Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
PHÂN TÍCH CÁC PHONG TRÀO VĂN NGHỆ TRANH ĐẤU TẠI MIỀN NAM TỪ 1965 ĐẾN 1969
Lê Trương (Hội Sinh viên sáng tác Sài Gòn /1970)
30/09/2011 10:20 (GMT+7)


 

 

 

 

 

PHONG TRÀO TÂM CA (1965)

 

Vào năm 1965, cuộc diện chiến tranh Việt Nam thay đổi đột ngột. Lính ngoại quốc bắt đầu đổ bộ lên Việt Nam, không lực Hoa kỳ khởi sự trút bom xuống miền Bắc. Giữa lúc đó tại các đô thị miền Nam, một phong trào văn nghệ xuất hiện, lôi cuốn các giới trí thức, già trẻ một cách mãnh liệt. Đâu đâu cũng nghe người ta hát TÂM CA; hết đoàn thể này đến đoàn thể khác liên tục tổ chức những chương trình Tâm Ca.

Mọi người say mê thở không khí Tâm Ca, dù là người Phật giáo, người Công giáo, dù là người chống hay không chống chế độ Bắc Việt. Rồi qua những cuộc tranh đấu, Tâm Ca trở thành một phong trào bao trùm nhiều giới quần chúng. Chúng tôi gọi đó là phong trào TÂM CA PHẢN CHIẾN, chữ phản chiến hiểu theo nghĩa không muốn chiến tranh, cho dù là loại chiến tranh nào. Dựa vào hoàn cảnh lịch sử, dựa vào thái độ của người nghe, người hát cũng như dựa vào âm nhạc và lời ca, chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của phong trào văn nghệ này như thế nào.

 

 1. Ý nghĩa thứ nhất của phong trào này là thể hiện khát vọng Hoà Bình:

Kể từ năm 1965, nhạc Hoà Bình đã bắt đầu xuất hiện. Có điều đặc biệt là dường như hai tiếng Hòa Bình không được nhắc tới trong lời ca tiếng hát. Bởi vì trong giai đoạn này, giữa lúc Đồng minh đang tăng cường khả năng chiến tranh thì hai chữ Hoà Bình trở thành hai chữ tối kỵ. Người ta có thể bị vào tù nếu nói đến Hoà Bình, không phải là thứ Hòa Bình dựa trên chiến tranh của chính phủ Mỹ-Việt. Nhưng chúng ta có thể tìm thấy hai chữ Hoà Bình nấp một cách kín đáo, khéo léo trong những bài Tâm Ca: Tôi ước mơ, Giọt mưa trên lá.

 Tôi ước mơ (phổ thơ Nhất Hạnh) là bài ca được nhiều người ưa thích:

             Sáng nay vừa thức dậy,

            Nghe tin em ngục ngã nơi chiến trường!

            Nhưng trong vườn tôi

Vô tình, khóm tường vi vẫn nở thêm một đóa.

            Tôi vẫn sống, vẫn ăn và vẫn thở!

            Nhưng biết bao giờ

Tôi mới được nói thẳng

Những điều tôi ước mơ?

(Tâm Ca 1)

            http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=67Ptg6LevW

Khát vọng Hoà Bình được thể hiện rõ ràng trong câu cuối của bài ca. Người ta đã hát như hô một khẩu hiệu, như gào lên một yêu sách: “Biết bao giờ, biết bao giờ tôi mới được, tôi mới được nói những điều tôi ước mơ”. Thật ra, nói như vậy là nói thẳng, nhưng nói thẳng một cách an toàn. Do đó, ai cũng mạnh nói và bài ca trở thành thịnh hành.

 

Giọt mưa trên lá cũng thể hiện nguyện vọng Hoà Bình, nhưng điều đáng chú ý là chính nhạc mưa và tình yêu đã nói lên những điều ước mơ đó. Đọc bài ca không đủ, chúng ta còn phải nghe, nghe nhiều lần mới có thể thông cảm một cách trọn vẹn:

            Giọt mưa trên lá, nước mắt mẹ già

            Lã chã đầm đìa trên xác con lạnh giá.

            Giọt mưa trên lá, nước mắt mặn mà

            Thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về.

(Tâm Ca 4)

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=Sra3vjOV5O

Nhạc của bài ca này buồn như giáo đường, gợi lên một điều gì rất tha thiết nhưng gần như tuyệt vọng. Giọt mưa trên lá trở thành một bài thánh ca, một lời kinh cầu của những người khao khát Hoà Bình, nhưng những gì họ đang ước mơ thì còn xa quá.

Video: Pham Duy/ Steve Addis: http://www.youtube.com/watch?v=XpoZm3qSADA

 

2. Tính chất thứ hai của phong trào văn nghệ là thể hiện khát vọng thống nhất dân tộc:

Chiến tranh xuất hiện trên thế gian này kể từ khi con người sống trong sự mâu thuẫn giữa trắng đen, phải trái, xấu tốt, yêu ghét v.v…Nếu phá được sự mâu thuẫn đối chọi đó, con người có thể ngồi gần nhau, sum họp nhau, đất nước không còn chia lìa, lòng người không còn phân tán. Đó là một thứ triết lý phản ảnh tâm trạng muốn thống nhất dân tộc mà không cần bất cứ điều kiện nào. Chúng ta có thể tìm thấy tâm trạng đó của quần chúng đô thị một cách rõ ràng trong những bài Tâm Ca: Ngồi gần nhau, Một cành củi khô, Để lại cho em.

Ngồi gần nhau là một bài ca đượm triết lý Phật giáo. Nhạc của nó cũng âm hưởng nhạc kinh Phật:

            Ngồi gần, ngồi gần nhau,

            Xin nói cho nhau một điều,

            Ngồi gần ngồi gần nhau cho nhiều.

            Ngồi vào một thế giới không xấu tốt buồn vui,

            Ngồi vào niềm chơi vơi không có sắc màu phai.

            Ngồi vào đời không mới,

Không rách nát tả tơi,

Một mình ngồi trong cái TA.

(Tâm Ca 3)

            http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=E9n3wH3OU9

Giữa lúc người ta đang nhân danh chính nghĩa này, chính nghĩa nọ để gây nên một cảnh bom đạn tơi bời, với một lò sát sinh chưa từng thấy, một hận thù tưởng chừng không bao giờ dứt được, thì cũng có những người phủ nhận mọi lý do đó và kêu gọi con người hãy ngồi gần nhau, vai kề vai, đầu tựa đầu :

            Ngồi vào niềm yêu dấu

Hay giữa mối thù sâu

Mình vào ngồi đây với nhau.

