là
linh địa mà nhiều bậc cao tăng đã tìm đến ẩn cư thiền định, tu học, giáo
hóa đồ chúng, giữ gìn và truyền thừa ngọn đuốc tuệ giác. Theo sự chỉ
dẫn của các bậc cư sĩ cao niên, chúng tôi đã lần tìm những dấu chân của
các bậc cao tăng qua những ngôi bảo tháp cổ - nơi lưu giữ nhục thân,
pháp khí, pháp cụ của tiền nhân trong hoài niệm về một thời và với ưu tư
của người hôm nay về việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa Phật
giáo…
Toàn cảnh tháp Thiền sư Tế Quả
Phật giáo Thuận Hóa-Phú Xuân-Huế khởi xướng và thịnh
hành nhất có thể là vào giai đoạn các chúa Nguyễn (tức từ 1558 đến
1801). Thời đó, Thuận Hóa tuy chưa là kinh đô của một đất nước nhưng đã
là thủ phủ của xứ Đàng Trong, nơi tụ hội của anh hùng hào kiệt và lẽ tất
nhiên các thiền sư khắp nơi đã tìm về đây để tu hành và giáo hóa đồ
chúng.
Vùng đất mà các thiền sư chọn lựa để tu hành và hoằng
hóa là vùng phía Nam sông Hương. Vùng đất này thuở xưa còn có tên chung
là vùng Lâm Lộc, là nơi lắm thú dữ và thảo khấu thường chọn là chốn ẩn
núp. Sau đó, có rất nhiều vị thiền sư chọn lựa dựng tích trượng lập am
tranh để tu hành. Những người đầu tiên là chư Tổ từ Trung Hoa sang như
Tổ Giác Phong, Tổ Từ Lâm, Tổ Khắc Huyền, Tổ Huyền Khê, Tổ Nguyên Thiều…
Cùng với đó, các vị thiền sư người Việt Nam đầu tiên cũng đã đến đây học
đạo và nhiếp hóa đồ chúng như Tổ Sư Liễu Quán (1667-1742), và sau đó
chư vị thiền sư là đệ tử của Tổ Liễu Quán...
Trong nhiều vị Tổ sư, thiền sư tu hành trong "rừng
thiền Lâm Lộc" đó, có vị còn lưu lại dấu tích, tháp mộ, bia văn cho hậu
thế. Nhưng cũng có rất nhiều vị đã "không lưu dấu tích" thì đang ở đâu.
Liệu được mấy ai trong lớp Tăng Ni trẻ hôm nay biết và có tâm ý muốn tìm
lại những dấu tích xưa của các Ngài đã ở đâu giữa chốn bạt ngàn rừng
núi này. Chúng tôi đã nghe kể về hành trạng của chư Tổ, được biết nhiều
vị có những đặc dị trong đời sống tu hành, nhưng mãi đến hôm nay mới có
duyên lành được các đạo hữu cao niên hướng dẫn băng rừng, lội suối, vượt
dốc núi hiểm trở để tìm lại dấu tích xưa.
Bảo tháp Thiền sư Tế Quả nghiêng khoảng 50
Dấu tích đầu tiên mà chúng tôi tìm đến là ngôi bảo
tháp nằm nghiêng nghiêng và khiêm tốn giữa rừng thông bao la thuộc thôn
La Khê u tịch. Ngôi bảo tháp nhỏ nhắn, cao khoảng 2m đã bị lún nghiêng
về khoảng 50, văn bia khắc chữ "Tự Lâm Tế chánh tông, tam
thập lục thế, thượng Thông hạ Tải, húy Tế Quả lão đại sư chi tháp", lạc
khoảnh bên phải ghi "Tân Mùi khánh sanh, thế lạp lục thập lục thập nhị
tuế, lạc khoảnh bên trái ghi "Nhâm Thân, thất nguyệt, thập thất Ngọ thời
thị tịch". Như vậy, rất rõ ràng, đây là ngôi bảo tháp của Thiền sư Tế
Quả thuộc đời thứ 36 dòng thiền Lâm Tế (pháp phái Liễu Quán), viên tịch
năm Nhân Thân (1752) tức cách đây đã 258 năm.
Đứng ở vị trí của ngôi bảo tháp này trông ra bốn
phương tám hướng thì thấy núi liền trời, trời liền mây một dãy xanh tươi
bát ngát, phía trước là khe Chiêu Ê, sau lưng là núi cao hiểm trở mà
liên tưởng ngày xưa, Thiền sư Tế Quả đã đến đây bằng cách nào, và đã làm
gì để độ nhật? Có người bảo thiền sư đã chặt cây, đốn củi, đốt than
gánh ra bìa rừng đổi gạo muối nuôi sống qua ngày.
