Ấn
Độ, một trong hai cái nôi của nền văn minh phương Đông, có thể sẽ giảm
đi sức quyến rũ rất nhiều nếu không có ba trong bốn thánh tích thiêng
liêng ấy. Nói cách khác, nếu không có Phật giáo, thì Ấn Độ sẽ không còn
là Ấn Độ như người ta thường biết. Và, Ấn Độ đã không ngớt tự hào về
“người con trai vĩ đại” của mình: Đức Phật - người khai sáng nên một
tôn giáo, một kỷ nguyên của Từ bi và Trí tuệ. Bốn địa điểm này gắn liền
với cuộc đời hoằng hóa của Ngài, do đó, được xem là bốn điểm thiêng làm
rung động trái tim nhân loại. Hàng năm, Tứ động tâm thu hút hàng trăm
ngàn lượt khách đến Ấn Độ (và Nepal).
Lumbini: khúc hoan ca nhân loại
Điểm thiêng liêng thứ nhất chính là Lumbini, tọa lạc tại làng
Rummindei, dưới chân dãy Tuyết Sơn hùng vĩ, cách biên giới Sonauli của
Nepal - Ấn Độ 27km. Tại hoa viên này, hơn 2.600 năm trước, trên đường
trở về quê hương Devadaha của mình, hoàng hậu Maya đã hạ sanh Thái tử
Siddhartha (Tất Đạt Đa). Đó là năm 623 tr.TL, nhân loại đã hoan ca chào
đón Đấng Đại giác Thế tôn ra đời.
Điểm quyến rũ nhất của Lumbini chính là khu Vườn Thiêng, rộng 2,56km2
với những thánh tích quan trọng như: hồ Puskarni - nơi hoàng hậu Maya
tẩy trần trước khi hạ sanh Thái tử; chùa Mayadevi - nơi bảo tồn nhiều
di tích, trong đó có phiến đá in hình dấu chân Phật được phát hiện vào
năm 1996, đánh dấu chính xác nơi Thái tử đản sanh; và đặc biệt nhất là
trụ đá vua Ashoka (A Dục) với những dòng chữ xác tín điểm thiêng
Lumbini: “Hai mươi năm sau khi lên ngôi, quốc vương Devanampiya
Piyadasi (tức A Dục) ngự đến đây chiêm bái, vì Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, bậc hiền nhân của bộ tộc Thích Ca, đã đản sanh tại đây…”
Những Tăng Ni Phậ tử Việt Nam hành hương về
đảnh lễ tại trụ đá Vua A Dục nơi Phật đản sanh
Đến Lumbini, lòng khách hành hương không khỏi hân hoan rộn rã. Này
là bãi cỏ xanh ngát với những thảm hoa khoe sắc màu và hàng ngàn lá cờ
ngũ sắc phất phơ trong ánh nắng đầu ngày; này là chiếc ao trong vắt soi
mình ngôi chùa thắm đỏ; này là những di tích đền đài miếu mạo của một
thuở huy hoàng. Đây đó dưới những tán cây, những nhà sư áo đỏ ngồi
thiền hay lễ lạy; Tăng Ni, Phật tử trên khắp năm châu đọc kinh, chiêm
bái trước trụ đá cạnh chùa Mayadevi. Không gian Lumbini sâu lắng một
nỗi niềm hân hoan khó tả…
Bodh Gaya: ngập tràn thiêng khí
“Tôi đã từng đến chiêm bái Bodh Gaya, nơi khiến cho tôi rúng động
nghĩ rằng, Người đã thánh hóa quả đất này bởi những bước chân Người
chạm đến những nơi vốn rất trần tục. Tại sao, tôi ngẫm trong nỗi đau,
rằng tại sao tôi lại không sinh vào thời ấy, để có thể nhận được những
ảnh hưởng thiêng liêng từ Người bằng cả thể xác lẫn tâm hồn”. (Rabindranath Tagore, 1935)
Dường như bất kỳ người con Phật nào cũng cảm nhận giống như bậc thi
thánh của xứ Ấn khi đặt chân đến Bodh Gaya. Chỉ cái tên ấy thôi cũng đủ
rúng động lòng người. Và chỉ cái tên ấy thôi cũng đủ khiến cho bao
nhiêu người quên đi cái đau trần thế, cảm nhận trọn vẹn khí thiêng an
lành vẫn còn phảng phất đâu đó nơi mảnh đất này qua hơn 2.500 năm dài
dặc!
Với người Phật tử, không có điểm nào thiêng liêng hơn nơi Đức Phật thành Đạo: Bodh Gaya - Bồ Đề Đạo Tràng!
