Khí trời vào Đông trên đất India cũng như Nepal, Tây Tạng và Bhutan đều
thấm lạnh, có nơi tuyết phủ như Hy Mã Lạp Sơn. Tại Tây Tạng cũng có một
số nơi quanh năm băng giá. Ngay cả Trung Quốc vẫn có nơi bông tuyết
mưa bay; Tộc Tạng, dân Ấn hay các thổ dân những vùng lân cận chịu chung
thời thiết khắc nghiệt, chính vì thế mà con người họ quen cam chịu,
nhẫn nại, nhờ truyền thống tâm linh biến thành năng lượng nuôi dưỡng
tâm hồn.
Shabdrung Jigdrel Ngawang Namgyel, hậu thân của một
Đạt Lai La Ma Bhutan là Shabdrung Rinpoche tái sinh vào ngày 02 tháng
11 năm 2003. Sở dĩ gọi ngài là một Đạt Lai La Ma của Bhutan là vì ngài
từng lãnh đạo tinh thần về chính trị lẫn tâm linh của nhân dân Bhutan
từ ngày Phật giáo du nhập vào đất nước nhỏ bé nằm trong lòng Hy Mã .
Tuy mới 5 tuổi, sống trong căn nhà gỗ đơn sơ, nằm phía Tây, xa thủ đô
Thimphu nhiều cây số đường núi; khu vực hoang vắng, dân cư thưa thớt.
Ngài ít khi chơi đùa với những trẻ con cùng lứa; thường tỏ ra trầm tư.
Cha mẹ là một nông dân, gia đình nuôi một ít dê để lấy sữa và bò để cầy
bừa, Lúc ba tuổi, Ngài thường chập chững bước ra vuốt ve những chú dê
con dễ chịu. Bầy dê sau một ngày vào rừng kiếm cỏ, chiều về, chúng lân
la quanh ngài; những cặp sừng non của chúng cứ cạ vào Ngài như muốn
được vỗ về; Vài tiếng bập bẹ non nớt của ngôn ngữ Tạng, Ngài chúc phúc
trước khi chúng vào chuồng. Bầy chim sơn ca, chim cu, chim núi đủ loại,
nhiều màu sắc cũng ríu rít suốt ngày quanh thảo am nơi sơn cước. Chuông
điện thoại reo, người nhà của Ngài bắt máy, đáp lại đầu dây một cách
lịch sự, rồi trao cho Ngài; Vâng, thường thì những lời cầu xin chúc
phúc, xin ý kiến những vấn đề lớn không liên quan đến chính trị, đặt
tên cho con… hoặc vấn an của những người Bhutan ở nơi xa mà không tiện
đến viếng. Tuy còn nhỏ, những câu vấn đáp, những lời chúc lành thật
khác lạ, người lớn bình thường cũng khó có được lời lẽ như thế. Ngài
thật thông minh!
Cũng như Tây Tạng, Bhutan là xứ sở của Thần
thánh. Một quốc gia vỏn vẹn 47.000km2, trên dưới 2.300.000 dân. Phần
lớn sống theo nông nghiệp. Được Ngài Shabdrung Rinpoche (Shbdrung
Ngawang Namgyal ) đời thứ nhất hướng dẫn định canh định cư, cuộc sống
từ đó ổn định. Vương quốc Bhutan là quốc gia Nam Á, nằm hướng Đông của
dãy Hy Mã. Có biên giới vòng cung như lòng chảo, chạy dài tiếp giáp với
India phía Tây, Nam và Đông; Phía Bắc tiếp giáp với vùng tự trị Tibet
thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bhutan nằm giữa hai khối thịt khổng
lồ là Ấn độ và Trung quốc. Người ta bảo rằng Bhutan trước kia là một
phần của Nepal thuộc Ấn, sau được tách ra thành những quốc gia riêng
biệt. Nhưng nền văn hoá của Bhutan ảnh hưởng sâu đậm từ Tibet. Ngôn ngữ
khác với Tây Tạng, chữ viết giống nhau, cũng như xưa kia, người Việt
xài chung chữ Hán với Tàu, nhưng phát âm khác nhau, vì thế văn hóa đôi
bên chịu ảnh hưởng của nhau, trong đó văn hoá tín ngưỡng lấy Phật giáo
làm quốc đạo, Hindu cũng bàn bạc trong nhân gian với màu sắc thần bí
đầy mê tín, mặc dù trước đây đạo Sik cũng có ảnh hưởng.