Bài ca Để lại cho em cũng phản ảnh sự vô điều kiện trên một cách nồng nhiệt hơn nữa : Các anh để lại cho em cuộc sống mệt nhoài, hồn nước tả tơi, cuộc đời quanh co lạc lối, hèn kém, tội lỗi. Để lại cho em một nước phân lìa, một giống nòi chia. Hận thù nhân danh chủ nghĩa, bạo tàn vênh vang bề thế. Để lại cho em giọt máu dân lành, để lại cho em từng nắm mồ xanh, để lại cho em một bãi chiến trường.

Gia tài các anh để lại cho em là như thế đó. Để lại cho em một nỗi oán hờn, lẻ ra là như vậy. Nhưng không, trái lại đâu đâu chúng ta cũng có thể nghe những người trẻ cất cao lời ca :

            Nhưng em thương anh thương anh,

            Cho súng phải giật mình,

            Nhưng em thương anh thương anh

            Cho tàu bay khóc với

            Nhưng em thương anh thương anh

            Cho lựu đạn im tiếng

            Nhưng em thương anh thương anh

            Cho đường vũ khí qua tim.

(Tâm Ca 5)

            http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=bKTM97wWnS

 

Thái độ của họ là như vậy thì cuộc chiến tranh này có ý nghĩa gì nữa. Sự phân chia đất nước, sự chống đối anh em đâu còn lý do để tồn tại. Sao cũng được: Miễn là chúng ta ngồi được gần nhau, thương nhau; khi thương trái ấu cũng tròn, miễn là chúng ta đừng giết nhau nữa mà thống nhất, sum họp một nhà.

 

3. Đặc tính thứ ba của phong trào là thể hiện khát vọng chấm dứt chém giết, tôn trọng con người:

Giữa lúc người ta đang dốc toàn khả năng chiến tranh cơ khí để tiêu diệt “Việt cọng, Việt bắc’’ để “giành” lại tự do cho nhân dân miền Nam (!), thì chính tại miền Nam lại nổi lên một phong trào chống đối, tố cáo cái hành động mà họ gọi là một cuộc “chiến tranh bẩn thỉu”. “Kẻ thù của chúng ta không phải là con người, dù con người Việt cọng. Giết người đi rồi, chúng ta ở với ai?”. Đó là hai câu thơ của Thầy Nhất Hạnh, một tu sĩ Phật giáo.  

Hai câu thơ này là đề tài của một bài Tâm Ca rất thịnh hành:

            Kẻ thù ta đâu có phải là người

            Giết người đi thì ta ở với ai?

            Người người ơi! Yêu mến người mãi mãi!

            Người người ơi! Yêu mến người không nguôi.

(Tâm Ca 7)

            http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=10o6cUvOWZ

 

Như vậy, Tâm Ca đã trở thành tiếng nói của người dân các đô thị, tạo nên một phong trào văn nghệ phản chiến rất mạnh.

 

4. Nói về Nguyên nhân hình thành của phong trào:

 

Phạm Duy thời viết Tâm Ca, Đạo Ca

Một câu hỏi rất quan trọng được đặt ra là: Tại sao mọi người không kể khuynh hướng chính trị, tôn giáo đều hưởng ứng phong trào ca hát này? Điển hình là chính Phạm Duy, người của chế độ, có lý tưởng phục vụ chế độ này, lại cũng là người sáng tác, phổ nhạc và ca hát say sưaTâm Ca phản chiến.

Nói đến phong trào là nói đến những hiện tượng lịch sử, cho nên muốn giải thích phong trào Tâm Ca, chúng ta không thể không dựa trên những yếu tố lịch sử cũng như dựa trên thực trạng chiến tranh Việt Nam trong những ngày xảy ra phong trào. Lịch sử Việt Nam là lịch sử của một nước bị xâm lăng rất nhiều lần, với một nghìn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, người Việt không thể không nghi ngờ ngoại bang. Sự nghi ngờ này đã trở thành một mặc cảm, tưởng chừng như ngoại bang sẵn sàng xâm lăng nước mình. Do đó, việc lính ngoại quốc đổ bộ lên đất nước Việt Nam là một tin sét đánh vào tâm hồn người Việt. Việc không lực Hoa kỳ trút bom xuống giải đất Việt Nam này cũng là một tin sét đánh vào tâm hồn người Việt.

Giải pháp nào có sự nhúng tay của ngoại bang đều là một mối lo ngại trong thâm sâu của tâm hồn người Việt, cho dù là những người đang chống đối người Việt Cộng sản. Mọi người đều cảm thấy bây giờ lập trường chính trị không thể giải tỏa được cái mặc cảm bị xăm lăng của họ và hoàn cảnh xã hội cũng không cho phép họ nói những điều mà họ mơ hồ cảm thấy. Do đó, con đường tôn giáo trở thành một lối thoát, giúp họ thể hiện cái khát vọng chấm dứt những tình trạng trái với tâm hồn họ:

            ‘‘Kẻ thù ta đâu có phải là người,   

            Giết người đi thì ta ở với ai ? ’’

 

‘‘Giọt mưa trên lá, tiếng nói thì thầm

Bóng dáng Phật về xóa vết thương trần thế.

Giọt mưa trên lá, tiếng nói tinh khôi

Lúc Chúa vào đời xin đóng đinh vì người ’’.

Họ không tin ngoại bang có thể mang lại Hòa Bình cho dân tộc Việt, họ thấy cái cảnh ‘‘tránh vỏ dưa, đạp vỏ dừa’’ lần lần hiện ra trước mắt. Không biết bao giờ cuộc tàn sát này chấm dứt ? Chấm dứt rồi bao giờ ngoại bang mới chịu rút lui ? Tình trạng chiến tranh như thế này liệu có ngăn nổi Trung cọng đổ quân vào không ? Tất cả những câu hỏi đó đè nặng tâm hồn người Việt :

‘‘Biết bao giờ tôi mới được nói thẳng những điều tôi ước mơ’’ : bao nhiêu lo âu, thất vọng đều nằm trong câu nói đó.

- ‘‘Biết bao giờ’’ tức là cái thời gian không nằm trong dự tính.

- ‘‘Nói những điều ước mơ’’ vẫn chưa phải là đạt được những điều ước mơ.

‘‘Biết bao giờ tôi mới được nói thẳng những điều tôi ước mơ ?

Biết bao giờ em tôi không còn ngã gục nơi chiến trường’’.

