>Gương hiếu hạnh của Tôn giả Xá Lợi Phất
Thân phụ của Ngài là Đề Xá và là một luận sư nổi tiếng trong giáo đoàn Bà La Môn. Ngay cả thân mẫu của Ngài cũng là người có trí tuệ vượt xa hơn những phụ nữ bình thường lúc bấy giờ.
Khi Xá Lợi Phất vừa lên 8 tuổi thì trí thông minh của Ngài đã phát triển một cách nhanh chóng. Một hôm, trong nước Ma Kiệt Đà, có hai anh em ông trưởng giả là Cát Lợi và A Già La, mở tiệc đãi đằng vua quan, các nhà quyền quý và các vị luận sư để thưởng thức ca vũ nhạc kịch và cùng nhau bàn luận về chuyện cổ kim. Theo quy định của đại hội thì mọi người được ngồi theo chỗ đã định sẳn chỉ riêng có cậu bé Xá Lợi Phất thì nhảy phóc lên ngồi ở ghế chủ tọa. Ban đầu thì mọi người không chú ý mấy đến cậu bé ngổ nghịch nầy, nhưng về sau khi nghe Xá Lợi Phất với lời lẽ hùng hồn, nghĩa lý tinh thông, chẳng những làm kinh ngạc những vị luận sư Bà La Môn đương thời mà còn làm cho quốc vương Ma Kiệt Đà sửng sốt. Để tỏ lòng quý mến, quốc vương Ma Kiệt Đà đã đem một thôn trang phong tặng cho cậu bé Xá Lợi Phất.
Tượng tôn giả Xá Lợi Phất - ảnh Quảng Tánh
Khi lớn lên thì Ngài có dáng người cao lớn, dung mạo thanh tú, mắt sáng như sao và tay dài quá gối. Vì được thừa hưởng truyền thống học giả của cha mẹ và với phong độ trí thức sẵn có nên tên tuổi của Ngài vang dội nhanh chóng cả xứ Ma kiệt Đà nầy.
Lúc vừa 20 tuổi, Ngài từ giã quê hương và gia đình để lên đường tìm sư học đạo. Ban đầu, Ngài tìm đến bái kiến vị Bà La Môn nổi danh đương thời là San Xà Dạ làm thầy. Nơi đây Ngài kết bạn với người đồng học tên là Mục Kiền Liên. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tuổi tác thì ngang nhau và trí thức cũng như tư tưởng thì rất tương đồng. Thêm vào đó cả hai đều cùng chí nguyện tầm sư học đạo để tìm chân lý tối thượng của cuộc sống nên tình cảm rất hòa hợp. Khi Xá Lợi Phất tâm sự cho Mục Kiền Liên về kiến thức giới hạn của thầy mình thì cả hai quyết định ly khai San Xà Dạ. Họ nghĩ rằng trên đời nầy không có người trí thức nào sánh kịp với họ và cũng chẳng có ai đủ tư cách làm thầy của họ cả. Họ thành lập một học đoàn riêng biệt và bắt đầu thâu nhận đệ tử. Tôn chỉ của họ là tự tu và truyền dạy những điều họ khám phá được cho hơn 200 đệ tử của họ. Dưới ánh mắt của họ thì những học giả trên toàn nước Ấn Độ lúc bấy giờ quá tầm thường, không có gì đáng kính nể.
Một ngày nọ, trên đường đi vào kinh đô Vương Xá, Ngài Xá Lợi Phất gặp một nhóm đệ tử của Phật. Họ là năm vị đệ tử đầu tiên mà Đức Phật đã quy y tại vườn Lộc Uyển. Đó là các ông Kiều Trần Như, Ác Bê, Thập Lực, Ma Ha Nam và Bạc Đề và đây là những người tu khổ hạnh với Đức Phật khi xưa trên núi Tuyết sơn.
Xá Lợi Phất hỏi với khẩu khí của một trưởng giả:
- Thầy của Ngài là ai? Và bình thường dạy Ngài đạo lý gì?
Vị Tỳ kheo chậm rãi trả lời:
Thầy tôi là bậc đại thánh Thích Ca Mâu Ni, xuất thân từ dòng họ Thích Ca. Ngài dạy về chân lý của vũ trụ nhơn sanh. Kẻ ít học như tôi không thể lãnh hội trọn vẹn, nhưng tôi còn nhớ đạo lý Ngài thường giảng là:
Các pháp do nhân duyên sanh
Các pháp do nhân duyên diệt.
Đức Phật cũng dạy rằng: “ Các hạnh vô thường là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi tịch diệt là vui”. Đối với lời dạy của bậc đạo sư, thật khó diễn tả được hết cảm kích của chúng tôi.
Sau khi nghe danh hiệu Phật Đà và những giáo pháp của Đức Phật thì Xá Lợi Phất như người vừa thức mộng. Trước mắt Ngài là ánh sáng mặt trời vừa xóa đi những đám mây đen bao trùm trong tâm khảm bấy lâu nay. Tất cả những mối nghi ngờ về vũ trụ nhân sinh đều biến mất. Ngài đứng bên đường đàm đạo với các vị Tỳ kheo như là bạn tri kỷ trăm năm và sau đó ước hẹn để yết kiến Đức Phật.
Xá Lợi Phất về đến nơi, Mục Kiền Liên thấy dáng vui tươi của bạn, liền hỏi thăm:
- Hôm nay có việc gì mà trông bạn hân hoan đến thế?
Xá Lợi Phất trả lời:
- Mục Kiền Liên, đây là dịp cao hứng đệ nhất trong đời tôi. Thật hoan hỷ, tôi báo cho bạn biết, tôi đã gặp vị lão sư của chúng ta.
Mục Kiền Liên hỏi lại:
- Bạn nói gì thế, ai là người có thể làm thầy chúng ta?
Xá Lợi Phất trả lời:
- Phật Đà! Đó chính là Đức Phật Đà.
Sau đó, Xá Lợi Phất liền đem những lời giáo pháp của vị Tỳ kheo kể lại cho Mục Kiền Liên nghe. Kẻ nghe, người kể đều không ngăn được xúc động và cả hai đều rơi lệ.
Đối với pháp nhân duyên thì người bình thường sau khi nghe chưa chắc đã lãnh hội được. Nhưng cả hai càng nghe thì càng thích thú bởi vì nếu không thể thấu hiểu được pháp nhân duyên thì khó lòng mà nhận thức được Phật pháp.
Ngày hôm sau, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đem toàn bộ đệ tử đến Tịnh xá Trúc Lâm xin quy y theo Phật. Đức Phật thâu nhập hai ông vào Tăng đoàn với câu nói đơn giản:” Hãy đến đây! Các Tỳ Kheo”.
Từ khi thành đạo đến nay, Đức Phật đã thu nhập rất nhiều đệ tử. Nhưng đến khi hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên gia nhập tăng đoàn thì Đức Phật mới tin rằng chân lý mình chứng ngộ đã gặp đúng người có thể tiếp thọ. Chính Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng cảm thấy mình đã gặp đúng bậc minh sư.