Khi
Bhutan còn nội chiến, các thủ lĩnh chia Bhutan thành nhiều vùng để cai
quản, Trung Quốc, Nhật Bản cũng thế; Việt Nam vào thời Thập nhị sứ quân
và một số nước trên thế giới đều lâm vào tình trạng loạn quân loạn
quan, nhân dân ca thán. Lúc bấy giờ, Ngài Shabdrung Ngawang Namgyal
Rinpoche người Tây Tạng qua Bhutan, vào năm 1616, với uy đức, Ngài dùng
đạo hạnh cảm hoá quần chúng, dần dà xã hội ổn định; Ngài đặt ra luật
lệ, phong tục, trang phục truyền thống, từ đó nhân dân tôn vinh Ngài là
vị vua đầu tiên của nhân dân Bhutan, tuy vậy, Ngài vẫn không tự nhận
mình là vua mà chỉ là người lãnh đạo Tâm linh cho nhân dân Bhutan.
Truyền thống tôn vương sơ khai được kéo dài đến ngày nay. Những vị lãnh
đạo đất nước sau nầy, khi lên ngôi, vẫn thường đến chùa lễ bái ra mắt
trước tôn tượng của Ngài. Từ cơ quan chính quyền đến nhà dân, đều có
tôn ảnh của vị đầu tiên lập quốc Bhutan. Các sư , mỗi ngày khi dùng cơm
đếu dâng cúng trước bàn thờ Ngài. Nhân dân Bhutan tự hào về chủng tộc
của mình, vì thế quốc kỳ có biểu tượng con Rồng sấm sét, (còn gọi là
rồng lửa) nằm trên nền vàng - đỏ ( do chữ Druk Yul, có nghĩa Land of
the Thunder Dragon). Tên Bhutan cũng có thể từ chữ Sanscrit. (
Bhu-Utthan: highlands ) mà hình thành.
Do hạnh nguyện giúp dân
Bhutan, Ngài liên tục tái sanh vào xứ sở quạnh hiu, bị cô lập với thế
giới bởi rặng Hy Mã, xây dựng một chủng tộc có cuộc sống bán khai thành
một xã hội có nền tín ngưỡng, đạo đức thuần khiết, một văn hoá và trang
phục đặc thù như nhân dân Tibet, đó là vị tổ sơ khai của vương quốc
Bhutan, đã đoàn kết các bộ tộc. Thế nhưng, những lần tái sanh sau nầy
không được nhà nước công nhận kể từ khi Anh quốc chi phối Ấn Độ, Tây
Tạng và Bhutan. Anh Quốc làm đảo lộn mọi trật tự trong đời sống của
nhân dân Bhutan khi chiếm Bhutan vào năm 1907, đưa một người tên Uggen
Wangchuck lên làm vua thế tục, trị vì vương quốc Bhutan, tước đoạt mọi
quyền hành của Ngài, qua gần 300 năm tái sinh lãnh đạo đất nước, lúc
bấy giờ Ngài là một vị Shabdrung Rinpoche thứ 6 vừa lên 5 tuổi, để
tuyệt nọc mầm mống đe dọa quyền lợi chính trị mà nhân dân Bhutan tôn
sùng Ngài, đó là tâm lý chung của kẻ nắm quyền lực, Wangchuck đệ nhất
đã ám sát khi Ngài trên 20, và cũng từ đó, triều đại Wangchuck kéo dài
đến nay trải qua 5 đời vua.
Những oan trái là nợ nần của nhau nhiều đời thế nào,
Ngài Shabdrung Rinpoche đời thứ bảy lại tiếp tục bị vua Wangchuck đệ
nhị ám sát lúc Ngài được 29 tuổi. Và Wangchuck đệ tam lại thủ tiêu hậu
thân lần thứ 8 của Ngài khi Ngài chỉ mới lên 15, lần nầy người dân
Bhutan không biết tông tích thân xác của Ngài ở đâu.