Trước những ưu tư, dằn vặt đó, người dân đô thị đã tiến tới một giải pháp : Thôi hãy xóa bỏ mọi ý nghĩ của một cuộc nội chiến để ngoại bang mất lý do tràn ngập đất nước. Họ muốn quên đi tất cả những mâu thuẫn, dị biệt để mọi người có thể ngồi gần nhau, ngồi vượt lên những gì hạn hẹp, tầm thường của con người :

            Ngồi vào niềm yêu dấu hay giữa mối thù sâu,

            Mình vào ngồi đây với nhau…

            Nhưng em thương anh, thương anh,

            Cho súng phải giật mình,

            Nhưng em thương anh, thương anh,

           Cho tàu bay khóc với…

            http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=E9n3wH3OU9

 

Chúng ta có thể kết luận: Phong trào Tâm Ca là phản ứng đầu tiên của quần chúng đô thị trước sự hiện diện của quân đội ngoại quốc và sự chủ động chiến tranh của họ trên đất nước Việt Nam này. Dù Tâm Ca đượm tính chất tôn giáo, nhưng phong trào Tâm Ca không thể hiện một sự chạy trốn hèn nhát của quần chúng đô thị vì không dám đối diện với chiến tranh.

Trái lại, khi tiếng hát đã kết thành phong trào thì phong trào Tâm Ca mang một ý nghĩa chính trị hoàn toàn bất lợi cho chính sách leo thang chiến tranh của ngoại bang, trong đó có Hoa kỳ. Do đó, những chính khách Hoa kỳ phản công lại bằng cách cướp lời ca, tiếng hát đó, mua chuộc tác giả những bài Tâm Ca đứng về phía họ, cùng với họ hát nhạc phản chiến. Chúng tôi gọi đó là ‘‘chiếc đủa phù thủy chính trị’’.

           

5. Âm mưu tiêu diệt phong trào:

Thật vậy, phong trào Tâm Ca càng ngày càng lên cao, tiếng nói hòa bình phản chiến càng ngày càng mạnh mẽ không những tại Việt Nam mà còn tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại Hoa kỳ với một bài Tâm Ca vĩ đại hơn tất cả các bài Tâm Ca nhân loại: đó là lửa tự thiêu củaMorrison.

Link:  http://vi.wikipedia.org/wiki/Norman_Morrison

 

 Phong trào này mang một ý nghĩa chính trị hoàn toàn bất lợi cho chính sách chiến tranh của Hoa kỳ tại Việt Nam. Do đó những nhà chính trị Hoa kỳ vội khua chiếc đủa phù thủy tiêu diệt những lời ca tiếng hát đó.

 

Phạm Duy thời kháng chiến
 Link: 
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Duy

 

Họ mời Phạm Duy qua Mỹ để hát Tâm Ca, Kháng Chiến Ca. Phạm Duy đã rơi vào cái cạm bẩy chính trị đó. Phạm Duy ra đi không phải mang tâm trạng một chiến sĩ với một sứ mạng quan trọng là vào đất người dùng Kháng Chiến Ca thể hiện sức mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam làm cho mọi người phải kính sợ, dùng Tâm Ca đánh vào lương tâm nhân loại làm cho họ bừng tỉnh đứng lên cùng chúng ta tranh đấu cho tự do, hòa bình. Trái lại, Phạm Duy ra đi với tâm trạng của một người bạn, một đồng minh của Hoa kỳ và cũng được coi như một người bạn quý, một người có những rung cảm như những rung cảm của người Hoa kỳ trước cuộc chiến tranh Việt Nam.

Phân tích khía cạnh những âm mưu chính trị, sự kiện trên bao hàm ba ý nghĩa quan trọng:

a.  Ý nghĩa thứ nhất là chính phủ Mỹ muốn chứng minh cho nhân dân Việt Nam và nhân dân Mỹ là chính sách của họ trong cuộc chiến tranh Việt Nam không ngoài ước vọng tự do, hòa bình của dân tộc Việt Nam. Chính sách này cũng không phải là chính sách thực dân xâm lược, nhằm tạo chiến tranh để trục lợi, vì vậy họ tán đồng Kháng Chiến Ca của nhân dân Việt Nam trong cuộc chống đối thực dân Pháp cũng như họ rất yêu thích Tâm Ca phản chiến. Vì vậy mà họ quý Phạm Duy, mời Phạm Duy. Ngược lại, Phạm Duy, một nhạc sĩ vĩ đại của nhân dân Việt Nam cũng thấy thiện chí đó nên nhận lời mời của họ, đứng về phía họ.

b.      Ý nghĩa thứ hai của âm mưu chính trị trên là: Dĩ nhiên những người Việt trong phong trào Tâm Ca không bao giờ đồng quan điểm chiến tranh của người Mỹ tại Việt Nam. Do đó hể Mỹ thích Tâm Ca, thì họ không thích nữa, hể Mỹ hát thì họ không hát, hể Mỹ vổ tay tán thưởng thì họ vội vàng im lặng, và khi họ im lặng, tức là khi phong trào Tâm Ca chìm xuống, tiêu tan.

c.      Ý nghĩa thứ ba của âm mưu chính trị trên nhằm giết chết Phạm Duy. Phạm Duy là một nhạc sĩ tài ba của Việt Nam. Trong giai đoạn nào của lịch sử cũng có mặt Phạm Duy với những tác phẩm có khả năng tạo nên những phong trào văn nghệ dân tộc. Phạm Duy đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong ba phong trào văn nghệ lớn nhất: Đó là phong trào Kháng Chiến Ca, phong trào Dân Ca, và phong trào Tâm Ca phản chiến. Cái nhược điểm của Phạm Duy là ở chỗ yếu đuối, hay dao động. Cái đặc tính của người Việt là hay ‘‘khinh tài trọng nghĩa’’, cho nên nếu khai thác được hai khía cạnh đó bằng cách mời Phạm Duy viếng Hoa kỳ là đủ giết chết Phạm Duy, trừ được tác dụng của những bài Kháng Chiến Ca, Tâm Ca phản chiến và cũng trừ được những hậu quả sau này.

 

Phạm Duy đã ra đi. Cái đêm đánh dấu sự tiễn đưa Phạm Duy, tiễn đưa Tâm Ca ra đi có lẽ là đêm văn nghệ Tưởng niệm Nhất Chi Mai tại Tổng vụ Sinh viên Phật tử. Đêm ấy, buổi lễ diễn ra trong một bầu không khí trang nghiêm đứng đắn.

