Lê
Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời
Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan,
đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một
gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm
khác.[1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục,[2]
là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật
giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc
Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu
quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền
tông Việt Nam mà ông đã chép.
Mở đầu thiên Thiền dật, Lê Quý Đôn đã khái quát tinh hoa của Nho giáo chính là nằm ở sách Trung Dung.
Ông xem cương thường, luân kỉ, lễ nhạc, v.v., đều là do trời đất sáng
lập, và Thánh nhân, chỉ cho các nhà Nho, giảng giải những điều ấy là
nhằm làm sáng tỏ đạo Trời, giáo dục con người trở nên chánh trực…
Tuy ông là một Nho sĩ, nhưng không quá
câu nệ vào tư tưởng Nho gia, mà có cái nhìn thiện cảm với cả Lão giáo và
Phật giáo. Bởi lẽ, ông nhận thấy rằng, lời dạy của Phật giáo và Lão
giáo đều trọng ở sự thanh tĩnh, hư vô, siêu việt, tịch diệt mà không hệ
lụy vào sự vật…, cũng là những lời dùng để tu thân, và cũng rất cao
siêu. Bên cạnh đó, ông thẳng thắn phê bình sự chấp trước và câu nệ hình
thức nên hay bắt bẻ của các Nho sĩ, nhất là, thái độ phỉ báng cả Tiên và
Phật của họ, mà nguyên nhân chính theo ông, đó là thiên hạ thì quá rộng
lớn, phong tục, tập quán, tư tưởng, v.v., của các nước khác nhau rất
nhiều, mà các Nho gia đem cái tri thức hạn hẹp của mình để phán xét các
điều lạ lẫm, linh thiên, v.v., thì đó là cái nhìn quá nhỏ mọn, kém cỏi.
Qua đây, ông đã gián tiếp khuyên các nhà Nho ở nước ta nên có thái độ
phóng khoáng, đừng nên lúc nào cũng tự tôn rằng chỉ có Nho giáo là cao
vời nhất, bởi vì những gì chúng ta hiểu được thì quá nhỏ bé, ngay cả về
mặt địa lý đã thấy trở ngại, huống gì những điều huyền vi diệu pháp của
Thánh nhân sao có thể hồ đồ mà bài xích được.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng, sở dĩ Lê Quý Đôn
có cái nhìn thiện cảm với Phật giáo là bởi ông phát hiện những giới
luật của Phật giáo, cụ thể là 6 giới: tham-sân-si và dâm-sát-đạo, hoàn
toàn phù hợp với 3 giới của đức Khổng tử là: sắc, đấu, đắc. Trong 3 giới
mà đức Khổng tử dạy, thì sắc khởi đầu từ si mê, tột cùng của nó là dâm;
đấu là đấu tranh, khởi đầu của nó là sân, tột cùng là giết hại; đắc là
sự ham muốn thủ đắc, mà khởi đầu của nó là tham, tột cùng là trộm cắp.
Điểm tương đồng mà Lê Quý Đôn nhận thấy, tức là 6 giới của Phật giáo và 3
giới của đức Khổng tử, chung qui cũng nhằm giúp con người tu thân,
dưỡng đức. Tuy vậy, 6 giới của Phật giáo không chỉ giúp con người trở
thành một con người trong sạch, hay nói khác hơn là trở thành một người
tốt của xã hội, hoặc là một ‘chân quân tử’ như lời đức Khổng tử, mà 6
giới của đức Phật còn hướng đến mục tiêu đặc biệt, đó là giác ngộ, thành
tựu Niết-bàn. Trong khi ấy, 3 giới của đức Khổng tử chỉ dừng ở mức làm
cho con người được chân chánh, người không tham sắc dục là người chung
thỉ với vợ mình, không có tà dâm; tột đỉnh của giết hại, theo Nho giáo,
là giết người, nhưng Phật giáo còn chủ trương xa hơn là không giết cả
những sinh vật vô tội nữa; còn giới không nên tham lam, trộm cắp, Nho
giáo chỉ dừng lại ở mức là không tham lam tài vật của người khác, còn Phật giáo,
ngay đến cả thân bằng, quyến thuộc, thậm chí thân thể của mình cũng
không chấp trước vào nó, chính thái độ phóng xả hoàn toàn như vậy, mới
có khả năng đạt đến sự giải thoát toàn vẹn. Đức Khổng tử dạy phải trung
quân, ái quốc, nhưng như thế thì đã bảo người ta có sự phân biệt, đây
không phải là vua của ta, kia không phải là nước, là dân của ta, và hẳn
nhiên, khi đã có phân biệt như vậy thì phải có đấu tranh, để giữ nước,
bảo vệ vua của ta, v.v., đó cũng là gốc của đấu tranh rồi.