Qua huyền
đàm của Ngài cũng như các vị Đạt Lai La Ma Tibet, báo trước phương
hướng, vị trí các Ngài chọn tái sanh, khi Ban giáo lễ phát hiện hậu
thân, họ thường mang các vật dụng của Ngài theo để thử sự phân biệt của
cậu bé, đồng thời, những đệ tử, người thân cận sẽ được Ngài nhận diện
một cách chính xác
* * *
"Mẹ, vua Wangchuck đã giết con đấy... Con muốn đi thăm
Thiền viện của con…con muốn gặp các vị Lạt Ma trợ tế..." cứ những câu
nói đột xuất từ miệng đứa bé lên ba đã làm cho cha mẹ lo sợ, biết đây
là hậu thân của một Maha Guru, người mẹ hoang mang. Ba năm trước bà mẹ
chuyển bụng sanh, cha Ngài đi vắng, bỗng xuất hiện một bà cụ bưng mâm
ngũ quả đến dâng hiến, hương trầm ngào ngạt khắp nhà, bên ngoài khỉ
vượng gọi bầy hú hý liên hồi; một luồng sáng trắng từ trên nóc nhà
xuyên xuống chỗ nằm; Ngài ra đời với một khuôn mặt thông thái, cặp mắt
trí tuệ khác thường.
Cậu của Ngài. là một trong những Lạt Ma
giỏi về pháp thuật lẫn tâm linh, được đào tạo trong những học viện uy
tín và qua các khoá huấn luyện tu tập căn bản của các thiền viện chuyên
môn, biết rằng đây là hậu thân của Shabdrung Rinpoche thứ 8, liền tìm
cách đưa Ngài ra khỏi Bhutan. Người mẹ đau lòng nhớ lại, vua Wangchuck
đệ tam, từng sát hại Ngài Shabdrung Rinpoche thứ 8 lại là chú ruột của
vị tái sanh, con bà hiện giờ. Một đêm tối tuyết phủ núi rừng Hy Mã,
người đàn bà lầm lũi bế bé trai theo chân người cậu Lạt Ma, băng rừng
vượt núi để bảo toàn tánh mạng một hài nhi vô tội. Đói lạnh, mệt mỏi,
người đàn bà khốn khổ thủ thỉ bên tai con, cậu bé ba tuổi hiểu được mức
nguy hiểm trên đường trốn chạy, cậu im lặng ngủ say trong túi vải đeo
sau lưng mẹ. Ánh trăng thượng tuần và những vì sao lẻ loi soi đường
tiển bước... Qua nhiều ngày đường vất vả, xuống được đồng bằng India,
người cậu Lạt Ma đến trình diện với đồn Biên phòng, xin được tỵ nạn và
che chở; Người mẹ ôm hôn và nhìn con lần cuối, trao bé cho người anh,
rồi thổn thức trở lại với núi rừng. Ngài thực sự xa cha mẹ kể từ đó!
* * *
Chính quyền India không lạ gì với những việc tái sanh,
không ngần ngại việc bảo trợ, Ngài được chính phủ Ấn che chở. Suốt thời
gian được ăn học trong các trường, rồi tốt nghiệp đại học Mande ở
Himachal Pradesh, không một người Bhutan nào được tiếp xúc với Ngài.
Luôn được vệ sĩ bao bọc. Khi trưởng thành, Ngài xin chính phủ Ấn được
tự do; Ngài về làm nhà theo kiểu Bhutan ở tại Manali, cũng vừa tròn 30
tuổi, lúc bấy giờ đồng tộc Bhutan mới được phép tới lui thăm viếng.
Trên đất Ấn lưu vong, Shabdrung Rinpoche đời thứ 9 tức thế danh Ngài là
Shabdrung Ngawang đã lưu trú qua Himachal Pradesh, bỗng nhớ lại cội
nguồn thành đạo của Đức Bổn sư, Ngài lại về Bodhgaya, tạo cơ duyên cho
các sư Bhutan mua đất lập chùa; họ cũng từng tạm trú tại Việt Nam Phật
Quốc tự; Trên đường du hoá, được các tín đồ và chư Tăng cung thỉnh,
ngài đến với vùng Pedong tại Kalimpoy, Davjeeling. Quần chúng và chư
Tăng Bhutan tới lui với ngài rất đông, chẳng những thế, chư Tăng Tibet
và những người Âu châu vẫn đến xin Ngài chúc phúc cầu nguyện.
Nơi Gaya, chùa Bhutan được xây dựng ba ngôi, trong đó
một ngôi do chính phủ Bhutan tài trợ. Phần lớn các sư Bhutan sống tại
Ấn do nguồn kinh tế của quần chúng Bhutan tiếp viện. Cũng như người Tây
Tạng, Bhutan một số người cũng thành đạt trên thương trường và kiên cố
với đức tin.