Thiết lập tu viện Kỳ Viên:
Sau khi Xá Lợi Phất quy y theo Phật thì lực lượng tăng đoàn bắt đầu tăng thêm. Lúc ban đầu Đức Phật hoằng dương đạo pháp phần lớn các nơi ở miền Nam xứ Ấn Độ đặc biệt là tại nước Ma Kiệt Đà. Ngài lưu lại tịnh xá Trúc lâm trong 6 mùa an cư kiết hạ. Nhưng hai năm đầu, ở phương Bắc chưa có một tu viện căn bản nào để dùng cho việc thuyết pháp. Do nhân duyên kỳ ngộ, một ngày nọ có ông trưởng giả Cấp Cô Độc là vị đại thần của vua Ba-Tư-Nặc mà kinh đô là thành Vương Xá của nước Kiều Tát La, nhân đến phương Nam thăm người quen và được dịp gặp gỡ Đức Phật. Sau khi nghe Phật thuyết giảng về đạo lý cứu khổ, ông phát tâm quy y và nguyện xây một tịnh xá nơi quê hương của ông để cung thỉnh Đức Phật cùng chư tăng đến để truyền pháp ngỏ hầu dìu dắt chúng sinh ra khỏi đường mê lối vọng. Đức Phật bèn sai Ngài Xá Lợi Phất là người đệ tử đầu tiên nhận lãnh sứ mạng của Đức Thế Tôn lên phương Bắc để lo hoằng pháp và trông coi việc xây cất tu viện Kỳ Viên. Công việc xây cất tịnh xá thì không phải là dễ, nhưng đối diện với ngoại đạo thì vạn phần khó hơn và ngoài Xá Lợi Phất ra không ai có thể gánh vác nổi trách nhiệm nặng nề nầy. Sau khi tìm được mảnh đất của Thái tử Kỳ Đà thì ông Tu Đạt Đa dùng vàng rồng trải khắp mặt đất để mua vườn hoa làm nơi kiến tạo tịnh xá.
Quả như lời tiên đoán của Đức Phật, Tịnh xá vừa khởi công không bao lâu thì ma nạn khởi lên. Nhiều nhóm ngoại đạo ganh ghét sự phát triển của Phật giáo, đến yêu cầu ông Tu Đạt Đa từ bỏ ý định xây cất tịnh xá và chúng khuyên ông đừng nên tin theo tín ngưỡng của Phật Đà.
Cho dù bọn ngoại đạo dùng áp lực nhưng ông Tu Đạt Đa đã thọ lãnh pháp ân của Phật thì ông khi nào lại nghe lời của chúng nên họ bèn xoay qua Ngài Xá Lợi Phất. Nếu họ biện luận đánh đổ được thuyết Phật giáo thì ông Tu Đạt Đa sẽ tĩnh ngộ. Khi nghe được tin nầy thì ông Tu Đạt Đa hết sức kinh sợ vì ông nghĩ rằng chỉ một mình Ngài Xá Lợi Phất thì làm sao có thể tranh biện nổi với bọn ngoại đạo?
Ngày giờ ước định đã đến, bên phía Phật thì chỉ có một mình Ngài Xá Lợi Phất còn phía ngoại đạo thì có hơn mười vị luận sư danh tiếng. So sánh về lực lượng thì một phải chọi tới mười, nhưng Ngài Xá Lợi Phất rất hoan hỷ bởi vì đây là cơ hội tốt để Ngài phát huy triết lý cao siêu của Đức Phật. Ngài không sợ hãi bởi vì Ngài xuất thân trong một gia đình từ ông nội, đến phụ thân đều là học giả hạng nhất của toàn nước Ấn Độ. Họ cũng như Ngài đều là những luận sư danh tiếng của Bà La Môn do đó Ngài rất tinh thông tất cả kinh điển của ngoại đạo và thêm nữa hiện tại Ngài là người vừa chứng được Thánh quả của Phật giáo. Với giáo pháp cao siêu thông suốt như Ngài, sau cuộc tranh luận, bọn ngoại đạo đều giơ tay đầu hàng và một số lớn xin Ngài giới thiệu với Phật để quy y theo Phật giáo. Đức Phật tuy ngồi ở phương Nam mà ánh sáng oai đức đã chiếu trùm đến phương Bắc. Sau đó Ngài Xá Lợi Phất hướng dẫn trên mấy vạn người đến yết kiến và quy y theo Phật. Trưởng giả Tu Đạt Đa lúc nầy càng khâm phục Ngài Xá Lợi Phất, nhưng ông ta lại càng cảm kích oai đức của Đức Thế Tôn.
Việc xây cất tu viện Kỳ Viên tiến hành rất nhanh chóng và đúng như thiết kế của Ngài Xá Lợi Phất. Tu viện có tất cả 16 giảng đường dành cho đại hội giảng kinh. Ngoài ra tu viện cũng còn có 16 tiểu đường để làm phòng ngủ, nhà khám bệnh….
Lúc Tịnh xá sắp hoàn thành, Xá Lợi Phất nói với Tu Đạt Đa:
-Trưởng giả! Ông nhìn xem, trên trời xuất hiện những gì kìa?
Tu Đạt Đa thất vọng trả lời:
- Thưa Tôn giả! Con chẳng thấy có gì cả.
Xá Lợi Phất nói tiếp:
- Chẳng có gì lạ, tại vì mắt thường không thể thấy được những biến hiện. Bây giờ ông hãy nương theo sức thiên nhãn của tôi và nhìn lại một lần nữa.
Bây giờ Tu Đạt Đa vui mừng kêu lên:
- Thưa tôn giả! Con thấy có nhiều cung điện trang nghiêm rực rỡ.
Xá Lợi Phật tiếp:
- Đó là cung điện của sáu cõi trời dục. Vì ông cúng dường tịnh xá cho Phật thuyết pháp, tịnh xá tuy chưa hoàn thành, nhưng cung điện của ông trên sáu cõi trời đã sớm dành sẵn cho ông.
Tu Đạt Đa hỏi:
- Trong sáu cõi trời ấy, cung điện thì nhiều đến thế thì con phải ở cõi trời nào mới tốt?
Xá Lợi Phất trả lời:
- Cõi trời Đạo Lợi thọ mạng rất lâu. Nếu biết tu hành, siêng năng trong Phật đạo thì khó mà đọa lạc.
Tu Đạt Đa hoan hỷ:
- Vậy sau nầy con nhất định nguyện sanh về cõi trời Đạo Lợi.
Khi Tu Đạt Đa vừa nói xong, những cung điện kia dần dần tan biến mất, chỉ còn lại cung điện của cõi trời Đạo Lợi sáng rực đẹp đẽ hiện ra ở không trung. Ta Đạt Đa thấy rồi rất mừng rỡ vì bình sanh ông ta chưa từng thấy cung điện nào đẹp như thế.
Không lay chuyển tâm Bồ tát
Nhân chuyện trưởng giả Tu Đạt Đa cúng dường tịnh xá cho Phật và nhờ thần lực thiên nhãn của Ngài Xá Lợi Phất đã giúp cho ông Tu Đạt Đa thấy được cung điện cõi trời. Nhưng cơ duyên gì giúp Ngài Xá Lợi Phật có được thiên nhãn thông như vậy?