Link:  http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A5t_Chi_Mai

 

Thực ra, đó chỉ là một hình thức tranh đấu cho Hoà bình của quần chúng đô thị. Cái chết của Nhất Chi Mai là một loại Tâm Ca mới, một sức mạnh mới cho cuộc đấu tranh:

            Chị ngã xuống rồi, triệu người u uất

            Và rùng rùng dân tộc đứng lên theo

(thơ Trần Quang Long, Link : http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/62715/Nho-Tran-Quang-Long.html  )

 

Đêm hôm đó, Phạm Duy cũng có tới tham dự. Phạm Duy lên sân khấu trong chiếc áo pu-lô-vơ màu vàng nhạt, chiếc quần xám may sát và cây đàn ngoại quốc sang trọng. Phạm Duy hát bài ‘‘Tôi ước mơ’’ : ‘‘Biết bao giờ, biết bao giờ tôi mới được nói thẳng những điều tôi ước mơ’’ và Phạm Duy kết thúc bài hát bằng một tiếng hét to : ‘‘Hết’’ và bằng nụ cười tươi vui như ngày nào.

Và, cái giây phút đó đã đến. Khán giả không nhiệt tình vỗ tay tán thưởng như mọi khi nữa. Nhiều tiếng phản đối xì xào nổi lên. Phạm Duy đã làm mất cái vẻ trang nghiêm, căng thẳng, đầy chiến đấu tính của buổi lễ tưởng niệm Nhất Chi Mai. Lần đó, Phạm Duy chỉ hát một bài và không được yêu cầu hát nữa. Chúng ta có thể nói giai đoạn Tâm Ca kết thúc từ đây, với tất cả cay đắng mà mỗi người trong chúng ta cần suy ngẫm lại.

 

LÊ TRƯƠNG

(Hội Sinh viên sáng tác Sài Gòn /1970)

 

Ghi thêm : Link Phạm Duy

http://www.phamduy.com/
http://www.phamduy2010.com/

 

 

 

PHONG TRÀO DA VÀNG CA

 

Vào năm 1966, cuộc chiến Việt Nam trở nên dữ dội hơn. Bom đạn trút xuống quê hương càng ngày càng nhiều, lính ngoại quốc đổ bộ lên đất nước càng ngày càng đông. Những phong trào tranh đấu ở các đô thị bị đàn áp tơi bời. Biến cố miền Trung được mang tên là “một cuộc nội chiến trong một cuộc nội chiến”: Máy bay, xe thiết giáp, lính thiện chiến của chính quyền trung ương Sàigòn tấn công các thành phố Huế, Đà nẵng.

Giữa lúc đó, cũng chính từ miền Trung, có một chàng lãng tử gầy ốm với vầng trán rộng và nụ cười héo hắt đã mang vào Nam hai bài ca nghe rất buồn thảm: bài Người già em bé và bài Ca dao mẹ. Một đám người tới với chàng, họ ngồi dưới đất, trong bóng tối và hát tuyệt vọng như những người nô lệ da đen đêm đêm ngồi than khóc phận mình. Từ đó, tiếng hát lan ra khắp các đô thị, tới đâu nó cũng đi sâu vào lòng người, làm rung lên như một dây đàn từ lâu chờ người gảy. Phong trào càng ngày càng dâng lên cao, nhất là sau biến cố Mậu Thân để rồi không có một sức mạnh nào ngăn cản nổi nữa. Chúng tôi gọi đó là phong trào DA VÀNG CA.

Năm 1966, cuộc chiến Việt Nam lại được mang thêm một tên mới: Chiến tranh diệt chủng. Tất cả khả năng cơ khí của nền văn minh Tây phương đều được tận dụng vào cuộc giết người rất khủng khiếp này. Nông dân Việt Nam đã chịu đựng cảnh bom đạn trong nhiều năm nay, càng ngày sức tàn phá của chiến tranh lại càng gia tăng.

Trịnh Công Sơn

 

Trịnh Công Sơn đã mô tả sự bi đát hãi hùng của thân phận da vàng Việt Nam trong những lời ca sau:

            Từng chuyến bay đêm, con thơ giật mình,

            Hầm trú tan hoang, ôi da thịt vàng…

Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng,

Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn.

                                    (Đại bác ru đêm)

           http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=f253fKRGcN

 

Đó là thân phận của nông dân Việt Nam. Nay các đô thị cũng nhiều phen chìm trong khói lửa. Người dân thành phố không những đêm đêm nghe tiếng bom dội về làm rung chuyển cả thành phố mà còn sống trong cảnh tàn phá hủy hoại của bom đạn. Chết chóc đã xuất hiện đầy rẫy trong những đường phố:

            Xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng,

Trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co.

Xác người nằm bên nhau, treo trên gầm cầu,

Trong góc nhà đổ nát, dưới những hàng thông sâu.

Xác người còn xương khô, trong khắp bụi mờ,

Sau những đường phố vắng, trên góc đường mấp mô.

                                    (Bài ca dành cho những xác người)

         http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=MjvlcaVhxh

 

 

Trước những biến cố mới đó, quần chúng đô thị bắt đầu hiểu một cách thấm thía cuộc chiến tranh đã kéo dài từ bao lâu nay. Nông thôn cũng như thành thị giờ đây không có một tất đất nào trên quê hương thân yêu này được coi là an toàn. Chiến tranh toàn diện, chiến tranh giành thắng lợi, cho dù thắng lợi là làng mạc hay thành phố biến thành đống tro tàn gạch vụn, trên đó những người được nhân danh cho cuộc chiến này nằm chết ngổn ngang. Cái hình ảnh:

            Người già co ro, em bé lõa lồ,

            Từng hạt cơm khô, trong miếng hững hờ,

            Từng bàn tay khô lấp kín môi cười,

            Từng cuộn dây gai xé nát da người,

            Cửa nhà Việt Nam, cháy đỏ cuối thôn…

                                    (Người già, em bé) 

           http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=rbglCaAqab

 

giờ đây cũng chính là hình ảnh của quần chúng đô thị. Nó không còn là một câu chuyện của một chàng lãng tử ngang qua thành phố kể cho họ nghe trong những cảm giác đau nhức, thú vị. Đó là sự thật. Giờ đây họ thật sự sống trong chiến tranh, cho nên những lời ca đó chính là những lời ca nói về họ. Họ bắt đầu tham dự cuộc chiến tranh. Do đó, sinh hoạt văn nghệ cũng thể hiện rõ ràng cái tâm trạng của họ.