Ở India không có trường đào tạo tu sĩ theo hệ
phái Bhutan, không có các cao Tăng Lạt ma tiếp nối huấn luyện Ngài theo
truyền thống và làm lễ cho Ngài xuất gia, vì Bhutan là một quốc gia
độc lập, không bị ngoại bang thống trị như Tibet, vì thế không có thủ
phủ của một chính phủ lưu vong, ngài vẫn để tóc như một cư sĩ, nhưng về
tâm linh, chư Tăng và quần chúng vẫn xem Ngài là một Thánh Tăng tái
sanh lãnh đạo tinh thần cho họ. Hình ảnh quắc thước của khuôn mặt nhân
hậu đầy uy lực, tuy để tóc, ngài vẫn khoác trên mình bộ quốc phục màu
vàng, đội vương miệng tôn giáo. (đặc biệt màu vàng chỉ dành cho vua đạo
cũng như vua đời, khi một quân vương nhậm chức như nhà vua trẻ nhất
thế giới mới 28 tuổi, tốt nghiệp đại học danh tiếng Oxford Anh quốc, -
Jigme Khesar Namgyel Wangchuck, được vua cha truyền ngôi, đã đến chùa
làm lễ ra mắt sơ tổ lập quốc Shabdrung Ngawang Namgyal Rinpoche đệ nhất
vào ngày 06/11/2008 ).
* * *
Quốc vương đời thứ tư tại vị, mặc dù biết Shabdrung
Ngawang là hậu thân của Shabdrung Rinpoche thứ 8 bị vua tiền nhiệm sát
hại, nhưng giờ đây, Ngài thuộc giòng tộc của mình, con của người anh
trai mình, vả lại đang ở một quốc gia khác, không có dấu hiệu đe doạ
vương quyền thế tục. Hằng ngày tin tức từ nhân viên thanh tra hình sự (
CID ) báo cáo mọi sinh hoạt của Ngài cũng như chư Tăng Bhutan tại
India; quốc vương biết rất rõ; trên phương diện đổi mới đất nước
Bhutan, nhà vua điện khí hoá đời sống cho nhân dân, truyền thông đại
chúng qua T.V. mạng lưới Mobile phone được thiết lập. Internet cho tuổi
trẻ xử dụng; một số tiện nghi đời sống của thế giới bên ngoài được du
nhập vào đất nước. Chính sách mở cửa mà nhiều thế kỷ Bhutan bị thế
giới quên lãng, một thời Bhutan bị xem là u tối như thời kỳ Dark Ages
của Âu châu, mặc dù nhân dân Bhutan từng có mặt rất sớm trước công
nguyên vào năm 2000, đó là thời kỳ mà người bản địa dùng đồ bằng đá;
trước khi Phật giáo du nhập vào Bhutan ở thế kỷ thứ 8 sau công nguyên
do một Rinpoche Guru Tibet truyền sang thì nơi đây đã có những loại tín
ngưỡng bản địa như Sikkim và bùa chú, thế nhưng vẫn không giúp xã hội
tiến hoá hơn; Đến khi các Lạt Ma có trình độ tâm linh cao, ổn định đức
tin quần chúng thì đất nước có một chỉ số hạnh phúc nhất định mặc dù
tiện nghi vật chất còn nghèo nàn.
Bhutan là một trong những
nước đầu tiên công nhận nền độc lập của Ấn khi India giành được từ tay
Vương quốc Anh vào ngày 15 tháng 8 năm 1949. Bhutan, 1971 cũng được đưa
vào Liên Hiệp Quốc làm quan sát viên trong ba năm liền. Và Bhutan là
quốc gia đầu tiên thực hiện triệt để cấm thuốc hút để bảo vệ sức khoẻ
cho cộng đồng.
Nhà vua đã mạnh dạn cải tiến xã hội, mở rộng dân
chủ, tổ chức bầu cử. Tuy nhiên, chính quyền vương quốc Bhutan vẫn lo
ngại việc cải tiến quá nhanh sẽ gây xáo trộn truyền thống trong nước.