Trở về khoảng sáu mươi tiểu kiếp trước, lúc đó Xá Lợi Phất chỉ là một nhà tu khổ hạnh. Vì muốn làm tròn Bồ tát hạnh, Ngài không những nguyện đem nhà cửa, ruộng vườn, tài sản và tất cả những vật sở hữu nơi thân vui lòng bố thí, mà Ngài còn nguyện đem cả thân thể, mạng sống của mình để bố thí cho người.
Vì tâm nguyện chơn thiết như vậy đã làm kinh động trời đất cho nên có một thiên nhơn muốn thử đạo tâm của Ngài.
Thiên nhơn liền biến thành một thanh niên khoảng 20 tuổi ngồi chờ trên đường Xá Lợi Phất thường đi qua. Thanh niên vừa thấy Ngài đến, bèn lớn tiếng khóc ròng. Xá Lợi Phất thấy vậy động lòng từ bi nên đến trước mặt thanh niên an ủi hỏi han:
- Này cậu kia! Vì sao ngồi đây khóc lóc thương tâm như vậy?
Cậu thanh niên đáp lại:
- Ông đừng hỏi lôi thôi, cho dù có nói cho ông nghe thì ông cũng chẳng giúp gì được.
Xá Lợi Phất hỏi thêm:
- Tôi là sa môn học đạo, phát nguyện cứu giúp khổ nạn cho chúng sanh. Anh có cần gì nếu tôi có sẵn, tôi sẽ giúp anh mãn nguyện.
Chàng thanh niên kể rằng:
Ông chẳng thể giúp tôi được đâu, tôi khóc đây chẳng phải vì thiếu tài vật thế gian, mà vì mẹ tôi mang bệnh không thể trị được. Thầy thuốc nói cần phải có con mắt của người tu để hòa thuốc thì bệnh mẹ tôi mới lành. Con mắt của người đời đã khó kiếm thì con mắt của người tu làm sao chịu cho tôi? Nghĩ đến mẹ già rên rỉ trên giường bệnh chờ thuốc nên tôi bất chợt đau đớn mà phát khóc.
Nghe xong Xá Lợi Phất trả lời:
- Chuyện đó đâu khó gì, tôi vừa nói với anh tôi là sa môn kia mà. Tôi sẽ bố thí cho anh một con mắt để cứu bệnh nan y cho mẹ anh.
Thanh niên vui mừng nhảy lên:
- Có thật Ngài bố thí cho tôi một con mắt?
Xá Lợi Phất nói thêm:
Tất cả tài sản của tôi đều bố thí hết. Chính lúc muốn tiến một bước trên Bồ tát đạo, tôi nguyện đem thân ra bố thí. Tôi còn đang khổ sở vì chẳng gặp ai nhận, nay gặp lúc anh đang cần thì tôi mãn nguyện tâm đạo của tôi rồi. Tôi rất vui mừng cám ơn anh. Anh nên tìm cách lấy con mắt của tôi đi
Người thanh niên khó chịu đáp:
- Thật không được, làm sao tôi dám cưỡng đoạt con mắt của ông? Như lời ông phát nguyện thì ông tự móc mắt ra mà cho tôi.
Xá Lợi Phất nghe nói có lý liền quyết tâm dũng cảm chịu đau, đưa tay móc ngay con mắt bên trái ra, đưa tận tay thanh niên và nói:
- Đa tạ anh đã giúp tôi thành tựu tâm nguyện, mắt đây anh hãy cầm lấy.
Thanh niên đưa tay cầm con mắt trái bèn la lớn rằng:
- Hỏng bét! Ai biểu ông móc con mắt trái ra vậy? Bệnh mẹ tôi thì thầy thuốc nói phải dùng con mắt mặt mới tốt.
Xá Lợi Phất nghe nói liền tự trách sao mình không hỏi kỹ rồi hãy móc mắt. Lỡ rồi bây giờ phải làm sao? Ngài tự nghĩ khi cho con mắt trái thì vẫn còn con mắt mặt để xài. Nếu bây giờ cho luôn con mắt mặt thì mình thành ra đui. Thật đáng kính phục Xá Lợi Phất, không bao giờ trách người. Ngài nghĩ tiếp rằng nếu mình đã phát tâm cứu người thì phải làm cho tới nơi tới chốn. Rất khó gặp người nhận bố thí để thành tựu đạo hạnh cuả mình, cho nên quyết định cho luôn con mắt mặt. Xá Lợi Phất nghĩ như vậy nên đến an ủi chàng thanh niên:
Anh đừng nóng ruột, vừa rồi tại tôi hấp tấp, không kịp hỏi nên móc lộn con mắt. Bây giờ tôi biết rằng thân thể nầy là hư huyễn là vô thường nên tôi còn con mắt bên phải tôi xin móc luôn cho anh làm thuốc chữa bệnh cho mẹ.
Xá Lợi Phất nói xong, lại quyết tâm một phen nữa, mạnh dạn chịu đau móc luôn con mắt bên mặt cho thanh niên nọ.
Thanh niên cầm con mắt, không thèm nói một lời cám ơn, đưa con mắt lên ngửi một cái rồi quăng luôn xuống đất và mắng:
Ông là thầy tu cái gì? Con mắt hôi hám khó ngửi, làm sao nấu thuốc cho mẹ tôi dùng? Thanh niên mắng xong, còn lấy chân chà lên con mắt Xá Lợi Phất.
Mặc dù không còn thấy được nữa, nhưng lỗ tai vẫn còn thính nên sau khi nghe lời mắng cũng như tiếng chân chà đạp con mắt của mình, Ngài chỉ còn biết thở dài và thầm nghĩ:” Chúng sanh khó độ, tâm Bồ tát khó phát, ta chẳng dám nghĩ tới Bồ tát giới. Ta nên quay lại chú trọng việc tu hành để tự độ mà thôi”.
Trong tâm Ngài vừa khởi ý niệm ấy thì trên không trung xuất hiện rất nhiều thiên nhơn và nói với Ngài rằng:
Thưa tôn giả! Xin Ngài đừng chán nản vì người thanh niên lúc nãy là do thiên nhơn chúng tôi sai đến thử thách Bồ tát đạo tâm của Ngài. Ngài phải tinh tấn dũng mãnh lên theo như tâm nguyện của mình để mà tu đạo.
Xá Lợi Phất nghe nói lấy làm xấu hổ nhưng tâm Bồ tát lợi tha bắt đầu mở rộng trong Ngài.
Từ 60 tiểu kiếp đến nay, Ngài Xá Lợi Phất không ngừng tu Bồ tát đạo từ đời nầy đến kiếp khác cho đến khi gặp Phật Thích Ca Mâu Ni thì chứng được thánh quả và đạt được Thiên nhãn thông.