Quần chúng trí thức đô thị càng ngày càng thích nghe Ca khúc da vàng, Tình ca Trịnh Công Sơn. Và chỉ trong một thời gian ngắn, loại nhạc này đã trở thành những rung cảm chung của quần chúng đô thị, tạo nên một phong trào văn nghệ rất đặc biệt :

 

1. Đặc tính thứ nhất của phong trào này là phủ nhận cảnh nồi da xáo thịt.

Giữa lúc những người Việt đang tham dự một cuộc chém giết nhau, gán cho nhau là tay sai của đế quốc này hay đế quốc nọ, thì chính trong thâm tâm họ, họ luôn luôn muốn phủ nhận cái cảnh nồi da xáo thịt đó. Họ đã từ bỏ con người của họ để mang những nhản hiệu cho mình, cho người anh em của mình để đánh nhau trên khắp các chiến trường. Thế nhưng, khi họ quên hết những nhản hiệu đó, khi họ xóa bỏ những chiếc mặt nạ mang cho nhau thì họ lại thấy gần gũi nhau, yêu thương nhau :

            Tôi có người yêu chết trận Plei-me,

            Tôi có người yêu ở chiến khu D,

            Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà nội,

            Chết vội vàng dọc theo biên giới…

                       (Tình ca người mất trí)

            http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=u4jpsbtMoM

 

Họ thấy những người chết trong cuộc chiến tranh khủng khiếp này là những người yêu, những người anh em của họ, cho dù những người này ở Plei-me, ở chiến khu D, ở ngoài Hà nội, ở Chu Prong, A Shau, hay bất cứ nơi nào trên giải đất Việt Nam thân yêu này. Tất cả là anh em cùng một màu da, đã cùng nhau trong hành trình vĩ đại của giống nòi từ miền Triết Giang đổ về để hình thành dân tộc Việt Nam. Tất cả là người yêu của họ. Yêu nhau là chấp nhận những đắng cay, ngọt bùi của nhau như câu ca dao : ‘‘Gừng cay muối mặn, xin đừng bỏ nhau’’. Không những tôi nhìn nhận anh là người anh em, mà tôi còn coi anh là người yêu, là gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau, là ‘‘gần nhau trong tiếng nói da vàng’’.

Vậy thì tại sao lại có cảnh nội chiến ? Đây là lời tố cáo :

            Hai mươi năm nội chiến từng giờ,

            Gia tài của mẹ, một bọn lai căng,

           Gia tài của mẹ, một lũ bội tình…

                            (Gia tài của mẹ) 

           http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=q6WZmAqS9E

 

Sự xuất hiện của hai chữ lai căng trong văn nghệ mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Lai căng tức là từ bỏ con ngườI văn hóa dân tộc của mình để biến thành một người khác. Đó là trường hợp của những người nô lệ muốn thoát khỏi cảnh tình nô lệ của mình bằng cách chối bỏ khinh rẻ con người của chính mình và muốn trở thành như chủ nhân ông ngoại bang, cùng với nó cai trị những người nô lệ khác. Bọn lai căng đó trở thành một lũ bội tình dân tộc, vì luôn luôn đứng sát với ngoại bang để bóc lột, giết hại đồng bào của họ. Dĩ nhiên, bọn người này không còn là người Việt nữa, nhưng họ vẫn còn da vàng, mũi tẹt. Do đó ngoại bang mới tạo được cái ảo tưởng nội chiến, một ảo tưởng nằm trong chiêu bài của họ để che mất chế độ thực dân, nô lệ. Người Việt đã cảm thấy điều đó, cho nên dù đang ở trong cái thế chống đối nhau, tự trong thâm tâm của họ, họ vẫn thấy yêu nhau, gần nhau:

            Tôi muốn yêu anh, yêu Việt Nam,

            Ngày gió lớn, tôi đi môi gọi thầm,

            Gọi tên anh, tên Việt Nam,

            Gần nhau trong tiếng nói da vàng.

                          (Tình ca người mất trí)

              http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=u4jpsbtMoM

 

2. Đặc tính thứ hai của phong trào là nói lên tâm trạng nạn nhân của một cuộc chiến.

Cái bi thảm nhất là ở chỗ : tay của người Việt ít nhiều đều vấy máu anh em mình, người yêu của mình. Tự trong thâm tâm họ là anh em, là người yêu của nhau, nhưng trên thực tế họ chém giết nhau, nhìn nhau xa lạ. Rồi khi kẻ xa lạ đó nằm xuống, bổng nhiên nó không còn xa lạ nữa, mà chính là những người yêu. Những người yêu đó đã:

            Bỏ xác trôi sông,

Chết ngoài ruộng đồng,

            Chết rừng mịt mùng,

Chết lạnh lùng,

Mình cháy như than.

Chết cong keo,

Chết vào lòng đèo,

Chết cạnh gầm cầu,

Chết nghẹn ngào,

Mình không manh áo.

            (Tình ca người mất trí)

           http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=u4jpsbtMoM

Trong cuộc chiến tranh này, không ai ca khúc khải hoàn, không ai nằm chết trong vinh quang. Những người yêu đó đã:

            Chết thật tình cờ,

            Chết chẳng hẹn hò,

Chết không hận thù,

            Nằm chết như mơ.

Vậy thì đây là cái chết do một trận địa chấn, một cơn hồng thủy. Một cái chết không nằm trong dự tính của họ. Họ bị một thứ gông cùm xiềng xích vô hình xô đẩy họ vào mâu thuẫn, hận thù, nhưng tận trong thâm sâu của tâm hồn họ, họ không thấy sự mâu thuẫn, hận thù mà chỉ thấy một màu da thơm mùa lúa chín, thấy yêu nhau, thấy gần nhau trong tiếng nói Việt Nam. Như vậy thì quả dân tộc ta đang gặp một cơn đại nạn. Và triệu người đã chết bất đắt kỳ tử, chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phát xuất từ đâu tới, chớ không phải từ trong lòng anh em Việt Nam.

 

Trịnh công Sơn, 
Link: 
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh_C%C3%B4ng_S%C6%A1n

 

3. Đặc tính thứ ba của phong trào là nói lên tâm trạng nô lệ da vàng.

Quê hương bây giờ không còn là quê hương thần thoại nữa mà chỉ là một ngục tù trong đó người Việt da vàng sống như những kẻ bị lưu đày. Họ không còn chủ quyền trong tay, sinh mạng hoàn toàn không được bảo đảm, giá trị làm người bị phủ nhận. Thân phận của họ không khác gì thân phận của những người nô lệ, sống không ra người, mà chết cũng không ra cái chết của một con người. Từ hoàn cảnh bi đát này xuất hiện những tiếng hát mang âm điệu nô lệ da đen, khóc than, kể lể niềm thống khổ, tủi nhục của những người da vàng trong cuộc chiến tranh tàn bạo này.