Tuổi trẻ Bhutan đã mặc quần bò áo thun, xài cellphone. Một số phụ nữ
ghiền phim trên TV; quan hệ tình cảm cũng thông thoáng dễ dãi hơn, đã
gây những phản ứng mạnh trong số người bảo vệ truyền thống cha ông,
cũng từ đó, một số gia đình sanh ra bất hoà khi hai khuynh hướng và hai
thế hệ chưa cùng nhịp cầu thông cảm. Họ cố gắng quân bình giữa văn hoá
truyền thống và văn minh thế giới. Nhà vua trẻ nguyện sẽ theo chính
sách của cha trên bước đường cải tiến để nâng chỉ số hạnh phúc của
người dân lên tầm mức khả dĩ. Vì nhà lãnh đạo Bhutan quan niệm rằng chỉ
số hạnh phúc của người dân quan trọng hơn chỉ số GDP trong nước! vì
thế Bhutan được xếp hạng thứ 8 trong số 12 quốc gia trên thế giới người
dân có hạnh phúc nhiều nhất, mặc dù tổng thu nhập bình quân đầu người
chỉ 1.400 USD một năm, tuổi thọ chỉ đến 55.
Trước những bộn bề
đầy tiến bộ đó, quốc vương đời thứ tư không bận tâm đến một Đạt Lai Lạt
Ma của Bhutan như sự đe dọa theo tập quán.
* * *
Khí hậu tháng tư đầy ngột ngạt, căn building ba tầng của
Bhutan Temple tại Bodhgaya xây dựng vào năm 1997 vẫn chưa hoàn chỉnh,
cứ như lò lửa. Các cửa mở tung cho thông thoáng, thế mà hơi nóng như
phát ra từ lò nướng bánh chapaty. Bãi sân trống không một bóng cây nên
cái nóng cứ táp vào mặt. Ngài Shabdrung Rinpoche đời thứ 9 tay cầm quạt
phe phẩy, ngồi trên ghế trường kỷ để tiếp chuyện với các sư Tăng
Bhutan, thỉnh thoảng nói về một địa danh, một vấn đề như mơ hồ, hay một
ẩn dụ khó hiểu. Từng lọn tóc đen mướt cứ phất phơ theo cánh quạt. Thân
hình vạm vỡ được phủ hờ tấm choàng màu vàng mỏng. Một thoáng trầm tư
chìm trong tĩnh mặc, Guru như đang sống vào thế giới khác, các sư Tăng
và tín đồ vẫn ngồi bệt trên thảm len. Gương mặt Ngài sáng hồng lên, mở
mắt nhìn đệ tử, Người nói: năm nay mùa nóng, thầy không về Himachal
Pradesh hay Pedong, thầy phải nhập viện để điều trị vết ung thư trên
mũi. Các con hãy chuyên tu, giữ gìn truyền thống Phật giáo và văn hoá
quê hương.
Chiều hôm sau, chiếc xe bảy chỗ đến cổng chùa, đệ tử
dìu Người ra, xe hướng về thành phố Nam Ấn, 5 tháng nằm viện, bệnh
tình không thuyên giảm, Ngài tỉnh táo căn dặn và từ giã quần chúng. Bầu
trời Nam Ấn bỗng mát dịu khác thường, đám mây ngũ sắc vần vũ trên
không, chim chóc ríu rít. Hai giờ chiều mà như sắp hoàng hôn.
Những ngày sau đó, Ngài và hai vị Lạt Ma thị giả vào sâu
trong núi, ngài lưu trú tại hang động, bắt đầu nhập định. Không bao
lâu, trời đêm rừng núi Hy Mã sáng rực quanh vùng ngài đang toạ thiền;
tiếng gầm rú của muôn thú vang rền; con voi phủ phục trước cửa hang
nhiều ngày, bầy khỉ xôn xao trên các nhánh cây gần đó, các vị Lạt Ma
thị giả biết giờ chia tay đã đến, đều chấp tay quỳ gối đảnh lễ. Mùi
thơm lạ phảng phất.
Sáng hôm sau, một Lạt ma cầm miếng bông gòn để ngay mũi
Ngài, biết chắc Ngài không còn thở, sắc diện Ngài vẫn không thay đổi.
Thời gian sau, đệ tử mang nhục thân Ngài vẫn đang toạ kiết già về thờ
tại chùa Pedong..
5 năm trôi qua, thân xác ngày càng khô lại mà không thối
rữa. Như vậy chỉ có nhục thân vị thứ nhất và thứ chín mới được bảo
tồn.