Giáo Hóa Kẻ Phản Đồ
Trong hàng đệ tử của Phật có một Tỳ kheo tên là Đề Bà Đạt Đa. Ông là bậc vương tôn và đã quy y theo Phật cùng lúc với những chàng thanh niên dòng họ Thích khi Đức Phật về thăm gia đình. Ông là anh của tôn giả A Nan. Mặc dù xuất gia trên 10 năm nhưng ông ta không chứng được quả vị gì. Vì ham mộ thần thông nên ông bị ma quỷ làm mờ tâm trí. Ông mưu đồ phản lại Đức Phật và tách rời khỏi tăng đoàn. Một hôm sau khi Đức Phật đi khất thực về và cùng với các đệ tử nghỉ ngơi tại giảng đường thì Đề Bà Đạt Đa ngang nhiên dẫn đầu nhóm bè đãng đến yêu cầu Phật nhường quyền lãnh đạo tăng đoàn cho ông. Phật từ chối vì biết ông là người không đủ tư cách. Càng giận ông càng la lớn tiếng và kêu gọi các tỳ kheo đi theo ông. A Nan lúc ấy mới nói:
Xin anh đừng hồ đồ. Anh là huynh trưởng của tôi. Tôi nghĩ đến anh tạo tội nặng như thế, tương lai sẽ bị đọa mà cảm thấy ghê sợ. Đức Phật là bậc đại từ bi. Con người như anh không thể sánh với Ngài. Nếu hôm nay có mặt Xá lợi Phất và Mục Kiền Liên ở đây, chắc chắn họ không để cho anh tung hoành như vậy.
Sau đó Đề Bà Đạt Đa dùng mọi thủ đoạn từ uy hiếp đến lợi lộc để dụ dỗ một số đệ tử của Phật theo mình. Có một số tỳ kheo lòng tin không vững cùng với sự tham mê sự cúng dường nồng hậu của vua A Xà Thế đã đổi lòng mà đi theo ông.
Đức Phật sai hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến Gayasima để thuyết pháp đem họ về với chánh đạo. Một ngày nọ, đang khi các phản đồ cùng với số đệ tử của Đề Bà Đạt Đa nhóm họp thì Xá Lợi Phất uy nghiêm đi đến và hỏi:
Này quý vị, tôi hỏi quý vị một câu. Vậy chớ quý vị xuất gia tu đạo là vì thọ cúng dường? Hay vì tu đạo?
Đại chúng đồng đáp:
- Vì mục đích tu đạo và muốn thoát sanh tử!
Xá Lợi Phất nói tiếp:
Nếu như vậy, các ông không tu theo chánh đạo của Đức Phật, lại để cho lòng tin thuần khiết tôn quý của mình bị lay động vì chút vật chất cỏn con. Các ông phải mau mau phản tỉnh giác ngộ mới được.
Khi Xá Lợi Phất nói lời ấy tức thì từ trong mình phóng ra muôn đạo kim quang trong đó hiển hiện từ dung của Phật. Các tỳ kheo bội phản và môn đồ của Đề Bà Đạt Đa kinh sợ và đều quỳ xuống sám hối. Sau đó Xá Lợi Phất lại dẫn họ trở về với tăng đoàn.
Đức Phật từ đó càng tin cậy Xá Lợi Phất vì Ngài có công lớn trong sự hòa hợp tăng đoàn. Riêng Đề Bà Đạt Đa không sợ Phật nhưng rất kính nể Xá Lợi Phất.
Cõi Tây Phương Cực Lạc
Đúc Phật vì lòng từ bi mà xuất gia tìm đạo để cứu chúng sanh ra khỏi bể trầm luân. Khi Ngài còn ở tịnh xá Kỳ viên thì thường thuyết giảng cho chúng sanh hiểu rõ về biển khổ của sanh tử luân hồi. Chúng sanh vì mê lầm mà mãi trầm luân trong sáu nẻo. Ngài muốn nói lên pháp môn Tịnh độ nhưng lại sợ hạng căn cơ thấp kém không thể tin tưởng và thọ trì nên Ngài quyết định dùng trí huệ của Xá Lợi Phất để truyền dạy về cảnh Tây phương Cực lạc thanh tịnh trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà. Phật dạy:
Nầy Xá Lợi Phất! Ở phương Tây cách thế giới của ta rất xa xôi, có một thế giới tên là thế giới Cực lạc. Ở đó vị giáo chủ là Đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp.
Xá Lợi Phất hỏi:
- Thế giới ấy tại sao gọi là thế giới Cực lạc?
Phật dạy rằng:
Vì thế giới ấy không giống thế giới Ta bà nầy có nhiều xấu xa, nhỏ hẹp và đau khổ. Chúng sanh ở quốc độ đó chỉ có đầy đủ, không hề thiếu thốn, chỉ có an vui không hề đau khổ, cho nên gọi là thế giới Cực lạc. Cõi ấy cảnh vật tốt đẹp trang nghiêm, bằng phẳng, sạch sẽ và giàu có. Người trong nước về phần ăn mặc, đi đứng, thuốc men… đều tùy theo nhu cầu mà đầy đủ tiện nghi. Những người ấy đều là các bậc thượng thiện ở chung một cõi. Phong cảnh như một rừng hoa tuyệt mỹ. Kiến trúc như một đô thị nguy nga.
Phật lại dạy tiếp:
Xá lợi Phất! Chỉ cần nhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, gieo trồng nhân duyên phước đức, tu học 37 phẩm trợ đạo, tương lai sẽ được Phật A Di Đà tiếp dẫn và được vãng sanh về nước của Ngài. Nầy Xá Lợi Phất! Chúng sanh ở thế giới Ta bà nếu muốn thoát khỏi khổ não trong sáu nẻo luân hồi, chỉ nên phát nguyện cầu được sanh về cõi ấy. Ta từng bảo A Nan lễ bái Phật A Di Đà và chính A Nan cũng từng được thấy Phật A Di Đà phóng hào quang sáng chói. Các ông nên tin vào pháp môn mà ta vừa nói. Đó chính thật là con đường cứu khổ.
Đức Phật nói xong, đại trí Xá Lợi Phất không hề có một niệm hoài nghi. Tôn giả và đại chúng đều tin sâu vào pháp môn Tịnh độ của Phật A Di Đà.
Sự Sanh Tử Của Kẻ Tu Hành
Một ngày kia, tôn giả Xá Lợi Phất đang ngồi thiền trong một khu rừng gần thành Vương Xá, trong lúc chuẩn bị để nhập chánh định thì bỗng nhiên Ngài nghe tiếng Tỳ kheo ni Ưu Ba Tiên Na gọi Ngài trong lúc bà ta đang ngồi thiền từ trong hang động đối diện. Mặc dù Ngài là bậc trưởng lão đã chứng thánh quả, Ngài cũng tôn trọng những ni cô tu hành đắc đạo. Khi Ngài vừa bước đến thì Ưu Ba Tiên Na nói:
- Thưa tôn giả! Khi tôi đang tọa thiền, trên thân mình bỗng chạm nhằm vật gì. Ban đầu tôi không lưu ý, nhưng sau mới biết là đụng phải loài rắn độc. Tôi đã bị nó cắn, thế nào cũng chết. Bây giờ thừa lúc nọc độc chưa hoành hành, xin Ngài từ bi vì tôi tìm cách mời đại chúng đến cho tôi được cáo biệt.
Khi nói câu nói ấy, Ưu Ba Tiên Na không tỏ một chút gì kinh sợ và tư chất của bà rất tự nhiên như chẳng có việc gì xảy ra.
Xá Lợi Phất hỏi:
- Ở đây vừa xảy ra việc đó sao? Ta xem sắc mặt cô không có gì biến đổi. Nếu như bị rắn cắn thì nhất định cô sẽ biến sắc.