Như vậy, Lê Quý Đôn chỉ mới dừng lại ở
mức hiểu khái quát về giới của Phật giáo, mà chưa thấy cái sâu sắc của
nó, nên ông có thái độ đánh đồng nó với 3 giới của đức Phu tử. Do đó,
ông kết luận rằng: “Người nào có thể thụ bẩm được những lời răn trên đây
của Phu tử là đã thành Phật rồi,”[3] là một lời vội vã và cạn cợt quá
vậy!
Kế đến, ông đã dẫn sách Thượng thư cố thực nói rằng: “Phật giáo
thuộc về sao Quỷ…,” và chuyện chư thiên nói: “Đại Thánh thái tử và sao
Quỷ đã hợp lại…,” và tin đó là sự ứng nghiệm.[4] Tuy nhiên đó là chuyện
‘bịa đặt’ của các sách vở ở Trung Hoa thôi, qua đây cũng cho thấy sự ‘dễ
tin’ của ông vậy!
Đặc biệt, ông tuyển những đoạn dạy về đạo trị nước, được ghi chép trong sách Thái bình quảng ký và Pháp uyển châu lâm, để cho thấy rằng Phật giáo cũng dạy về đạo trị nước. Cụ thể, sách Thái bình quảng ký
dẫn lời của Thiền sư Na-bạt-ma đáp câu hỏi của Tống Văn đế: “Đế vương
và dân thường tu hành khác nhau… Đế vương lấy bốn bể là nhà…” Còn Pháp uyển châu lâm thì
dẫn lời Phật kể chuyện chim Anh vũ khuyên vua nước Ca-thi: “Có bảy việc
trái phép có thể gây ngụy hại cho thân thể của vua… bồi dưỡng cho muôn
loài.” và sách này còn nói: “Ta nhờ xưa biết hiếu dưỡng nên nay mới được
thành Phật.”[5]
Còn về đạo hiếu, ông cũng cho chúng ta biết rằng Phật giáo
cũng chú trọng đạo hiếu chứ không phải Phật giáo chủ trương bác bỏ hiếu
đễ và đi ngược lại truyền thống của Trung Quốc. Ông dẫn đoạn “Ta nhờ
xưa biết hiếu dưỡng nên nay mới được thành Phật” trong sách Châu lâm đã
dẫn trên, và một đoạn trong kinh Lăng nghiêm rằng: “Phật bảo A-nan rằng: Ta và em cùng khí huyết… bỏ hết thế gian nặng ân ái?” Ông cũng dẫn Kim cương luận và đoạn kinh Lăng nghiêm
khác cũng nói về tư tưởng hiếu đạo. Như vậy, đối với Lê Quý Đôn, Phật
giáo cũng dạy về đạo trị nước, tề gia, hiếu đạo như là Nho giáo, nhưng
Phật giáo thì nói được cụ thể và thâm thiết hơn rất nhiều. Đó là phát
kiến của ông, nhưng trước đó khoảng 16 thế kỷ, trong Lý hoặc luận, Mâu tử đã biện giải vấn đề này rồi.[6]
Về mặt nhân và nghĩa của Nho giáo, thì
Phật giáo cũng có dạy như thế, đó là sự làm lợi cho người, lợi mình. Do
đó, ông cho rằng: “Tôi nghĩ, đại để thì tôn chỉ của pháp môn cho rằng
thế gian này tất cả đều hư vọng, cho nên phải tu thành chân giác để có
thể siêu thoát ra khỏi lục trần. Khi đã thành vô thượng diệu đạo thì tất
nhiên sẽ thương xót chúng sanh và phổ thi phương tiện… chứ không phải
bỏ hết luân thường đạo lý đâu.”[7]
Đây là lời nhận xét rất xác đáng của ông về Phật giáo,
bởi đức Phật không bác bỏ luân thường đạo lý, tức là cái đạo làm người.