Những bài ca nổi tiếng như Tình ca người mất trí, Ca dao mẹ, Đi tìm quê hương là những bài ca rất buồn thảm, âm hưởng nhạc da đen. Bài ca bắt đầu bằng điệu Blues dìu dặt, rỉ rít, thở than, kể lể như tiếng khóc của một người đàn bà trong góc phòng tối, rồi bỗng dưng nhạc vút lên cao, nức nở, gào thét thảm thiết. Những gì trong tâm hồn họ bị nổ ra vì quá đau khổ, u uất, vì không thể đè nén lại được nữa. Những ước mơ từ lâu họ không được quyền nói tới, phải được chôn sâu vào trong lòng, nay bỗng nổ tung trong tiếng hát của người mất trí.

 
Trịnh Công Sơn & Khánh Ly tại Quán Văn 1966

 

Tất cả những Ca khúc Da Vàng được người ta nghe trong bóng tối, như những lời kinh, những lời vô cùng thảm thiết của những linh hồn bị đày đọa không nơi yên nghỉ, bị một thứ gôm cùm xiềng xích vô hình không cho phép họ sống như những con người. Bây giờ quê hương không còn là quê hương thần thoại nữa mà chỉ là một chốn lưu đày, một ngục tù trong đó người Việt chỉ là loài ma phải chịu cảnh lang thang, đói rét và sự hủy hoại của chiến tranh:

            Người già co ro, em bé lõa lồ,

            Từng hạt cơm khô trong miếng hững hờ,

            Ruộng đồng quê hương dấu vết bom qua.

Từng bàn tay khô lấp kín môi cười,

Từng cuộn dây gai xé nát da người,

Đạn về đêm đêm đốt cháy tương lai…

                                    (Người già, em bé)

           http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=MAeXYk7ZEh

 

Họ sống trong quê hương nhưng luôn mang tâm trạng của kẻ bị lưu đày, ray rức nhớ quê hương:

            Một ngục tù nuôi da vàng

            Người Việt nằm nhớ nước non.

Người nô lệ da vàng cũng khổ hơn người nô lệ da đen ở chỗ họ mất quê hương chứ không xa quê hương. Người nô lệ da đen nhớ quê hương vì xa quê hương, một quê hương còn nguyên vẹn trong tâm tư với những cánh rừng thiêng liêng huyền diệu. Trong khi đó, người nô lệ da vàng không những nhớ quê hương mà còn thấy quê hương mình trong hình ảnh: Ruộng đồng trơ đất đỏ, Đàn bò không luống cỏ.

Người Việt thấy mình không phải là nô lệ nhưng lại phải sống như những cuộc sống của người nô lệ, bị đánh giá như một người nô lệ. Họ có cả ruộng vườn để tự nuôi sống, nhưng bom đạn, chất độc hóa học làm cho: ruộng đồng trơ đất đỏ. Họ có một mái nhà, cho dù là một mái nhà tranh, nhưng: hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng, cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn. Họ có bàn tay khối óc để dệt nên tấm vải nâu đen, trồng nên cây lúa cho dù phải thêm sắn thêm khoai, nhưng nay đành bó tay : ngồi xin áo xin cơm. Họ có bốn nghìn năm lập quốc, hình thành dân tộc bất khả phân ly, nhưng nay tưởng chừng như là: ôi đất nước u mê ngàn nămAnh em lại rơi vào cảnh nồi da xáo thịt. Một thứ gông cùm xiềng xích nào đây đã trói buộc đôi chân họ lại. Họ không còn tự do, không còn độc lập, bắt họ thành nô lệ da vàng.

Tới đây một câu hỏi được đặt ra, là tại sao họ dùng những tiếng nô lệ da vàng và tại sao họ lại hát bằng âm thanh nô lệ da đen ? Phải chăng họ cảm thấy thân phận của họ giống như thân phận người da đen trong thế kỷ này? Người da đen bị đày xa quê hương, bị mua bán như những đồ vật, bị bắt làm nô lệ, bị bóc lột tận xương tủy, bị coi như không phải là người nữa, bị tất cả mọi tai họa do ngườI da trắng gây nên kể từ khi có những chiếc thuyền vượt biển. Sản phẩm của nền văn minh da trắng là chế độ nô lệ, chế độ thực dân, chế độ thực dân mớI, chế độ đế quốc, là ba mươi triệu người da đen hiện diện trên nước Mỹ, là máu, nước mắt trong rừng núi Phi châu, là chiến tranh Việt Nam trong suốt trăm năm nay. Chữ nô lệ da vàng khiến ta liên tưởng đến chữ nô lệ da đen, rồi chữ nô lệ da đen lại đeo đẳng vào chữ da trắng và sự tàn bạo, vô nhân đạo của nền văn minh vật chất Tây phương. Phải chăng hoàn cảnh da vàng Việt Nam hôm nay cũng là hoàn cảnh da đen Mỹ-Phi? Cho nên đã có nhiều người quá buồn cho phận nước và bật khóc bằng điệu Blues đen vô cùng ảo não qua những “Ca khúc Da Vàng”.

 

 

 

4. Đặc tính thứ tư của phong trào là tâm trạng tuyệt vọng trên con đường giải thoát.

Không thể chịu đựng được cảnh tình nô lệ, những người nô lệ da vàng đã tìm cách giải thoát thân phận tù đày của mình: “Phải đập tan gông cùm, xiềng xích vô hình trói buộc dân ta”, phải giành lấy tự do, độc lập, phải xóa bỏ thảm trạng người Việt nhìn nhau xa lạ, căm hờn. Họ đã giải quyết bằng cách: “người nô lệ bước đi, đi về ruộng vườn”.

Giải pháp này cũng được thể hiện rõ ràng qua những phong trào Du CaCPSChương trình Hè, chủ trương cách mạng xã hội của nhómHành TrìnhThái Độ. Họ quan niệm đất nước đã đổ vỡ quá nhiều rồi, phân hóa, chia rẽ đến cùng cực rồi, nên bây giờ phải nghĩ tới việc xây dựng lại, làm cách mạng xã hội hướng về nông thôn v.v…“Bây giờ không phải là lúc ngồi đặt vấn đề nữa”, họ hát như vậy và hăng say cuốc đất, làm nhà, đào ao, bắt cầu. Nhưng khi họ bắt tay vào việc, khi họ va chạm với thực tế thì cũng là khi họ thấy cái giải pháp đó không đưa tới những kết quả như ý muốn, không giải quyết được vấn đề xiềng xích, gông cùm. Những người hăng say nhiệt tình đó trở nên thất vọng, chán nản, không tiếp tục công tác nữa. Giai đoạn công tác xã hội chấm dứt để lại cho chúng ta một bài học quí báu.