Mới nhìn Xá Lợi Phất cho là không có việc gì nên mới nói như thế, nhưng Ư Ba Tiên Na trầm tĩnh đáp:
- Bạch tôn giả! Thân người là do tứ đại, ngũ uẩn hư vọng mà thành, không có chủ tể, vốn là vô thường, vốn là “không”. Tôi đã chứng ngộ được đạo lý ấy thành ra độc xà làm sao cắn được cái không?
Xá Lợi Phất khen:
- Cô nói rất đúng. Cô đã đến trình độ thoát mọi đau đớn của thân thể. Cô dùng huệ mạng của mình mà giữ gìn sắc mặt không biến đổi.
Xá Lợi Phất khen ngợi Ưu Bà Tiên Na và thông tri cho tất cả các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni tu tập gần đó. Họ đem Ưu Ba Tiên Na ra khỏi động thì lúc ấy nọc độc mới dần dần xâm nhập khắp người. Một lác sau Ưu Ba Tiên Na bình thản mà nhập diệt. Tất cả đại chúng thấy một bậc thánh được giải thoát như vậy thì ai ai cũng tán thán. Xá Lợi Phất nói thêm:
- Người tu hành điều tâm, chủ động mà nhập diệt, đối với cái chết của thân mình coi như bỏ cái bát độc, như bệnh nặng được lành. Có cầu ắt có báo đáp, có chí nguyện thì nhất định sẽ thành. Đối với họ sắp chết mà không đổi sắc, đó là dùng mắt trí huệ mà xem tướng thế gian cũng như ra khỏi nhà lửa tam giới. Thật là đẹp đẽ vô cùng.
Lời Ngài Xá Lợi Phất khen Ưu Ba Tiên Na chính là phương pháp quan sát của người Phật tử đối với chuyện tử sanh. Đối với kẻ tu hành thì chuyện tử sanh cũng như là một đám mưa đi qua mà thôi. Bởi vì đối với họ thân nầy là giả, mọi vật chung quanh họ cũng là giả luôn nên họ không còn luyến ái, tham lam để gìn giữ cái giả tạo đó. Ra khỏi tam giới tức là tự mình đã thoát ra khỏi lò lửa của phiền não, của đau thương để đến cảnh an vui tự tại muôn đời bất sanh bất diệt.
Lòng Khoan Dung Độ Lượng
Thời gian thắm thoát trôi qua, mới đấy mà giờ đây Ngài đã là bậc cao tăng trên 80 tuổi. Mặc dù tuổi đã già nhưng Ngài không bao giờ quên lãng chuyện hoằng pháp độ sanh. Năm đó sau mùa an cư kiết hạ tại tịnh xá Kỳ viên, Ngài thỉnh cầu Đức Phật cho phép được đi du phương hóa đạo. Phật nhận lời và khen ngợi tinh thần vị tha, vị pháp của Ngài. Tôn giả rời tịnh xá không bao lâu thì có một tỳ kheo đến bạch với Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Xá Lợi Phất đi vân du hôm nay không phải vì tuyên dương Phật pháp, mà ông ấy đã làm nhục con. Khi gặp mặt con ông thấy hổ thẹn muốn tránh nên mới kiếm chuyện đi phương khác.
Đức Phật không vui kẻ phỉ báng người vắng mặt, nghe xong lập tức cho người mời Xá Lợi Phất trở lại và ở trước đại chúng Phật nghiêm nghị hỏi Xá Lợi Phất:
- Xá Lợi Phất! Sau khi ông đi không lâu, có một tỳ kheo đến mách với ta rằng ông đã khi dể , nhục mạ ông ấy, có thật hay không?
Xá Lợi Phất ôn hòa, cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn! Từ khi con theo Ngài đến nay gần 80 tuổi, con nhớ chưa từng sát hại sinh mạng, chưa hề nói lời hư vọng. Chỉ trừ khi vì muốn tuyên dương chân lý, cũng chưa từng nói chuyện riêng tư, lợi hại được mất của người hay là cùng người bàn tán tốt xấu. Trong ba tháng an cư, con mỗi ngày đều sám hối, không mất chánh niệm, tâm con thanh tịnh, không có một vẻ bất bình thì làm sao con khinh thị người khác cho được?
- Bạch Thế Tôn! Đất bùn hay nhẫn nhục, bất cứ vật gì nhơ uế đổ lên, đất không cự tuyệt. Phân tiểu, máu mủ, đờm dãi đất đều cam thọ cũng như kẹo ngon. Tâm con hôm nay bộc bạch trước Đức Thế Tôn, nguyện như sức nhẫn nhục của đại địa, nguyện không trái nghịch ý người.
- Dòng nước thanh tịnh không kể vật sạch dơ hay cũ nát đều dùng nước để rửa sạch. Tâm con không yêu ghét, cũng như dòng nước kia. Bạch Thế Tôn! Cây chổi dùng để quét bụi, khi quét dọn không chọn lựa tốt xấu. Tâm con hôm nay thật không hề khởi phân biệt tốt xấu. Con ở trong chánh niệm, quyết không hề khinh tiện vị tỳ kheo kia. Con đối với Phật mà nói lời nầy. Con biết việc làm của con còn vị tỳ kheo kia cũng biết việc làm của vị ấy. Như nếu con có lỗi con xin hướng về vị tỳ kheo ấy sám hối để tâm con khỏi cắn rứt.
Khi Xá Lợi Phất bạch Phật xong thì trong đại chúng ai ai cũng cảm động. Phật bảo ông tỳ kheo vu cáo kia:
- Ông có lỗi hủy báng trưởng lão, bây giờ không thể không sám hối. Ông đã có ý khiến tăng đoàn phân vân, ông muốn cho tăng đoàn bất hòa. Nếu như ông chí thành sửa đổi sẽ khỏi bị quả báo về sau.
Tỳ kheo kia vội vàng quỳ trước Phật, chân thành sám hối:
- Bạch Thế Tôn! Tôn giả Xá Lợi Phất là người không có lỗi chi. Con đối với bậc trí huệ năng lực như thế mà không biết nhún mình học tập, lại sanh tật đố. Xin Phật từ bi thương xót, cho con cơ hội đầu tiên sám hối.
Đức Phật trang nghiêm từ hòa bảo:
- Ông hãy đến sám hối với Xá Lợi Phất vậy.
Vị Tỳ kheo ấy phủ phục cúi đầu quỳ trước Xá Lợi Phất, Tôn giả bèn để tay lên đầu ông và từ tốn nói:
- Tỳ kheo! Trong giáo pháp của Phật, sám hối có sức mạnh vô cùng. Làm người ai không khỏi lầm lỗi. Nhưng biết lỗi liền sửa đó là việc lành rất lớn. Tôi nhận sự sám hối của ông, từ đây về sau đừng tái phạm.
Trước thái độ và lời nói của Xá Lợi Phất ai nghe cũng cảm động. Ngài đã cho chúng ta thấy lòng quảng đại và tâm bình đẳng thật vô lượng đối với kẻ oán người thù.
