. Gặp các cô, tôi có
cảm giác “lạc lối đào nguyên”. Mấy chục năm sau gặp lại, các cô vẫn giữ
vẻ đài các mà tình cảm và đất đỗi chung thành trong tình bạn.
- Năm 1976, ông trở lại Việt Nam sau
1/4 thế kỷ xa quê, cũng là để thu đĩa hát về âm nhạc cổ truyền của quê
hương giới thiệu với UNESCO, trong đó có cuộc gặp gỡ với nghệ nhân ca
trù Quách Thị Hồ tại Hà Nội. Ông có thể kể lại những kỷ niệm của cuộc
gặp gỡ lịch sử đó?
Trong khuôn khổ của bài nầy, tôi không
thể kể lại hết những kỷ niệm của cuộc gặp gỡ lịch sử đó. Chỉ biết rằng
lần đó tôi đã khám phá giá trị độc đáo của nghệ thuật ca trù thông qua
các nghệ sĩ bậc thầy. Riêng Bà Quách Thị Hồ thì rất đặc biệt. Cuộc gặp
gỡ ấy diễn ra tại trụ sở của Hội Nhạc sĩ Việt Nam do Tổng thư ký Đỗ
Nhuận tổ chức.
Lúc đó, nhạc sĩ Tô Vũ thuật lại cho tôi
biết rằng trước khi gặp tôi, anh hỏi bà định hát bài gì cho ông khách
từ Pháp về nghe, bà trả lời: “Hội mời tôi đến tiếp khách thì tôi rót
trà cho khách uống, tôi hầu chuyện, chớ hát thì tôi không hát, vì ông
ấy bên Tây về có biết Ca trù là gì”.
Sau đó, tôi nói rõ cho các cụ biết rằng
lúc làm Luận án Tiến sĩ, tôi chỉ nghe được Ca trù qua các dĩa hát Beka,
Columbia do người Pháp ghi lại, như cách ngâm: Sa mạc, Bồng mạc, những
bài Mưỡu, Hát Nói và đọc những bài về Ca trù của Nguyễn Đôn Phục và
Phạm Quỳnh đăng trong báo Nam Phong, nhưng tôi chưa từng nghe biểu diễn
Ca trù thực sự. Hôm nay tôi xin các cụ nói cho tôi biết những điều cơ
bản về cách hát, gõ phách, đàn phụ họa và cầm chầu như thế nào.
Bà nói với tôi: “À, ra ông cũng có nghe
qua Ca trù và biết được Sa mạc khác Hát nói như thế nào. Tôi sẽ nói qua
các khổ phách như thế nào và sẽ hát cho ông ghi lại một vài bài”. Khi
bà hát câu “Người viễn khách có hay chăng nhẽ”, tôi thưa lại với bà :
“Tôi có đọc một câu thơ:”người viễn thú có hay chăng nhẽ”, chẳng hay
đúng câu thơ là “viễn khách” hay “viễn thú”. Bà cười vui vẻ đáp: “Ông
này tinh nhỉ, đúng là viễn thú đấy, nhưng ông có phải là lính thú đâu,
ông là một người khách, tôi hát người viễn khách là hát trêu ông đấy”.
Từ đó, bà sẵn sàng trả lời những câu hỏi của tôi một cách đầy đủ. Đến
giờ, cuộc gặp gỡ NSND Quách Thị Hồ với tôi là một kỷ niệm không thể nào
quên.
- Từ thời trai trẻ đến khi tuổi đã già,
ông đã có nhiều dịp đến Hà Nội và hẳn đã nhìn thấy những thay đổi của
đời sống âm nhạc cổ truyền nơi đây. Ông có thể chia sẻ cho độc giả một
cái nhìn so sánh?
Năm 1976, khi đất nước thống nhất, tôi
được về nước nhiều hơn và lần nào cũng có dịp đến Hà Nội ở trong 1- 2
tuần để gặp gỡ các nhạc sĩ. Mỗi dịp trở về là một lần được tiếp xúc
nhiều hơn với truyền thống nhạc dân gian phong phú. Tôi có dịp diện
kiến bà Hà Thị Cầu để nghe hát Xẩm. Sau này khi cố GS Lưu Hữu Phước tổ
chức chương trình SKPVAT (sưu tầm, khai thác, phát huy, vốn âm nhạc
truyền thống), tôi lại được tiếp cận với nhiều loại hát khác như hát
Xoan, hát Phường vải…
Nhưng giờ đây, tôi thấy rằng các loại
hình nghệ thuật truyền thống dân gian bắt đầu bị biến chất và sân khấu
hoá. Hát Quan họ không còn là một trò chơi giữa những người nông dân
trong những cuộc Đối ca nam nữ, mà đã biến thành “Quan họ đoàn”, “Quan
họ đài”, từ trang phục đến cách hát đều bị thay đổi rất nhiều. Các bộ
môn nghệ thuật khác cũng vậy. Bên cạnh việc sân khấu hoá, nhiều loại
còn bị nhạc nhẹ hoá. Vẫn biết rằng truyền thống không phải bất di bất
dịch, nhưng sự thay đổi phải đi từ bên trong, chứ không phải bằng sự
vay mượn bừa bãi những yếu tố từ bên ngoài, nhất là những yếu tố từ
phương Tây, làm mất bản sắc Dân tộc của người Việt. Chỉ có Ca trù còn
tương đối giữ được nhiều phong cách xưa. Sự ủng hộ của chính quyền đã
giúp cho nhiều Câu lạc bộ Ca trù được sinh hoạt. Nhiều ca nương trẻ đã
biểu diễn thành công. Ca trù đẹp tựa những đóa hoa, ngày xưa tôi nghĩ
sẽ tàn, không ngờ nay lại xinh tươi. Như cành cây cằn cỗi nay đã có
nhựa sống và trên cành cây có nhiều nụ non đâm chồi.