Di tích nền tháp cổ trong vườn Lumbini
Cách thủ phủ Patna của bang Bihar 115km, Bodh Gaya tọa lạc tại một
vùng đất màu mỡ với những cánh đồng xanh ngát được tưới tẩm bởi dòng
Phalgu (dòng Ni Liên Thiền xưa kia). Điểm thiêng nhất của Bodh Gaya
chính là cội bồ đề hơn 110 năm tuổi - “hậu duệ” của cội “Tất bát la”
xưa kia - mà dưới cội cây ấy, Bồ tát Siddhartha, sau 49 ngày đêm thiền
định, đã chứng thành Phật quả. Bấy giờ, Ngài dõng dạc tuyên bố: “Ta
lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà không gặp
kẻ làm nhà; đau khổ thay kiếp sống cứ tái diễn mãi! Hỡi kẻ làm nhà! Nay
ta gặp được ngươi rồi; ngươi không thể làm nhà nữa. Cột và đòn tay của
ngươi đều gãy cả, nóc và xà nhà của ngươi đã tan vụn rồi. Ta đã chứng
đắc Niết bàn, bao nhiêu dục ái đều dứt sạch” (Kinh Pháp cú 153, 154).
Ngay dưới cội bồ đề là tòa Kim cang bằng đồng mạ vàng, dài 2,28m,
rộng 1,5m, cao 0,9m, đánh dấu chính xác nơi Bồ tát Thành đạo. Phía
đông, trước cội bồ đề, là một tòa đại tháp bằng sa thạch vuông vức mỗi
bề 15m, nhọn dần lên đỉnh theo hình kim tự tháp, cao đến 51m.
Mỗi ngày, từ tinh sương đến tối, tại khuôn viên rộng lớn của ngôi
đại tháp này luôn có hàng trăm Tăng Ni, Phật tử và khách hành hương
chiêm bái. Những vị sư tìm một chỗ yên tịnh đâu đó để thiền định. Nhiều
người trải chiếu tại một nơi xa xa, hướng về cội bồ đề và đại tháp lễ
lạy. Những đoàn Phật tử nhiễu quanh đại tháp với lời tụng kinh bằng
nhiều chất giọng âm vang. Ngôi chánh điện với pho tượng Phật mạ vàng
trang nghiêm càng trở nên linh thiêng hơn trong niềm tin của không biết
bao nhiêu tín đồ đến lễ bái, dâng hoa, cầu nguyện…
Sarnath: vang vọng tiếng kinh xưa
“Này các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà bậc xuất gia phải tránh: một
là lợi dưỡng vốn hạ liệt, tục luỵ, phàm phu, không thánh thiện, không
lợi lạc; hai là khổ hạnh cũng không thánh thiện, không lợi lạc lại khổ
đau. Từ bỏ hai cực đoan này, Như Lai thực hành Trung Ðạo chứng đạt pháp
nhãn, tuệ giác, tịnh trí, thắng trí, giác ngộ, niết bàn”.
Đó là lời mở đầu của bài kinh Chuyển pháp luân, bài kinh đầu
tiên mà Đức Phật thuyết cho năm anh em ông Kiều Trần Như tại Sarnath
(Vườn Nai - Lộc Uyển). Sau khi thành đạo dưới cội bồ đề tại Bodh Gaya,
Đức Phật đã đi bộ vượt hơn 250km, ngang qua sông Hằng để đến Sarnath.
Và tại đây, Tăng già đã hình thành, và cũng từ đây, những người con
Phật có đầy đủ ba ngôi Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.
Nằm cách Varanasi, thánh địa Ấn giáo, chừng 10km, Sarnath là một khu
thánh tích quan trọng, gồm nhiều di tích chùa, tháp, viện. Tâm điểm là
ngọn đại tháp Dhamekh, được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ VI trên di
tích của một ngôi tháp nhỏ hơn có từ thời vua Ashoka, khoảng năm 234
tr.TL, cao 33m với nhiều hoa văn độc đáo.
Tượng Đức Phật thờ phía bên trong Đại tháp-Bồ Đề đạo tràng
Cách tháp Dhamekh không xa hiện còn một ngôi tháp được xây dựng theo
lối kiến trúc mới, mô tả quang cảnh thính pháp của năm vị khổ hạnh ngồi
vây quanh Đức Phật. Đây là một trong những công trình nổi bậc nhất tại
Varanasi, có hình tròn-trụ, cao 43,6m với đường kính tại đế tháp khoảng
28m. Ngoài ra, Varanasi
còn có dấu tích của tháp Dharmajajika cao khoảng 61m, và một trụ đá do
vua Ashoka xây dựng để kỷ niệm ngày nhà vua thăm viếng Tăng đoàn.