Để làm một con người tốt, xa hơn là tránh bị quả báo khổ đau, Phật dạy
người tại gia hay xuất gia đều phải giữ 5 giới căn bản là không sát
sanh, không trộm cướp, không tà dâm (người xuất gia thì cấm hẳn dâm),
không nói dối, không uống rượu. Ngoài ra, trong kinh Thiện Sanh,[8] đức Phật đã dạy tỉ mỉ về bổn phận của cha mẹ đối với con cái, con cái đối với cha mẹ, chồng với vợ, vợ với chồng, v.v.
Phật giáo chủ trương từ bi, nhưng từ bi
phải có trí huệ thì mới đúng đắn được, Lê Quý Đôn cũng đồng ý như thế,
nên ông đã dẫn sách Thái bình quảng ký kể về lời của nhà sư
Nhất Hạnh rằng: “…Chút từ tâm nhỏ là giặc của từ tâm lớn. Lời của ác quỷ
lấy gì để bảo đảm được,” và ông kết luận rằng: “Trộm nghĩ phép quan
cũng vậy. … không thể nhân từ với kẻ cố ý.”[9] Thật ra, Phật giáo không
những nhân từ với người lương thiện và với kẻ ngu dại trót lầm lỡ, mà
đối với kẻ gian tà nhũng nhiễu, những kẻ cố ý. Đối với những kẻ ác, Phật
giáo đồng ý phải trừng trị họ, nhưng quan trọng nhất là dùng đạo lý để
cải hóa họ trở thành lương thiện, đó là làm cho chính họ đánh thức cái
bản tánh hiền thiện của chính họ, chứ không chủ trương loại họ ra khỏi
hẳn xã hội, như chuyện Phật đã cảm hóa tên cướp Ương-quật-ma-la
(Aṅgulimāla) trở thành Tỳ-kheo và sau đó đạt được quả A-la-hán (Arhat).
Đây là điểm đặc biệt mà chúng ta không thấy có trong Nho giáo.
Lê Quý Đôn cũng tin vào thuyết báo ứng, nên khi đọc Thái bình quảng ký chép những chuyện linh ứng khi đọc kinh Kim cương, kinh Quan âm, kinh Cứu khổ.
Đó là những người tin tưởng kinh Phật giáo, đọc tụng nên được cảm ứng.
Ông cũng tin tưởng chuyện vua Chu Cao tổ nung chảy tượng Phật, đốt cháy
kinh Phật nên bị quả báo là lở lói, 7 ngày rồi qua đời, sau đó vận nước
cũng đổi thay. Và chuyện Chu Thế tông bắn trúng vú của tượng Phật nên
sau đó cũng bị ung thư vú mà chết, như Vương Củng đã chép trong Tạp lục. Đây là một điểm nữa, mà Lê Quý Đôn nhận thấy rất tương đồng với thuyết báo ứng mà trong Kinh Thư và Kinh Dịch
đã chép. Tuy nhiên, ông vẫn còn bị hạn chế trong tư tưởng ‘thực dụng’,
tức là những chuyện báo ứng trong một đời, nguyên nhân và kết quả xảy ra
trong thời gian ngắn, hay trong một đời người nên tin được, còn kinh
Phật nói đến nhân quả trong 3 đời thì ông không kiểm chứng được, nên đi
đến khẳng định rằng: “Kinh sách nhà Phật nói về kiếp trước và kiếp sau,
nghe mông lung không thể hiểu được.”[10] Thật ra không phải chỉ mình Lê
Quý Đôn nghi ngờ về vấn đề đó, mà còn có rất nhiều không tin có luật
nhân quả ảnh hưởng trong cả 3 đời. www.phathocdoisong.com
Lê Quý Đôn cũng dẫn chứng đoạn kinh Lăng-già nói về 10 giới, và xem kinh này có giá trị rất cao, mang tác dụng thức tỉnh người đời. Tuy vậy, kinh Lăng-già
không chỉ dừng lại ở việc nói về 10 giới, mà còn bàn đến tư tưởng Như
lai tạng, thức A-lại-da, v.v. Vì nó quá cao siêu, mà người không có
nghiên cứu toàn bộ hệ thống giáo lý, cũng như tu tập theo Phật giáo như
ông thì sẽ rất khó hiểu, có lẽ vậy nên ông chỉ đề cập đến 10 giới mà
không bàn đến tư tưởng khác trong kinh này.
