Tuy nhiên,
ít người biết rằng, đằng sau ánh hào quang rực rỡ mà người đời sau vẫn
không ngừng ca ngợi, thiền sư Dogen đã phải trải qua những năm tháng tu
học cực kỳ gian nan, vất vả…
Gian nan tu hành
Thiền
sư Dogen Kigen (còn gọi là Đạo Nguyên Hi Huyền hay Eihei Dogen), sinh
vào năm 1200 trong một gia đình quý tộc tại Kyoto. Cha của Dogen là Kuga
Michichika giữ một chức quan lớn trong triều đình Nhật Bản lúc bấy giờ.
Từ nhỏ, Dogen đã tỏ ra là một cậu bé thông minh xuất chúng. Mới 4 tuổi,
Dogen đã có thể đọc thông thạo những bài thơ chữ Hán mà những người lớn
cũng phải bỏ ra rất nhiều thời gian để học tập mới có thể đọc được.
Đến khi 9 tuổi, Dogen đã có thể đọc làu làu cuốn sách kinh điển của nhà Phật Abhidharma (Thắng pháp) viết bằng chữ Hán.
Tuy
thông minh hơn người, nhưng cuộc đời Dogen từ nhỏ đã gặp phải bất hạnh.
Khi Dogen mới lên 2 tuổi, cha ông qua đời. 5 năm sau đó, mẹ ông cũng
rời bỏ ông. Mới 7 tuổi, Dogen đã mồ côi cả cha lẫn mẹ. Điều này đã gây
ra cho cậu bé Dogen một chấn động rất mạnh và cũng chính nó là nguyên
nhân khiến Dogen tìm đến với Phật giáo.
Sau khi cha mẹ Dogen đều
đã qua đời, một người họ hàng của cha ông là Minamoto, cũng đang làm
quan trong triều đình lúc bấy giờ đã đem Dogen về nuôi. Dự định của
Minamoto là dạy dỗ và đào tạo Dogen để cậu bé theo nghiệp khoa bảng,
tiếp tục sự nghiệp của cha mình. Tuy nhiên, với một cậu bé thông minh
như Dogen, cái chết quá sớm của cả cha lẫn mẹ đã khiến ông luôn băn
khoăn trăn trở về cái lý vô thường trong cuộc đời. Chính vì vậy, Dogen
quyết định không theo nghiệp khoa bảng mà sẽ xuất gia để tìm hiểu ý
nghĩa của vấn đề sinh, tử. Năm 13 tuổi, Dogen xuất gia tại núi Hiei, bái
thiền sư Koen thuộc Tông Thiên Thai làm thầy và được Koen ban cho Pháp
danh là Buppo-bo Dogen.
Sau 2 năm chăm chỉ tu tập, đến năm 15
tuổi, Dogen luôn bị dày vò bởi một câu hỏi: nếu như đúng theo kinh điển
mà Phật dạy thì mọi chúng sinh đều có Phật tính, vậy tại sao người ta
lại phải tu hành để chứng đạt được Phật tính và giác ngộ? Câu hỏi đã
khiến Dogen mất ăn mất ngủ trong một thời gian dài. Lục lọi tất cả các
kinh điển, thậm chí đem câu hỏi ấy ra hỏi chính thầy của mình, thiền sư
Koen, Dogen vẫn không nhận được câu trả lời thỏa đáng. Không tìm được sự
giải đáp cho những băn khoăn của mình từ người thầy đầu tiên, Dogen
quyết định rời đến thiền viện Miideraji xin tu học với thiền sư trụ trì
tên là Koin.
Song, thiền sư Koin cũng không thể giải đáp được câu hỏi vốn đang
dày vò Dogen. Tuy nhiên, Koin đã khuyên Dogen rằng, chỉ có một người có
thể giải đáp được băn khoăn này của Dogen, đó là thiền sư Myoan Eisai
(hay còn gọi là Minh Am Vinh Tây), sư trụ trì thiền viện Kenninji (thiền
viện Kiến Nhân) ở Kyoto.
Thiền sư Eisai (1141 - 1215) là một
thiền sư nổi tiếng lúc bấy giờ. Ông đã từng sang Trung Quốc và đem Tông
Thiền Lâm Tế về truyền bá tại Nhật Bản. Người Nhật Bản coi ông như vị tổ
khai sáng Thiền Tông trong lịch sử nước này. Khi Dogen đem câu hỏi mà
mình băn khoăn từ bấy lâu nay hỏi Thiền sư Eisai, ông đã trả lời rằng:
“Chư Phật không ai biết mình có Phật tính, chỉ có súc sinh mới biết mình
có Phật tính”.