Mỗi ngày, Sarnath đón hàng trăm khách hành hương đến chiêm bái; nhất
là vào mỗi sáng - chiều, có rất nhiều Phật tử đến kinh hành quanh tháp
hay lễ lạy, ngồi thiền, tụng niệm trên các thảm cỏ. Cạnh đó là một khu
vườn rộng với một vài chú nai hiền lành, ngơ ngác như cố minh chứng cho
một thời an lành của chúng bên chân Đức Từ phụ.
Kushinagar: nỗi đau dâng tràn
Nếu Lumbini tấu lên những khúc hoan ca, Bodh Gaya ngập niềm linh
thiêng rúng động, Sarnath mênh mang sâu lắng, thì Kushinagar chất chứa
bao nỗi u hoài. Bởi, đây chính là nơi Đức Từ phụ, sau 49 năm giáo hóa
không mệt mỏi, đặt dấu chân lên khắp một vùng rộng lớn của lưu vực sông
Hằng, Ngài đã nhập Vô dư y Niết bàn.
Năm 543 trước Tây lịch, vào một đêm trăng tròn tháng Magh
(tháng Một-Hai), tại ngôi làng Beluva gần thành Vaishali, Đức Phật đã
thuyết về sự vô thường của vạn pháp và tuyên bố rằng ngày niết bàn của
Ngài sắp đến. Từ giã Vaishali, Đức Phật bắt đầu cuộc hành trình dài
280km, hướng về ngôi làng Pava, Kushinagar. Nơi đây, ngài đã thọ nhận
bữa ăn cuối cùng của bác thợ rèn Chunda và nghỉ tại rừng cây sala bên
bờ sông Hiranyavati. Sau khi hỏi trong chúng đệ tử còn có ai cần hỏi
điều gì nữa không, Đức Phật đã thuyết bài pháp cuối cùng, rằng: “Hãy ghi nhớ, tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hãy tinh tấn, chớ có buông lung”. Thuyết xong, Ngài an nhiên thị tịch, bấy giờ Ngài vừa tròn 80 tuổi.
Kushinagar nguyên là thủ đô của nước cộng hòa Malla xưa kia, hiện
nay thuộc làng Kasia, cách thành phố Gorakhpur ở miền đông của bang
Uttar Pradesh 51km. Đến với thánh địa này, khách hành hương thường
chiêm bái những nơi thiêng liêng như: điện Mathakuar, nơi Đức Phật
thuyết bài pháp cuối cùng; chùa và tháp Đại bát Niết bàn, nơi Đức Phật
nhập diệt; tháp trà tỳ Angrachaya, nơi trà tỳ kim thân Đức Phật; và
tháp phân chia xá lợi Rambhar.
Bước vào ngôi chùa Đại Niết bàn, đập vào mắt khách hành hương là một
pho tượng Phật Niết bàn dài 6m, được tạc từ đá đen, song ngày nay pho
tượng được dát vàng óng bởi niềm tôn kính của những Phật tử từ khắp nơi
trên thế giới. Pho tượng tuy thô mộc nhưng hết sức sống động, khiến cho
những người con Phật không khỏi ngậm ngùi rơi lệ như thể Đức Thế tôn
vẫn đang còn nằm đó trong cuộc thiền định dài vô tận. Nhiều người đã
cúi xuống, chạm trán mình vào chân Ngài và bậc khóc. Những giọt nước
mắt rơi trên chân pho tượng, lấp lánh ánh vàng…
Cũng như tại thánh địa Bodh Gaya, thường xuyên có những Tăng Ni,
Phật tử đến Kushinagar chiêm bái, cúng dường. Họ dâng lên Đức Phật tấm
y mới, thay cho tấm y cũ của Ngài. Những người thiện duyên có thể thỉnh
được những chiếc y này về tôn thờ, kỷ niệm.
Trong kinh Trường Bộ I (Đại Bát Niết Bàn), Đức Thế Tôn đã có lời căn
dặn như sau: “Này Ananda, có bốn Thánh tích, người thiện tín cư sĩ cần
phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Này Ananda, các thiện tín Tỷ kheo, Tỷ
kheo ni, nam nữ cư sĩ sẽ đến với niềm suy tư: Đây là chỗ Như Lai đản
sanh, đây là chỗ Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác, đây là chỗ
Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng, đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô
dư y Niết bàn. Này Ananda, những ai trong khi chiêm bái những Thánh
tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân
hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên”.
QUẢNG KIẾN (Ấn phẩm Du Lịch Tâm Linh số 1