Tiếp đó, chúng tôi men theo đường rừng tìm đến chùa
Kim Đài thuộc thôn Châu Chữ, nơi có một ngôi tháp xưa tọa lạc. Người dẫn
đường là anh Vạn, cầm cây rựa vừa đi vừa phát quang con đường đầy cây
gai um tùm dẫn chúng tôi đến ngôi bảo tháp. Ngôi bảo tháp cũng nằm trống
vắng, trơ vơ đơn độc giữa bốn bề cây rừng và cỏ tranh. Một tấm bia đá
dán vào tháp có khắc dòng chữ "Tự Lâm Tế chánh tông tam thập thất đại
(đợi) húy Đại Sum, Khánh Hội đại sư chi tháp" không có lạc khoảnh ghi
lại năm tháng. Bia tháp chỉ cho biết Thiền sư Đại Sum, đời thứ 37 dòng
thiền Lâm Tế (pháp phái Liễu Quán). Theo Đại đức Thích Nguyên Đạt, trụ
trì chùa Kim Đài, chùa được ngài Đại Sum khai sơn vào năm 1748, nên ngôi
bảo tháp chắc chắn được xây dựng trong khoảng thời gian sau từ 20 đến
30 năm.
Tháp của Thiền sư Đại Sum
Từ tháp của ngài Đại Sum, chúng tôi được các vị cao
niên cho biết trong vùng còn có hai ngôi tháp của các thiền sư đã tàn
lụi. Và chúng tôi được các bác hướng dẫn đi theo con đường mòn băng qua
một ngọn đồi khá cao. Từ trên một đồi cao, quan sát thấy một không gian
đồi núi, hồ nước rất hữu tình. Các vị cao niên cho biết, vị trí mà hai
ngôi tháp đang tọa lạc là tại lùm cây rậm bên cạnh hồ. Thế là chúng tôi
phải lần qua những bụi cây dại, ngôi tháp - mộ hoang tàn hiện ra thật
bất ngờ.
Ngôi tháp, đúng hơn là ngôi mộ xây theo kiểu bảo châu
thấp giữa một vòng la thành bằng đá tổ ong mà phần vôi vữa đã rơi rụng
hết, chỉ còn một đôi miếng nhỏ còn bám víu lại như muốn chống chọi lại
với thời gian. Ngôi mộ không có bia đá, và cũng chẳng thấy di chỉ văn tự
nào còn sót lại, chỉ nghe các vị cao niên kể lại rằng từ bao đời nay,
dân làng Châu Chữ truyền nhau đây là ngôi tháp của thiền sư khai sơn
chùa Đức Sơn. Ngôi chùa do ngài đây lập nên nằm cách ngôi tháp khoảng
100m về hướng Nam nhưng nay đã biến mất, nền chùa đã bị ủi lấy đất làm
công trình thủy lợi chỉ còn lại ngói và gạch vỡ nằm ẩn dưới thảm cây
rừng làm chứng tích. Rất may mắn là tại chùa Kim Đài có thờ một bài vị
ghi "truyền Lâm Tế chánh tông đệ tam thập thất thế, Đức Sơn tự viên tịch
Tỳ kheo húy Phổ Lý Nguyên Ông đại sư đài tọa". Chúng tôi suy luận chắc
chắn rằng thiền sư nằm dưới ngôi tháp mộ là Thiền sư Phổ Lý, khai sơn
chùa Đức Sơn (đã mất). Và thiền sư cùng thời với ngài Đại Sum cũng thuộc
đời thứ 37 dòng thiền Lâm Tế, pháp phái Liễu Quán.
Hiện trạng tháp mộ của Thiền sư Phổ Lý
Từ những dấu tích xưa, chúng tôi hình dung ra một đời
sống tu hành rất ẩn mật giữa chốn rừng núi thâm u đầy lam sơn chướng
khí này. Cũng từ đây, chúng tôi thấy được rằng để có được chốn "Thiền
kinh" vang bóng một thời, các ngài đã phải tu hành rất gian khổ và lắm
lúc phải "gởi thân" giữa chốn núi rừng hoang vắng. Thế mà mãi đến hôm
nay cách quý ngài đã gần 300 năm, khi mà phương tiện xe cộ đầy đủ, đường
sá đi lại khá dễ dàng thì chúng tôi mới được biết "chốn Tổ"!
Kỳ 2: Trên những tầng tháp cổ
Bài, ảnh Trí Năng