Như vậy, chúng ta thấy Lê Quý Đôn
đã nhìn ra được khía cạnh tích cực nơi Phật giáo, nên không tái phạm
sai lầm như những nhà Nho tại Trung Hoa, đem cái nhìn thiển cận của mình
để chê bai Phật giáo, điển hình là Hàn Dũ, Vương An Thạch và Vương
Dương Minh. Như Hàn Dũ nói: “Nay [Lão giáo và Phật giáo] muốn trị tâm,
nhưng lại để tâm ra ngoài thiên hạ và quốc gia…;” còn Vương Dương Minh
thì nói: “Nhà Phật sợ cái khổ lụy của cha con… nên chạy trốn.”[11] Đó là
cái nhìn sai lầm, xuất phát từ sự không am hiểu Phật pháp, cũng như
lòng tị hiềm và tự tôn Nho học quá đáng của những người này.[12]www.phathocdoisong.com
Về mặt Nhân sinh quan, Lê Quý Đôn cho
rằng chủ trương thân con người được tạo nên từ 4 yếu tố (Tứ đại, hay còn
gọi là Tứ hành) là đất – nước – lửa – gió của Phật giáo, được dẫn trong
kinh Viên giác, là hoàn toàn tương đồng với thuyết Ngũ hành của Nho giáo.
Ngoài ra, ông còn tin vào yếu tố Mật tông, bằng cớ là dẫn sách Thái bình quảng ký
nói về phương pháp thoát nạn khi gặp kẻ ác, bằng cách cầm dao hoặc sừng
tê giác, lấy đầu ngón tay cái bấm vào đốt thứ 3 của ngón giữa ở cùng
bàn tay trái, rồi đọc thần chú: Cát trung cát ca tuất luật đề trung hữu
luật đà ha bà ca ha. www.phathocdoisong.com
Ông còn đặc biệt xưng tán kinh Lăng nghiêm
là “bộ kinh huyền bí nhất của Thiền gia, không những là ý nghĩa sâu
rộng mà văn pháp cũng cao siêu, biện luận và phân tích rất tỉ mỉ, từ
dùng rất khí thế, có thể nghiêng sông lật núi. Sách này nói rằng Pháp
vương là đại hùng, đại biện. Thật đáng tin lắm.”[13] Nhưng kinh này cao
siêu như thế nào thì ông không nói rõ.
Có thể nói, Lê Quý Đôn là người đầu tiên,
ít nhất là với những tác phẩm Phật giáo thời sau khi Phật giáo truyền
vào nước ta cho đến đời của ông còn bảo tồn được, đã chú trọng đến việc
giải thích (hoặc sao chép lại sách Phật giáo từ Trung quốc) các Pháp số
của Phật giáo, có cả phần phiên âm tiếng Phạn, hay giải thích các từ
phiên âm tiếng Phạn sang tiếng Việt. Tuy rằng, số lượng từ mà ông giải
thích còn hạn chế trong số lượng từ ít ỏi, nhưng cũng đủ cho thấy tinh
thần khoa học của ông, đó là tinh thần có nhu cầu hiểu biết từ nguyên
gốc của từ vựng Phật học.[14] Qua đây cũng đặt ra cho người Việt Nam nào
hiện đang học Phật, cần phải học hỏi Phạn ngữ để hiểu ý nghĩa gốc của
những từ Phật học để lý giải giáo lý Phật giáo cho chính xác.
Một điểm đáng chú ý trong thiên Thiền dật
này, là Lê Quý Đôn dẫn lại lời của ông Chu Tử phê bình Phật giáo. Đại
khái, Chu Tử cho rằng ban đầu khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, chỉ
có vài quyển kinh được dịch sang Hán ngữ, như kinh Tứ thập nhị chương, Di giáo, Pháp hoa, Kim cương, [Kim] Quang minh.