Dogen nghe câu trả lời của Eisai đã sáng hiểu
phần nào dù chưa thỏa mãn. Vì vậy, Dogen quyết định sẽ ở lại tu học với
thiền sư Eisai. Tuy nhiên, Dogen không theo học Eisai được lâu vì chỉ
qua năm sau thì Eisai qua dời. Dogen tiếp tục ở lại thiền viện Kiến Nhân
để theo học với thiền sư Myozen (1184 - 1225), người kế thừa chính thức
của Eisai. Tại thiền viện này, dưới sự hướng dẫn của Myozen, Dogen được
chỉ dẫn tu tập theo pháp môn tông Lâm Tế và rời bỏ Tông Thiên Thai mà
ông theo học ban đầu.
Mặc dù việc tu hành ở Thiền viện Kiến Nhân
giúp Dogen ngày một tiến xa hơn, tuy nhiên, nhưng suy tư khắc khoải về
rất nhiều vấn đề không thể giải đáp được vấn đề hàng ngày dày vò Dogen.
Cuối cùng, Dogen quyết định theo thầy mình là Myozen vượt biển sang
Trung Hoa để tiếp tục tu học. Cuộc hành trình cực kỳ nguy hiểm vào thời
bấy giờ của Dogen bắt đầu vào năm 1223, khi ông mới 23 tuổi.
Ban
đầu, Dogen đến Tu viện Ching-te tại núi Thiên Đồng, Minh Châu của Trung
Quốc và xin thọ giáo Thiền sư Trụ trì tại đây là Wu-chi, thuộc Tông Lâm
Tế. Dưới sự dẫn dắt của Wu-chi, Dogen đã có nhiều tiến bộ trên con đường
tu tập, tuy nhiên, Dogen vẫn cảm thấy những câu hỏi của mình chưa được
giải đáp một cách triệt để. Vì vậy, Dogen lại quyết định ra đi.
Ông
đã đi đến rất nhiều tu viện khác nhau, tham vấn rất nhiều thiền sư, học
hỏi rất nhiều phép tu, tuy nhiên kết quả ông đạt được vẫn không khiến
ông hài lòng. Khi Dogen chán nản và dự định sẽ quay trở về Nhật thì ông
tình cờ nghe được tin Thiền sư trụ trì chùa Ching-te Wu-chi đã qua đời
và người kế nghiệp là Thiền sư Trường Ông Như Tịnh (1163 - 1228), vị tổ
thứ 13 của tông Tào Động, một Thiền sư rất nổi tiếng đương thời. Dogen
quyết định quay trở lại núi Thiên Đồng để theo học cách tu tập của Tông
Tào Động dưới sự chỉ dẫn của Trường Ông Như Tịnh.
Thiền sư Như
Tịnh tổ chức thiền viện của mình rất chặt chẽ và nghiêm chỉnh. Ông đặc
biệt chú trọng vào việc ngồi thiền. Theo gương của sư phụ, Dogen ngồi
thiền chăm chỉ ngày đêm. Cuối cùng, nhờ sự hướng dẫn của Như Tịnh cũng
như sự nỗ lực bản thân, Dogen đã đạt được ước vọng và chứng ngộ. Trường
Ông Như Tịnh trở thành người được Dogen nhắc tới nhiều nhất trong các
tác phẩm giảng giải về Thiền tông mà Dogen viết rất nhiều trong phần đời
còn lại của mình. Sau khi đã được chứng ngộ, Dogen vẫn tiếp tục ở lại
chùa Ching-te để tiếp tục tu hành thêm 2 năm nữa mới trở về Nhật Bản,
truyền bá Thiền tông.
Truyền bá Thiền tông
Sau
bốn năm tu hành tại Trung Quốc, năm 1227, khi mới 27 tuổi, được chứng
ngộ và trở thành một Thiền sư, Dogen lên thuyền trở về Nhật Bản. Bắt đầu
từ đây, thiền sư Dogen bước vào một hành trình mới, hành trình truyền
bá dòng Thiền Tào Động mà ông đã tu học tại Trung Quốc trên đất nước
Nhật Bản. Với trí thông minh tuyệt vời và khả năng ngôn từ xuất sắc,
Dogen đã lý giải và truyền bá dòng Thiền Tào Động theo một cách rất
riêng, từ đó tạo nên nền móng cho sự phát triển cực kỳ mạnh mẽ của dòng
Thiền Tào Động trong những thời kỳ sau này.
Tông Tào Động vốn do
hai Thiền sư Trung Quốc sáng lập: vị khai tổ là Lương Giới Động Sơn và
đệ tử là Tào Sơn Bổn Tịch. Danh từ Tào động là gồm hai địa danh Tào Sơn
và Động Sơn nhập lại. Lương Giới Động Sơn là đệ tử của Vân Nham, thuộc
dòng Hành Tư Thanh Nguyên là một trong số đệ tử của Huệ Năng vị tổ đời
thứ 6 của Thiền tông Trung Quốc.