Ngày 05 tháng 4 năm 2003 là thời điểm kết thúc 47 năm
sống và lưu vong trên đất khách của một đại sư Shabdrung Rinpoche đời
thứ 9 của nhân dân Bhutan!
* * *
Về đâu một cánh chim bằng!
Thưa Lạt Ma, vì sao nhà vua Bhutan biết đây là tái sinh của Ngài
Shabdrung Rinpoche đời thứ 9, buộc phải đem về lại Bhutan? - Lạt Ma
Tibet, một khách tăng tình cờ viếng chùa cho biết.
Trong giây
lát im lặng, Lạt Ma nheo mắt, có lẽ do ánh nắng xuyên xuống từ giàn hoa
khô lá trong khu vườn nhiều cây của Việt Nam Phật Quốc Tự, hay do đường
xa từ Dheli về, nhọc nhằn, từ tốn, ngài đáp:
Theo chúng tôi được biết, Bhutan họ cũng có nhiều cao
Tăng Lạt ma rất giỏi, truyền thống sinh hoạt tôn giáo giữa Bhutan và
Tibet không khác nhau. Ngài Karmapa của Tibet đã cho các Lạt Ma Bhutan
biết địa điểm, tên cha mẹ, dấu vết trên lưng của vị tái sinh; còn nhiều
yếu tố khác để xác định. Mặc dù Ngài Karmapa chưa hề đến Bhutan, chưa
biết gì về gia thế của vị tái sanh. Sau khi các Lạt Ma Bhutan về quê
hương, tìm đúng cậu bé cần tìm, chỉ sau hơn 10 tháng vừa tái sinh. Nhà
ngài bên thung lũng vắng, bỗng nhiên xuất hiện giòng chảy của con suối
trên vùng đất khô cằn và hoa đào rộ nở cả núi rừng khi Ngài được hạ sanh
Karmapa đặt tên cho vị tái sanh thứ 10 là Shabdrung Jigdrel Ngawang
Namgyel. Tháng thứ 11, cha mẹ cậu đồng ý cho đoàn Lạt Ma hầu cận vị
tiền thân mang Ngài ra khỏi nước. Chính quyền Bhutan chưa phát hiện
việc tái sinh nầy, chư Tăng hộ giá mang cậu đi không mấy khó khăn, vì
thế không phải băng rừng vượt núi như tiền thân của Ngài trước đây. Các
Lạt Ma liên lạc với chính quyền Ấn, họ đồng ý cho bảy cảnh sát bảo vệ,
chu cấp cho cha mẹ. Nuôi ăn học, cung cấp thầy giáo cùng mọi nhu cầu
cần thiết. Nhưng, sau đó chính quyền Bhutan phát hiện, buộc phải đem
ngài về lại. Sau khi bàn bạc cùng chính quyền Ấn, các Lạt Ma và ngài
Karmapa xét thấy không thể lưu giữ, vì gia đình cũng như chư Tăng sẽ gặp
nhiều rắc rối lớn. Đoàn hộ tống của chính quyền Ấn và chư Tăng Bhutan
đã tiễn Ngài qua biên giới khi vừa hơn một năm tuổi.
Vị khách
Tăng kể tiếp: Một vị tái sanh rất khác trẻ em bình thường, thông minh
đĩnh đạc, hiểu biết nhanh nhạy. Tuy hơn 10 tháng, chưa biết nói, khi các
Lạt Ma hỏi ai là thư ký, ai là thị giả, ai là tên nầy…v ới ngón tay
nhỏ như trái ớt non, Ngài chỉ đúng từng vị một. Trong đó, một vị Lạt ma
từng hầu cận Ngài hơn chục năm, gặp lại, cậu bé cười thật thích thú.
Khách Tăng im lặng, 9 giờ sáng, khí trời vẫn còn se lạnh thế mà vầng
trán sạm nắng của sư điểm lấm tấm mồ hôi; tiếng thở ra thật nhẹ dường
như đủ để người vơi bớt muộn phiền, Lat ma nói tiếp:
Chúng tôi e rằng Ngài sẽ không được đi học, cho dù một tái sinh thông
tuệ hay một Guru vĩ đại mà không được tiếp tục khôi phục kiến thức,
không được hướng dẫn tu tập để khai mở kho tàng cũ, qua khỏi 10 tuổi
cũng sẽ bị cùn nhụt thôi. Chỉ cần 2 năm hướng dẫn là Ngài sẽ nhớ lại
tất cả. Còn cả tánh mạng nữa chứ?