Những lời trong các kinh này bất quá cũng chỉ bàn về “thanh, hư, duyên,
nghiệp và những thuật thần thông biến hóa. Về sau, các học giả như Huệ
Viễn, Tăng Triệu mới bắt đầu cóp nhặt lời của Trang, Liệt mà thêm
vào.”[15]
Có lẽ đây là một sự nhầm lẫn của Lê Quý
Đôn, nhưng chúng ta có thể thông cảm được, vì ông là một Sử gia Việt Nam
nên việc xảy ra trong nước thì bằng cách này hay cách khác, ông có thể
kiểm chứng được, nhưng về lịch sử Phật giáo thì hẳn là với số tài liệu
đang có trong tay, không thể giúp cho ông có đủ điều kiện để xét lại vấn
đề, nên ông chỉ chép lại lời của Chu Tử mà không bàn gì thêm. Thật ra,
Chu Tử nói lời đó chỉ là ‘đánh lận con đen’, nhằm thỏa mãn cho mục đích
bài xích Phật giáo của ông ấy mà thôi.
Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, với
sự khác biệt về ngôn ngữ, phong cách tư duy, thì người Trung Quốc khó
lòng tiếp nhận được triết học Phật giáo được. Do đó, các nhà Phật học
lúc ấy, như La-thập, Huệ Viễn, Tăng Triệu mới dùng khái niệm và từ ngữ
có sẵn trong văn hóa cũng như triết học của Trung Quốc lúc bấy giờ để
dịch và giảng Phật giáo, đó gọi là phương pháp cách nghĩa, nhờ đó mà
Phật giáo mới bắt đầu được phổ biến, bời vì người Trung Quốc thấy Phật
học, qua lời giảng của những vị ấy, gần gũi với tư tưởng sẵn có của dân
tộc mình.[16] Điểm cần lưu ý ở đây là chỉ mượn từ ngữ chứ không mượn tư
tưởng. Về sau, các nhà Phật học thấy được sự sai lầm ấy nên đã chỉnh đốn
lại. Ngay như trong Liệt tử tự (列 子序) của Trương Trạm (張湛) –
một học giả đời Đông Tấn, cũng đã nói rõ rằng: “Nhưng nhằm làm rõ tông
chỉ ấy, nên thường thường tham chiếu với kinh Phật, rồi quy tất cả về tư
tưởng Lão, Trang.”[17] Như vậy là quá rõ ràng, chính Phật giáo đã ảnh
hưởng ngược lại đến tư tưởng triết học Trung Quốc, tuy nhiên, chúng ta
cũng không thể phủ nhận rằng tư tưởng triết học Trung Quốc không có ảnh
hưởng gì đến Phật giáo Trung Quốc.[18]
Tóm lại, qua nghiên cứu thiên
Thiền dật của Lê Quý Đôn, điều chúng ta có thể khẳng định ngay rằng,
ông là một Nho sĩ có thiện cảm với Phật giáo. Tuy rằng, sự tiếp cận của
ông về Phật giáo chỉ ở mức ban đầu, tức là chỉ ở những điểm mà ông cho
là Phật giáo tương đồng với Nho giáo, mà chưa đi tìm hiểu được những
giáo lý sâu sắc hơn của Phật giáo. Điểm hạn chế của ông là không có
nguồn sử liệu dồi dào về Phật giáo, và tất nhiên ông chỉ đọc được vài
bản kinh mà vào thời của ông, chúng đang được lưu hành. Bởi vậy ông vẫn
có những nhận định còn sơ sài, mà có lẽ ông cũng không có đủ thời gian
để nghiên cứu những tư tưởng sâu sắc hơn ở trong kinh Lăng-già, Lăng-nghiêm, Pháp hoa,
v.v. Ngoài ra, ông chép lại lời của Chu Tử mà không bàn luận gì thêm,
chứng tỏ là ông đang đứng trên phương diện là sử gia, biên chép mà không
luận, nên không rõ là ông có đánh giá gì về nhận xét đó.
Có thể nói, công lao to lớn
của ông đối với Phật giáo Việt Nam nói chung, và Thiền phái Trúc lâm nói
riêng, là sao chép lại những thi ca của các Thiền sư, đặc biệt là hành
trạng của ba vị Tổ của Thiền phái Trúc lâm, cũng như toàn bộ ngữ lục của
Thiền sư Hương Hải. Đặc biệt Lê Quý Đôn cho rằng, Tam tổ Huyền Quang
xuất gia vào năm 19 tuổi, chứ không hề đi thi và đỗ Trạng nguyên.