Trong đời nhà Đường Thiền tông
Trung Quốc có 5 Thiền phái nổi tiếng thuộc 2 hệ thống khác nhau: hệ
thống Nam Nhạc có Lâm Tế và Quy Ngưỡng; hệ thống Thanh Nguyên có Tào
Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Sử sách Trung Quốc gọi là “Thiền Tông Ngũ
Gia” (Năm Tông phái Thiền lớn). Tông Tào Động sau này còn được gọi là
Thiền Mặc Chiếu do thiền sư Đan Hà Tử Thuần khởi xướng. Tuy nhiên, sau
đó tông này không phát triển mạnh ở Trung Quốc vì không có đệ tử nào
xuất sắc nổi tiếng. Chính Dogen với cách truyền bá và giải thích theo
một đường lối riêng đã góp phần phục sinh lại dòng Thiền này trên một
mảnh đất mới chính là Nhật Bản. Cho đến tận ngày này, cùng với Tông Lâm
Tế, Tông Tào Động được coi là một Tông phái Thiền lớn nhất tại Nhật.
Tuy
nhiên, việc truyền bá Thiền tông của một thiền sư trẻ như Dogen không
phải dễ dàng chút nào. Sau khi trở về Nhật, Dogen trở lại thiền viện
Kiến Nhân, nơi ông đã từng tu học. Tuy nhiên, ở đó được 3 năm Dogen cảm
thấy thất vọng thấy vô cùng với tình trạng tu hành của tăng đoàn. Giờ
đây, các tăng ở phòng riêng, đồ đạc sang trọng, quần áo là lượt, thích
nói những danh từ hoa mỹ, trong khi đó thì quên cả nghi lễ, chánh pháp.
Vì vậy, Thiền sư Dogen quyết định rời khỏi thiền viện Kiến Nhân để tới
thiền viện An’yo-in.
Một thời gian sau đó, Dogen dọn tới thiền
viện Koshoji và lập thiền đường để huấn luyện tăng ni cùng các cư sĩ. Vì
nhu cầu truyền pháp nên Dogen phải lập thiền đường để có chỗ huấn luyện
nhưng ông vẫn luôn nhắc nhở mình và các đệ tử rằng việc xây chùa lớn
nguy nga không phải là điều kiện cần để dẫn tới sự giác ngộ. Dù ở trong
một chòi nhỏ, dưới gốc cây mà có theo hiểu được lời Phật dạy và hành trì
theo đúng pháp vẫn có thể chứng ngộ như thường.
Phim về thiền sư Dogen
Trong buổi khánh thành thiền đường, Dogen bước lên đứng trước các đệ
tử và nói: "Ta chẳng tu học tại nhiều thiền viện. Nhưng khi ta yết kiến
Đại sư Như Tịnh thì ta thông hiểu tường tận: lỗ mũi đứng thẳng và hai
con mắt nằm ngang. Từ bấy giờ ta chẳng còn bị ai lừa bịp. Với hai bàn
tay trắng ta trở về cố hương và vì vậy ta chẳng có chút gì có thể gọi là
Phật pháp cả".
Đệ tử ngày một đông khiến Tông phái Tào Động do
Dogen truyền bá ngày một lớn mạnh. Điều này khiến các Tăng tông Thiên
Thai đang có nhiều thế lực lúc đó, tìm đủ cách để ngăn cản, phá rối.
Cuối
cùng, họ đã lập mưu phá tan thiền viện Koshoji mà thiền sư Dogen và các
đệ tử của ông dày công xây dựng. Sau khi thiền viện bị phá, Dogen và
một số đệ tử phải dời đến một ngôi thiền viện nhỏ là Yoshimine-dera, nhờ
sự bảo trợ của Quận trưởng Yoshishige có thế lực và rất sùng bái đạo
Phật.
Sau đó ông Quận trưởng xây một ngôi thiền viện vĩnh viễn
cho sư trụ trì đặt tên là Daibutsu, sau đó được đổi tên là thiền viện
Eiheiji (còn gọi là Vĩnh Bình). Cho tới ngày nay, thiền viện Vĩnh Bình
là một trong hai tổ đình của Tông Tào Động và thiền viện lớn nhất tại
Nhật Bản. Dogen ở chùa Vĩnh Bình truyền bá Thiền tông được mười năm, đến
năm 1253 thì ông qua đời. Năm đó Dogen 53 tuổi.
Bằng Hư - Theo: phunutoday.com
http://www.thienviendaidang.net/00/baimoidua.php?readmore=6120