- Con người, âm nhạc và đời sống ở Hà
Nội đã rất khác trước. Liệu có còn nhận thấy chút thanh lịch của người
Hà Nội xưa kia trong cuộc sống hiện tại?
Rất khó tìm được nét thanh lịch đặc
trưng của người Hà nội xưa trong cuộc sống hiện tại. Đa số người thời
nay chạy theo đồng tiền, nghĩ đến chuyện làm giàu.
- Ông thích một Hà Nội thanh lịch - cổ kính? Hay hiện đại - sôi động?
Trong trái tim tôi, Hà Nội là một thành
phố thanh lịch và cổ kính. Trên thế giới dễ gì tìm được một cái hồ có
giá trị lịch sử trong một khung cảnh thiên nhiên rất đẹp và nên thơ như
Hồ Hoàn Kiếm. Nhiều danh lam thắng cảnh khác như Hồ Tây, Hồ Trúc Bạch…
cũng có giá trị lớn như vậy. Thăng Long- Hà Nội có được 36 phố phường
mang tên nghề nghiệp, có một Văn Miếu là Trường Đại học cổ kính, mà
cũng là nơi lưu giữ rất nhiều bia đá ghi danh những vị Tiến sĩ từ thuở
xa xưa. Những di tích đó là những tài sản vô giá của Hà Nội, cần được
bảo vệ nguyên vẹn.
- Ông sẽ muốn làm điều gì nhất nếu như ở Hà Nội vào đúng dịp kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, thưa Giáo sư?
Tôi sẽ hoà mình với cuộc lễ lớn này bằng
cách góp công sức vào những sự kiện, trong đó sẽ có những chương trình
nghệ thuật in đậm bản sắc Dân tộc. Đặc biệt, nếu có thể, tôi sẽ đề
nghị dựng lại Dàn nhạc Cung đình Triều Lý bằng cách phỏng theo trang
phục và nhạc cụ của những nhạc công được chạm trên bệ đá ở Chùa Phật
Tích (Bắc Ninh). Nên nhớ rằng Lý Công Uẩn (sau này là Lý Thái Tổ) được
sinh ra trong Chùa, rất tôn sùng đạo Phật. Các vua Triều Lý thường cho
xây Chùa trước khi xây Hoàng thành, Hoàng cung. Dàn nhạc được chạm trên
bệ đá có thể đã có trong các Chùa thời Lý vào dịp tế lễ lớn. Bài bản
thì có thể phỏng theo hơi Thiền là hơi của những bài Tán “Dương chi
tịnh thuỷ” ca ngợi Phật Bà Quan Thế Âm, mà lời lẽ rất nên thơ, đại ý là
nước Cam Lồ do nhành Dương liễu rải ra sẽ “diệt tội tiêu khiên” và nhờ
đó núi lửa sẽ biến thành bông Sen hồng. Nhưng đó chỉ là điều mơ ước,
tôi không được quyền tổ chức những cuộc lễ về mặt âm nhạc nên trên đây
chỉ là ước mơ của một người nghiên cứu âm nhạc dân tộc.
- Âm nhạc cổ truyền nên có một vị trí như thế nào trong dịp đại lễ lần này, thưa ông?
Theo tôi âm nhạc truyền thống có một vị
trí vô cùng quan trọng trong dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long, bởi đấy
chính là bản sắc dân tộc, bộ mặt của quốc gia. Như tôi đã nói, nếu dựng
lại Dàn nhạc Cung đình Triều Lý thì đó cũng là một đóng góp thực tế
trong việc tìm hiểu lịch sử. Dịp này, nên trưng dụng toàn bộ các loại
hình âm nhạc cổ truyền, nhưng nội dung thì có thể đặt trọng tâm vào chủ
đề dời đô từ Hoa Lư đến Thăng Long.
- Xin cám ơn ông đã chia sẻ những kỷ niệm, tình cảm và góp ý chân thành của mình với thủ đô yêu dấu
Điệp Trần thực hiện
http://www.nhandan.org.vn/cmlink/nhan-dan-i-n-t/th-i-s/v-n-hoa/v-n-hoa-tin-chung/gs-ts-tr-n-v-n-khe-h-i-c-x-a-va-m-t-c-m-nhan-i-l-1000-n-m-1.267094#Bd9hKoc2i0P2