Cái lỗi lầm của chúng ta là ở chỗ không chịu ngồi đặt vấn đề để rồi bị sa lầy trong chiêu bài cách mạng xã hội do ngoại bang tung ra để đánh lạc hướng hành động của những người yêu nước. Sự thật não lòng là chúng ta còn quê hương đâu, tự do độc lập đâu để mà cày cuốc, mà làm cách mạng xã hội. Chủ quyền quốc gia đã mất, chân tay ta đã bị gông cùm, ruộng đồng trơ đất đỏ không thể lên được ngọn mạ, nhà cửa trong nháy mắt trở thành đống tro tàn.

“Ca khúc Da Vàng” đã mô tả hết tất cả những tình cảnh đó. Những người nô lệ da vàng này không đặt vấn đề ai đã đặt gông cùm xiềng xíchlên đầu cổ họ mà chỉ thấy hậu quả của gông cùm xiềng xích vô hình đó mà thôi. Do đó họ không thể giải quyết đúng để giải thoát cảnh ngục tù nô lệ được. Không giải thoát, họ trở nên tuyệt vọng, hoàn toàn tuyệt vọng. Thôi, thế là trọn đời lưu vong, không còn hy vọng có ngày trở về quê hương thần thoại:

            Mẹ ngồi ru con,

            Đong đưa võng buồn,

            Đong đưa phận mình.

            Mẹ ngồi ru con,

            Nghe đất gọi thầm,

            Trọn đời lưu vong.

            Giọt lệ ăn năn,

            Đưa con về trần,

            Tủi nhục chung thân,

            Một dòng sông trôi,

            Cuốn mãi về trời,

            Bấp bênh phận người.

                        (Mẹ ru con ngủ)

Họ bị cô lập với quá khứ vinh quang và tương lai tươi sáng của dân tộc. Họ chỉ có một thực tại là “nhà cháy từng hàng, một rừng xương khô, một núi đầy mồ”. Họ tìm thấy gia tài của mẹ chỉ có từng ấy, còn bao nhiêu trân châu khác như những anh hùng liệt nữ, những địa danh ghi dấu những chiến thắng vinh quang họ không hề nhắc tới. Những trân châu này bây giờ không sáng bằng “hỏa châu rực sáng”, không thể kết dài được một nhúm lửa đỏ đủ sưởi ấm hy vọng của họ. Họ tuyệt vọng nên nghĩ rằng mình thành nô lệ thực sự. Vì mình là nô lệ, là u mê ngàn năm, là trọn đời lưu vong, tuyệt vọng trên con đường về quê hương thần thoại, cho nên người da vàng đã có ý nghĩ:

            Xin cho tôi quên phận tù đày,

            Xin cho tôi là thoáng rượu cay,

            Xin cho tôi ra khỏi cuộc đờI,

            Để khi nào trời đất yên vui,

            Xin cho tôi xin lại cuộc đời.

                                    (Xin cho tôi)

           http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=_m5nets5xr

 

Người nô lệ tìm cách giải thoát thân phận tù đày của mình bằng cách sống trong tù đày nhưng quên phận tù đày, tưởng chừng như mình không sống trong cảnh tù đày. Nhưng làm sao có thể quên được? Chính rượu cay là phương tiện giải thoát. Đó là lý do tại sao phòng trà trở nên tấp nập và tình ca bộc phát thành phong trào. Vậy thì hậu quả của sự tuyệt vọng trên con đường giải thoát ấy chính là Tình ca.

Bây giờ phòng trà trở thành chỗ nghỉ ngơi giải khuây của những người nô lệ da vàng sau những giờ phút sống trong ngục tù của ngày dài trên quê hương. Ở đây có đủ chất cay để giúp họ quên phận tù đày: rượu cay, khói thuốc cay, nhạc cay…Trong cái cảnh đèn thắp thì mờ, những người da vàng ngồi quanh những chiếc bàn nhỏ, có khi họ ngồi dưới đất, họ hút thuốc, uống cà phê đậm, uống rượu mạnh và nghe Da Vàng Ca, Tình Ca. Đó là trường hợp của những quán Văn, Thơ, quán Trăng, Tre, Gió, Bão

Lại có những phòng trà khác dành cho người ngoại quốc và những người nô lệ không còn thấy mình là nô lệ nữa. Ở đây không khí nhẹ nhàng, thư thả hơn, lộng lẫy, sang trọng hơn, có vẻ tây phương hơn. Điều đáng chú ý là người nô lệ da vàng ở đây khiến ta suy nghĩ: phải chăng mình cứ đeo đẳng vào cái màu da của mình, với quê hương chiến tranh ngục tù, với cái xã hội nhược tiểu, chậm tiến, cho nên tự chuốc lấy khổ đau? Vậy thì phải quên đi, không nhớ thương nữa, phải xóa bỏ ám ảnh trở về quê hương thần thoại. Chúng tôi gọi đó là những người nô lệ không còn thấy mình là nô lệ nữa. Đó là trường hợp các phòng trà Monaco, Queen Bee, International, Tự Do, v.v…

Nhưng người nô lệ nào rồi cũng thích Tình ca bởi vì không có thứ rượu cay nào cay đắng bằng những khúc Tình ca, bởi vì nói như Trịnh Công Sơn: “Tình yêu cũng mở ngỏ cho những lần hóa kiếp, hãy thử bước vào thế giới đó để bắt đầu một cái chết thật vô cùng yêu dấu”.