Qua những ghi chép của ông,
chúng ta cũng hình dung được một phần nào tình trạng Phật giáo vào đời
Hậu Lê, tuy rằng Phật giáo không còn hưng thịnh và phát triển mạnh trong
tầng lớp phong kiến, mà có lẽ nó đã phát triển thành phương pháp khác,
đó là lan truyền và phát triển trong quần chúng xã hội nhiều hơn. Và
chúa Trịnh Cương ở Đàng ngoài cũng mộ Phật giáo, vào năm 1724 (thuộc
niên hiệu Bảo Thái đời vua Lê Dụ Tông) đã sai mở rộng chùa Nguyệt Đường
và cấp hơn 50 mẫu đất cho chùa.
Như vậy, vào đời Lê, Phật
giáo vẫn phát triển, và kinh điển đang lưu hành lúc ấy, toàn bộ đều là
những kinh Đại thừa, như Lăng-nghiêm, Lăng-già, v.v., mà Lê Quý Đôn đã dẫn.
THƯ MỤC THAM KHẢO
- Nguyễn Q. Thắng, Từ điển Tác gia Việt nam, Nxb. Văn Hóa-TT, Hà Nội, 1999.
- Lê Quý Đôn tuyển tập, Tập 5 – Kiến văn tiểu lục, Nguyễn Khắc Thuần dịch – hiệu đính – chú thích, Nxb. Giáo Dục, Hà nội, 2009.
- Hoằng minh tập, q. 1, Mâu tử lý hoặc luận, T. 52, No. 2102.
- 《長阿含經》卷11, 善生經 (12), T. 1, No. 1.
- Phùng Hữu Lan, Lịch sử Triết học Trung quốc, Lê Anh Minh dịch, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 2007, tập 2.
- 護法論, T. 52, No. 2114.
- Dương Bá Tuấn, Liệt Tử tập thích, (Hán ngữ), Trung Hoa thư cục xuất bản, 1979.
- Lữ Trừng, Trung Quốc Phật học nguyên lưu lược giảng (Hán ngữ), Trung hoa thư cục xuất bản, Bắc Kinh, 1979.
[1] Nguyễn Q. Thắng, Từ điển Tác gia Việt nam, Nxb. Văn Hóa-TT, Hà Nội, 1999, tr. 493-504.
[2] Lê Quý Đôn tuyển tập, Tập 5 – Kiến văn tiểu lục, Nguyễn Khắc Thuần dịch – hiệu đính – chú thích, Nxb. Giáo Dục, Hà nội, 2009, tr. 186-309.
[3] Lê Quý Đôn toàn tập, sđd, tr. 191.
[4] Lê Quý Đôn toàn tập, sđd, tr. 191-192.
[5] Lê Quý Đôn toàn tập, sđd, tr. 193.
[6] Hoằng minh tập, q. 1, Mâu tử lý hoặc luận, T. 52, No. 2102.
[7] Lê Quý Đôn toàn tập, sđd, tr. 194-195.
[8] 《長阿含經》卷11, 善生經 (12), T. 1, No. 1.
[9] Lê Quý Đôn toàn tập, sđd, tr. 195.
[10] Lê Quý Đôn toàn tập, sđd, tr. 198.
[11] Phùng Hữu Lan, Lịch sử Triết học Trung quốc, Lê Anh Minh dịch, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 2007, tập 2, tr. 469, 671.
[12] Về sự bài bác Phật giáo của Hàn Dũ và Vương An Thạch, Thừa tướng Trương Thương Anh đã phản biện trong Hộ pháp luận, xin xem: 護法論, T. 52, No. 2114.
[13] Lê Quý Đôn toàn tập, sđd, tr. 200.
[14] Lê Quý Đôn toàn tập, sđd, tr. 203-215.
[15] Lê Quý Đôn toàn tập, sđd, tr. 216.
[16] Xin xem: Phùng Hữu Lan, Lịch sử Triết học Trung quốc, Sđd, chương 7-9, tr. 281-465.
[17] Xin xem: Dương Bá Tuấn, Liệt Tử tập thích, (Hán ngữ), Trung Hoa thư cục xuất bản, 1979, tr. 279.
[18] Xem thêm: Lữ Trừng, Trung Quốc Phật học nguyên lưu lược giảng (Hán ngữ), Trung hoa thư cục xuất bản, Bắc Kinh, 1979, bài giảng thứ 3, tr. 43-65.