Chánh Đạo Thắng Ác Quỷ
Khi Đức thế Tôn đang giảng pháp tại vườn trúc Ca Lan Đà thì tôn giả Xá Lợi Phất nhập Kim Cang tam muội ở núi Kỳ Xà Quật. Cùng ở trong núi nầy có hai con quỷ: con thiện là Ưu Bà Ca La và con ác là Già La. Từ xa chúng nhìn thấy Xá Lợi Phất đang ngồi kiết già tĩnh tọa. Ác quỷ Già La bèn nói với thiện quỷ Ưu Bà Ca La rằng:
- Nầy Ưu Bà Ca La! Ta sẽ đánh bể cái đầu của lão sa môn kia.
Thiện quỷ Ưu Bà Ca La cản ngăn:
- Anh chớ nên nói như thế. Vị sa môn ấy là đệ tử của Phật. Ông ta thông minh trí tuệ số một và có thần lực. Nếu như anh khởi ác tâm làm hại vị ấy thì anh sẽ trầm luân vĩnh cửu chịu khổ vô cùng.
Ác quỷ Già La cương quyết:
- Anh sợ lão sa môn ấy sao? Sa môn là người rất dễ bắt nạt. Anh chú ý xem một chưởng của tôi sẽ làm cái đầu của gã sa môn ấy lập tức nát như cám.
Thiện quỷ Ưu Bà Ca La can gián:
- Anh nói như vậy chớ tôi thật kiêng nể sa môn. Tuy họ rất nhẫn nhục và dễ bị lấn áp nhưng các vị ấy oai đức rất lớn. Anh mà đánh vị sa môn nầy, ông ta tuy bị khổ nhất thời nhưng chúng ta sẽ vĩnh viễn bất an.
Thiện quỷ cố cản ngăn nhưng ác quỷ vẫn không nghe liền tung chưởng đánh ngay vào đầu Xá Lợi Phất. Thiện quỷ không nỡ nhìn cảnh ấy bèn tàng hình biến đi. Ác quỷ đánh tới mà Xá Lợi Phất chỉ có cảm giác như một chiếc lá rơi trên đỉnh đầu. Ngài mở mắt ra chỉ kịp thấy một con quỷ thất khiếu chảy máu và rớt xuống địa ngục.
Sau đó, Xá Lợi Phất từ trong Kim Cang tam muội đứng dậy, chỉnh lại y phục, đến vườn trúc gặp Phật. Thấy ông Phật hỏi:
- Xá Lợi Phất! Hôm nay thân ông có việc gì không?
Xá Lợi Phất trả lời:
- Bạch Thế Tôn! Từ trước đến giờ con không có bệnh nặng, nhưng hiện tại trên đầu có đau chút đỉnh.
Phật dạy:
- Xá Lợi Phất! Hôm nay ông nhập Kim Cang định rất tốt, quỷ Già La đánh lên đầu ông mà chẳng gây thương tích cho ông. Phải biết quỷ Già La mà đấm vào núi Tu Di cũng phải bể hai, sức định Kim Cang lớn mạnh như thế các tỳ kheo khác cần phải noi theo mà tu trì.
Đối với Xá Lợi Phất thì Ngài thường đi trong Không Tam Muội và Kim Cang Tam Muội do đó tai nạn bên ngoài không thể làm hại Ngài được.
Xin Nhập Diệt Trước Đức Phật
Lúc bấy giờ Đức Phật đang ở trong rừng của làng Trúc Phương gần thành Tỳ Xá Ly. Sau khi thuyết pháp xong Ngài bèn báo cho đại chúng một tin kinh hãi là ba tháng nữa Ngài sẽ nhập diệt. Tin buồn nầy lan ra rất nhanh làm mọi người trong tăng đoàn buồn thảm. Riêng Xá Lợi Phất cũng không thể nào thấy Phật nhập diệt được, nên khi ở trong định Ngài nghĩ thầm:
- Những đệ tử thượng thủ của chư Phật trong quá khứ đều nhập diệt trước Phật. Nay ta là đệ tử thượng thủ của Thế Tôn nên ta phải nhập diệt trước Ngài.
Sau khi nghĩ như vậy, Xá Lợi Phất liền xả thiền đến trước Phật, quỳ thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nhập diệt xin Đức Thế Tôn chuẩn y.
Phật chú ý nhìn Xá Lợi Phất rất lâu mới hỏi:
- Vì sao ông muốn nhập diệt mau vậy?
Xá Lợi Phất thưa:
- Bạch Thế Tôn! Ngài nói Ngài sẽ nhập diệt rất gần đây.
Thế Tôn đã ban cho con pháp tính và ân huệ rộng lớn, làm sao con có thể thấy Thế Tôn nhập diệt được. Vã lại, Thế Tôn từng nói, các đệ tử thượng thủ của chư Phật trong quá khứ đều nhập diệt trước các Ngài. Con thiết tưởng nay là đúng lúc con nhập diệt, xin Thế Tôn từ bi chấp thuận.
Xá Lợi Phất nói có vẻ thương cảm nhưng vẫn không để mất cái phong độ an tịnh.
Phật lại hỏi:
- Ông định nhập diệt ở nơi nào?
Xá Lợi Phất thưa:
- Con định về cố hương tại làng Na La Tỳ Nỏa Ca, có mẹ già trăm tuổi của con vẫn còn khỏe mạnh. Con muốn về thăm mẹ già lần cuối và sẽ nhập diệt trong căn phòng nơi con lớn lên.
Phật đáp:
- Ta không cản ngăn ông, ông có thể làm theo ý mình, nhưng ông là đệ tử thượng thủ trong hàng đệ tử ta, vậy ông nên đợi ta tập họp tăng đoàn để ông có vài lời giáo huấn cho họ.
Phật sai A Nan tập họp chúng tỳ kheo. Mọi người nghe tin Xá Lợi Phất cáo từ về quê để nhập diệt thì không khỏi ngậm ngùi.
Trước tiên Xá Lợi Phất cáo biệt Đức Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con từ quá khứ vô lượng kiếp luôn luôn hy vọng được sanh nhằm thời Phật ra đời và rốt cuộc đã được mãn nguyện. Nỗi vui mừng khi gặp Phật chẳng có gì so sánh được. Trong 40 năm, lãnh thọ lời dạy từ bi của Thế Tôn, khiến kẻ ngu si như con được mở mắt trí tuệ, giác ngộ chân lý và chứng được thánh quả. Ngôn từ và hình dung trong thiên hạ không thể diễn tả được sự cảm kích và vui mừng của con.Hôm nay thời hẹn lìa cõi tục của con gần kề. Con sắp xả bỏ mọi ràng buộc thế gian, sắp sửa đi vào cảnh giới tự do tự tại. Như người gánh nặng đi xa sắp được buông xuống, con rất vui mừng vì con được thừa thọ pháp thủy cam lồ của Thế Tôn. Chính nó đã giúp con cởi mở mọi sự trói buộc của ngũ uẩn và không còn thọ những khổ não của các cõi nữa. Đây là lời từ giã cuối cùng đối với Thế Tôn, xin Ngài cho con đảnh lễ.
Xá Lợi Phất nói xong liền gieo năm vóc sát đất. Lúc đó bầu không khí thật trầm lặng và mọi người chăm chú lắng nghe từng lời nói chân thành của tôn giả.
Phật gật đầu nói với Xá Lợi Phất:
- Xá Lợi Phất! Những lời giảng dạy của ta ông đã lãnh hội, nay ta thọ ký cho ông tương lai sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai và sẽ trở lại nhân gian giáo hóa chúng sanh để thành tựu quả Phật tối cao.