Cùng chia xẻ với niềm u uẩn của
Phật giáo Bhutan, khách Tăng Tibet và mọi người chìm vào tĩnh lặng,
chim chóc vắng bóng; cây cối ngủ quên; không gian ngưng đọng.
* * *
Nhân viên an ninh canh gác cậu bé, hàng ngày ghi nhận, báo cáo cấp
trên về tên tuổi, số lượng khách đến thăm viếng, báo luôn những hiện
tượng không bình thường do cậu bé thể hiện. Từ khi các Lạt Ma đưa cậu
về lại Bhutan, không ai được lai vãng. Những tin tức về cậu bé vẫn được
nhận thường xuyên do gia đình hoặc quần chúng Bhutan truyền lại.
Từ khi vị tiền thân ra đi, thời gian năm năm đó hậu thân tái sinh
lớn dần., tư chất thông tuệ hiện rõ; hằng ngày cậu vẫn tiếp khách, vẫn
chúc phúc, vẫn dành thời gian tâm sự với bầy thú. Cậu không hề biết
trong lúc nầy, những trẻ con cùng tuổi đang được đến trường, đang tự do
vui chơi với bè bạn; cũng vậy, thế giới cũng không biết rằng, giờ nầy,
cùng tuổi với trẻ con trong những quốc gia tân tiến, có một con trẻ
sống hiu hắt nơi núi rừng băng giá, nhưng là một con trẻ phi thường đầy
huyền thoại. Con gà sống trong chuồng làm sao biết được sinh mạng của
nó được quyết định lúc nào! Nhưng nhân dân Bhutan tin rằng, vị vua trẻ
có kiến thức quốc tế, sẽ không bị định kiến truyền thống về một đe doạ
vu vơ từ một đứa trẻ được tâm linh nuôi dưỡng.
Mời Ngài vào dùng sáng ạ! người nhà lên tiếng
Tại sao mình phải ăn hở mẹ? Ngài ngây thơ hỏi
Không ăn làm sao mà sống? mẹ đáp
Con người chỉ sống bằng thức ăn thôi sao!
... Người mẹ ú ớ không biết giải thích thế nào!
Con biết có những cái quan trọng hơn thức ăn mẹ à!
Cái gì vậy ? người mẹ ngạc nhiên
Nếu không thở, cũng đâu sống được hở mẹ!
Ừ, thì không khí cũng quan trọng như thế! mẹ đáp
Không hiểu biết cũng đâu sống được hở mẹ?
Có chứ, con vật, cây cối đâu cần hiểu biết mà vẫn sống đấy - mẹ cãi lại
Con người phải khác chúng chứ. Con người không hiểu biết cũng sống giống như chúng thôi.
Thế thì hiểu biết như thế nào mới đúng là con người? mẹ hỏi vặn
Phải có tình thương, phải có học hỏi, phải có tâm…như các Lạt ma của con vậy. Ừ, cũng phải - người mẹ chấp nhận.
Trong tâm người mẹ quê mùa khốn khổ nghĩ ngợi nhiều về tương lai của
một con người như Ngài. Trên bầu trời, tuy núi rừng, chim chóc biết
được đường bay của chúng, nhưng xã hội loài người, có những con người
không quyết định được phận số của mình. Nhiều người vẫn có tình thương
đấy, nếu họ biết áp dụng bằng hành động, thêm một lời nói, thêm một
việc làm tích cực thì số phận những con người như Ngài không bị mai
một, không bị cô lập nơi rừng núi hoang vu, không bị cách ly với xã
hội, kiến thức sẽ tiếp tục khai mở và…
Cậu bé năm tuổi nói rất
sõi, thỏ thẻ với bầy gia súc trước khi mở chuồng cho chúng đi vào rừng
kiếm ăn, đến trước nhà rửa tay, ngồi vào vị trí đã được chuẩn bị sẵn.
Cậu tự ăn, không muốn để ai phục vụ. Bên ngoài, ánh dương làm sáng một
góc rừng. Chẳng mấy chốc mặt trời sẽ tự do phô bày nắng ấm cho chim
chóc, thú rừng vui ca. Nhưng một con chim lạc bầy đang kêu cứu giữa
rừng hoang!!!
Minh Mẫn