Đức Phật nói xong liền bảo đại chúng tiễn đưa Xá Lợi Phất một đoạn đường. Tôn giả đứng dậy từ giả đi lui ra cho đến lúc không còn nhìn thấy Thế Tôn mới xoay mình trở lại. Các tỳ kheo đều mang hương hoa đưa tiễn tôn giả và ai ai cũng đều rướm lệ.
Các tỳ kheo đi theo tôn giả Xá Lợi Phất một đoạn đường thì tôn giả dừng lại nói với mọi người:
- Quý vị hãy dừng lại đây, không cần đưa tiễn thêm. Chỉ cần Quân Đầu theo tôi mà thôi. Xin quý vị hãy trở về, tự mình gấp rút tu hành, mong rằng quý vị nỗ lực tinh tấn thoát ly nơi ưu bi khổ não và mau vào cảnh giới giải thoát tự do.
Đức Thế Tôn xuất hiện trên thế gian như hoa Vô Ưu vì hoa nầy chỉ nở trong mấy ngàn vạn năm mà thôi. Thêm nữa, thân người khó được mà đời nay chúng ta được xuất gia và lại được nghe Phật thuyết pháp. Thật là việc hy hữu trong trăm ngàn vạn ức đời. Hy vọng đại chúng tinh tấn thêm lên để chiến thắng cái khổ vô thường và đạt đến cảnh giới của Niết Bàn. Đó mới là nơi trở về vĩnh viễn chơn thật của chúng ta và đó mới chính là thế giới an bình tĩnh mịch.
Tôn giả nói lời ấy xong, đại chúng nghĩ đây là lời tặng cuối cùng trong dịp tử biệt sinh ly. Mọi người đều không nén được nỗi bi ai và họ vừa khóc vừa thưa với tôn giả:
- Tôn giả! Ngài là đệ tử thượng thủ của Đức Thế Tôn, là bậc trưởng lão trong hàng tỳ kheo của chúng con. Về sau chúng con rất cần Ngài lãnh đạo trong việc hoằng dương đạo pháp, vì sao Ngài lại phải nhập diệt sớm thế?
Xá Lợi Phất thấu hiểu tâm trạng của đại chúng nhưng rất an tĩnh mà đáp lại rằng:
- Xin các vị đừng thương cảm như thế. Thế gian nầy là vô thường Phật Đà chẳng thường nói với chúng ta như vậy sao? Núi Tu Di còn có lúc tan vỡ, biển lớn còn có ngày khô cạn thì cái chết của sắc thân Xá lợi Phất tôi như hạt cải nhỏ xíu. Đó là chuyện đương nhiên và đó cũng là thật tướng của thế giới, của vũ trụ. Lời sau cùng tôi muốn dặn dò quý vị là cần phải nhất tâm tu đạo để được thoát ly cảnh khổ để về với thế giới Cực Lạc thanh lương. Đức Phật ngày xưa đã từng nói với tôi quốc độ của Phật A Di Đà ở phương Tây là nơi giải thoát an lạc. Các vị nên niệm Phật thì nguyện vọng của quý vị sẽ được như ý. Tôi lại mong quý vị luôn luôn tuyên dương giáo pháp của Phật Đà, không nên do sự toan tính về danh lợi của riêng mình. Nếu không làm gì phước lợi cho chúng sanh thì đừng xuất gia. Cho đến thời mạt pháp, đời đời kiếp kiếp lúc nào cũng độ cho chúng sanh lìa khổ được vui để họ có thể nối tiếp huệ mạng của Phật Đà.
Xá Lợi Phất nói xong làm mọi người vô cùng cảm động. Mỗi người đều biết đây là lần chia tay sau cùng với tôn giả và sẽ không còn có dịp để tương phùng. Tuy tôn giả bảo đại chúng trở lui, mà ai nấy đều bước theo Ngài. Ngài không vui khi thấy thái độ lưu luyến như thế nên Ngài một lần nữa cự tuyệt sự tiễn đưa của họ. Cuối cùng mọi người phải dừng lại. Mặc dù tôn giả đã đi xa và mất hút tận chân trời nhưng bóng hình của vị trí huệ đệ nhất vẫn hiện lên sáng ngời trong tâm của tất cả mọi người.
Hồi Gia Và Nhập Diệt
Từ giả Đức Phật và tăng đoàn, Ngài Xá Lợi Phất cùng đệ tử Quân Đầu lần bước về quê hương của Ngài. Cảnh cũ người xưa sau bao năm xa cách khiến cho lòng tôn giả khởi lên những đợt sóng triền miên. Mặc dù như thế, chẳng những trong tâm Ngài không loạn động mà nó còn phẳng lặng và sáng suốt như núi Tuyết Sơn. Tất cả những nhận định về nhân sinh quan và vũ trụ quan đều hiện rõ trong tâm Ngài.
Khi Ngài về đến cố hương thì mặt trời đã ngã về Tây và hoàng hôn nhuộm một màu hồng nhạt cho làng Ca La Tỳ Nỏa Ca. Tôn giả ngồi nghỉ bên đường thì đứa cháu gái là Ưu Bà Ly Bà Đa đến bên lễ bái. Tôn giả bèn hỏi:
- Bà nội có ở nhà không?
Bé gái đáp:
- Bà nội vẫn ở nhà.
Tôn giả bảo bé gái:
- Cháu về thưa với bà có ta trở về và thưa với bà cho người quét dọn căn phòng của ta sạch sẽ để ta nghĩ ở đó một đêm.
Mẫu thân của Ngài vui mừng khôn xiết khi gặp lại con mình sau bao năm xa cách. Tuy Ngài đã 80 tuổi, nhưng đối với người mẹ già ngoài 100 tưổi thì lúc nào bà cũng xem Ngài như là đứa con nhỏ mà thôi. Ngài thăm hỏi từng người trong gia đình và sau đó Ngài an nhiên nhìn mẹ, mỉm cười và đem ý định về quê để nhập diệt báo cho mẹ cùng thân bằng quyến thuộc biết. Mọi người nghe xong đều lộ vẻ kinh hãi, nhưng Xá Lợi Phất nói tiếp:
- Xin mọi người đừng bận tâm và xin mẹ đừng coi cái chết của con giống như mọi người. Thông thường lúc chết thì ai cũng khóc lóc nhưng việc con nhập diệt là việc rất vui mừng. Lúc nầy thân tâm con rất vui, rất an ổn. Một đời con gặp được bậc thầy cứu thế Phật Đà, nghe được giáo pháp và thực hành theo đó. Con đã được cứu vớt ra khỏi biển sanh tử và đã được giải thoát từ trong phiền não. Do đó không còn việc gì phải sợ hãi. Sở dĩ hôm nay con về cố hương là để nhập diệt. Vì con là đệ tử thượng thủ của Phật nên con phải nhập diệt trước Ngài. Xin cả nhà yên lòng bởi vì đờingười có ai khỏi chết đâu? Như tôi không chút mê mờ mà nhập diệt thì đó là một hạnh phúc lớn lao.
Mẹ già trăm tuổi của tôn giả sau khi nghe xong thì đổi buồn thành vui vì bà nghĩ rằng con mình đã xả bỏ thế gian một cách tốt đẹp , tự do giải thoát. Bà hy vọng cái chết của mình trong tương lai cũng được như con mình nên bà đem hết tâm tình hoan hỷ mà đón nhận. Xá Lợi Phất lại đem lời của Phật nói lại cho mẹ nghe. Càng nghe bà càng hoan hỷ vì con bà một khi sáng suốt, không mê muội mà nhập diệt thì sẽ không còn vướng bận sanh tử luân hồi và về với cảnh giới an vui tự tại. Bà nói:
- Thôi con hãy nghỉ ngơi một chút đi.
Tuy bà nói vậy, nhưng cũng rơi nước mắt mà lui về phòng.
Khi mọi người đã đi ngủ, tôn giả mới nói với Quân Đầu:
- Con hãy qua phòng bên kia, để một mình ta trong phòng nầy.
Tin Xá Lợi Phất về quê nhập diệt lan truyền khắp mọi nơi. Trong số những người đến thăm còn có vua A Xà Thế của xứ Ma Kiệt Đà. Ông đem theo rất nhiều đại thần để đến tiễn biệt tôn giả lần cuối. Lúc nầy nơi tịnh xá của tôn giả thật vắng lặng và chỉ có một ngọn đèn sáng. Khi hừng đông vừa lố dạng, tôn giả hỏi Quân Đầu:
- Có người nào đến, phải không?
Quân Đầu thưa:
- Dạ phải, nhiều người nghe tin đồn tôn giả nhập diệt nên đến xin gặp mặt, có cả vua A Xà Thế cũng đến.
Tôn giả bảo:
- Con mời họ vào đây.
Quân Đầu ra chào khách và ai nấy đều rón rén bước vào phòng của tôn giả. Sau một lúc, tôn giả mới nói với mọi người:
- Các vị đến đây rất đúng lúc. Tôi cũng muốn gặp quý vị một lần nầy. Bốn mươi năm qua, tôi vâng lãnh lời chỉ dạy của Đức Thế Tôn, đi các nơi giáo hóa hoặc là tu học bên đấng đạo sư.
Tôi đối với ân sư chưa hề có một niệm không vui, hoặc một chút bất mãn. Tôi càng lúc càng cảm kích ân lớn của Ngài. Trên đời nầy, đối với giáo thị rộng lớn sâu xa như biển lớn của Thế Tôn, cũng còn có chỗ sâu xa tôi chưa hiểu hết, hôm nay nghĩ đến điều ấy thật là thiếu sót vô cùng.Tôi được mọi người tôn xưng là trí huệ đệ nhất, chẳng qua là nhờ đức từ bi của Phật, vâng theo lời dạy để hành trì và nỗ lực tinh tấn mà chứng thánh quả.
Tôi nói như vậy là muốn nhắc các vị biết rằng được gặp Phật ở đời là ngàn năm khó thấy, vạn năm không dễ hội ngộ. Các vị phải mau mau theo lời Phật dạy mà tu hành. Bảo bối trong biển pháp rất nhiều do đó các vị không tham cầu thì không được.
Tôi không còn chút gì chấp ngã, hôm nay cáo biệt các vị, tôi sẽ vào cảnh giới an vui tịch mịch, tôi nguyện theo sau Phật đến nơi bất sanh bất tử vĩnh viễn trường tồn.
Thấy dáng mạo an tịnh của tôn giả thì trong tất cả mọi người hiện diện lúc bấy giờ, không một ai có thể tin rằng đây là người sắp rời bỏ cõi đời cả. Vua A Xà Thế và tất cả đại chúng đều cung kính khâm phục và thương cảm. Sau khi nói xong tôn giả nằm nghiêng bên mặt, an trụ trong định và cuối cùng thì nhập diệt.
Ngài Xá Lợi Phất nhập diệt được bảy ngày thì đệ tử Quân Đầu đem hài cốt trà tỳ trở về chỗ Phật và kể hết sự tình cho Đức Phật và A Nan nghe. Phật thấy A Nan rất đổi bi thương và nước mắt đầm đìa mới hỏi:
- A Nan! Ông buồn thảm lo lắng việc gì? Xá Lợi Phất nhập diệt điều ấy không quý báu ư? Ông ấy lãnh thọ pháp giáo của ta, rồi khi viên tịch thì đem hết chân lý đi mà không để lại chút gì sao?
A Nan cung kính chắp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không phải vậy. Con chẳng phải buồn rầu lo lắng điều ấy. Tôn giả Xá Lợi Phất phụng trì giới luật, trí huệ cao siêu, thuyết pháp khéo léo, mạnh mẽ truyền giáo. Nghĩ đến hôm nay tôn giả không còn nữa, vì sự lưu truyền chánh pháp và vị sự tồn tại của giáo đoàn ngàn vạn năm sau, chẳng phải riêng con lo lắng mà cả đại chúng cũng đều buồn rầu lo lắng.
Phật an ủi A Nan:
- Ông chẳng nên lo nghĩ. Xá Lợi Phất tuy không còn nhưng chánh pháp chưa từng mất. Vô thường xưa nay là thật tướng của thế gian, sanh diệt là lý đương nhiên. Đại thọ khi ngã, trước tiên gãy những cành lớn, núi báu trước khi hoại thì tảng đá to hoại trước. Xá Lợi Phất là người nhập diệt đầu tiên trong chúng tỳ kheo cũng là thuận theo pháp tự nhiên. Ta không bao lâu nữa cũng nhập diệt cho nên các ông đừng thất vọng bởi vì giáo pháp của ta chưa từng theo ta mà mất đi. Ta sống mãi ngàn vạn năm trong lòng người tin tưởng và ta luôn chiếu cố đến họ. Các ông cần phải nương nơi pháp, nương nơi chân lý ta đã nói, không nên nương tựa vào ai khác. Cố gắng tu hành để đến thế giới Cực Lạc là công phu cần thiết đệ nhất.
Phật nói xong rồi nhận linh cốt Xá Lợi Phất từ tay Quân Đầu và nói thêm với đại chúng:
- Các tỳ kheo! Linh cốt nầy, trước đây vài ngày còn vì chúng sanh thuyết pháp độ sanh, còn là đại trí Xá Lợi Phất, trí huệ ông ấy rộng lớn vô biên, trừ Thế tôn ra không ai sánh kịp. Ông ấy chứng ngộ pháp tánh, dũng mãnh tinh tấn, thường tu thiền định, vì giáo vì người, hàng phục ngoại đạo, tuyên dương chánh pháp, ông đã chứng quả giải thoát và không còn khổ não.
- Các tỳ kheo hãy xem đây! Đây là di thể do Thế Tôn đích thân cầm lấy.
Khi Đức Phật nói lời ấy, bất giác đại chúng đều đánh lễ linh cốt tôn giả và cung kính gieo năm vóc sát đất. Tôn giả tuy ra đi, nhưng trí huệ và gương sáng về đạo pháp của Ngài còn mãi mãi trong lòng của tất cả mọi người.
Lê Sỹ Minh Tùng
http://nguoiphattu.com/?id/36040/ton-gia-xa-loi-phat-va-nhung-cau-chuyen-ve-ngai