Tình khúc Trịnh Công Sơn, giọng ca Khánh Ly: đó là một thế giới trong những ngày hoang sơ thời tiền sử, khi tư tưởng chưa xuất hiện để tàn phá con người. Chúng ta không thể khám phá thế giới đó bằng sự suy tưởng được mà chỉ bằng một sự rung động hồn nhiên của tâm hồn. Ở đây tiếng nói không được xếp thành câu, câu này không xếp với câu kia cho có nghĩa này nghĩa nọ, trái lại tiếng nói chỉ là những âm thanh như tiếng chim kêu trong rừng, như tiếng thoảng qua thung lủng. Âm thanh bật ra là con tim rung chuyển, là tình yêu tràn ngập con người. Thế giới Tình ca của Trịnh Công Sơn là như thế. Khi đi vào, ta không được mang theo gì ngoài bộ óc trống rỗng, hồn nhiên với năm giác quan thật nhạy cảm. Người ca sĩ duy nhất của thế giới đó là Khánh Ly. Khánh Ly đứng trước cổng vườn địa đàng và mời gọi những kẻ bị lưu đày di cư vào thế giới tình yêu:

Tình yêu như trái phá,

Con tim mù lòa,

Một mai thức dậy,

Truyện trò với cỏ cây.

            (Tình sầu)

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=ynXqZiyuDk

 

Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ

Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao

Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ

Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu…

Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng

Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.

            (Diễm Xưa)

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=_2ajMGHguy

 

Nói như Trịnh Công Sơn,họ rủ nhau đi vào cơn mộng du nào đấy để tìm về những cánh san hô cũ kỹ, đọc trên những dòng sông, tức chính là chứng nhân già nua nhất của địa cầu đã ghi những gì về tình yêu. Phải là Khánh Ly mới có thể thực hiện cơn mộng du được, vì Khánh Ly chính là con người của thời hoang sơ tiền sử đó. Trong cơn mộng du, những người nô lệ khám phá lại được con người đích thật của mình. Đó là một thế giới mới khác hẳn với cảnh ngục tù nô lệ trong cuộc đời.

Tình Ca trở thành một giải pháp thoát ly cuộc đời. Nhưng tình ca không phải là nhạc giải thoát cuộc đời, bởi vì nó chỉ là một thứ rượu cay, bởi vì khi con người nô lệ vừa tỉnh cơn say cũng là khi cuộc đời ngục tù nô lệ vây phủ lấy phận nó. Nó lại phải chạy trốn, phải uống thật nhiều rượu cay nữa. Càng ngày nó càng uống thêm, uống thêm. Nhưng dù có chạy trốn, con người vẫn không thể xóa bỏ được cuộc đời trong tâm hồn nó, cho nên nó lại khát khao trở lại cuộc đời :

            Xin cho tôi ra khỏi cuộc đời,

            Để khi nào trời đất yên vui,

            Xin cho tôi xin lại cuộc đời.

Người nô lệ vẫn còn đeo đẳng với cuộc đời nhưng không tìm cách giải quyết cuộc đời : Không giải quyết được thân phận nô lệ của mình trong cuộc đời mà chỉ chờ khi nào trời đất yên vui thì xin trở lại cuộc đời. Đó là một thái độ bi thảm nhất của người nô lệ da vàng.

Giờ đây, mùi rượu cay của những tình khúc đang vây phủ lấy đô thị thân yêu này, nó vừa giải tỏa đựoc được sự đau khổ của con người trong giây lát, cũng vừa chôn sâu con người vào cảnh tù đày nô lệ. Bởi vì con người bị coi là nô lệ vẫn còn là con người nhờ sự đề kháng, chiến đấu không ngừng của nó để được làm người. Nếu chối bỏ cuộc đời, chối bỏ sự đề kháng chiến đấu trên thì không còn là người trong cuộc đời nữa mà chỉ là nô lệ : Xin cho tôi ra khỏi cuộc đời, Xin cho tôi là thoáng rượu cay, chính là những ý nghĩ tai hại nhất ngăn cản không cho tên nô lệ thành người sống trong quê hương yêu dấu mà chỉ làm cho nó thành em bé lõa lồ, suốt đời lang thang.

Có một điều mà Da Vàng Ca không đề cập tới, là ai đã buộc gông cùm xiềng xích vào đôi chân ta. Câu hỏi này mạnh như một cơn lốccuốn phăng người nô lệ da vàng ra khỏi cơn say, lôi kéo họ về với thực tại, bắt nó tìm cho thấy câu trả lời. Trả lời không được thì phải tìm cách trả lời cho được, chứ không có quyền tuyệt vọng. Bởi vì tuyệt vọng đồng nghĩa với nô lệ. Do đó, nếu không muốn bị làm nô lệ thì không bao giờ được tuyệt vọng trong con đường giải thoát. Thái độ này được thể hiện trong phong trào văn nghệ tranh đấu.

 

LÊ TRƯƠNG           

(Hội Sinh viên sáng tác Sàigòn – 1970)

 

Ghi thêm : Link nhạc TCS
http://www.tcs-home.org/
http://www.trinh-cong-son.com/tcs.html
http://www.trinhcongsononline.net

 

 

 

PHONG TRÀO DÂN CA

 

 Năm 1966 dân ca bộc phát thành một phong trào. Bỗng nhiên giới thanh niên đô thị hướng về dân casưu tầm dân ca, đem dân ca vào tập thể như đem một luồng gió mới. Tất cả những buổi văn nghệ cũng như những sinh hoạt khác đều có dân ca. Ai không biết một câu quan họ Bắc Ninh hay một điệu lý miền Nam là có thể bị chê ngay là xa cách đời sống dân tộc, không biết gì về dân tộc.

Trong những bài dân ca thịnh hành, chúng ta có thể kể đến: Lý ngựa ô, Lý con sáo, Xe chỉ luồn kim, Hát hội trăng rằm, Cây trúc xinh, Qua cầu gió bay v.v…Thanh niên đô thị đua nhau hát những bài đó, tiếng ca của họ là tiếng ca Việt Nam thuần tuý, không thể nhầm lẫn với nhạc Pháp, nhạc Mỹ hay nhạc Việt lai căng. Ngoài dân ca, còn có dân nhạc và dân vũ. Họ rất thích thú và hãnh diện khi được nghe dân nhạc Việt Nam, điển hình là buổi trình diễn dân nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba tại trường Đại học Khoa học.

Phong trào học đàn Đông phương phát triển mạnh mẽ: phái nữ chơi đàn Tranh, đàn Tỳ bà càng ngày càng nhiều, cây Độc huyền cầm (Đàn Bầu) của Việt Nam được đề cao. Dân vũ xuất hiện rất nhiều trong sinh hoạt văn nghệ, điển hình là những màn vũ Lúa thơm đồng xanh diễn tả sinh hoạt cấy cày của nông thôn Việt Nam,màn Tiếng trống hào hùng diễn tả hình ảnh Việt Nam vùng dậy chống xâm lăng. Dân ca, dân vũ, dân nhạc trở thành một loại văn nghệ thời trang quyến rủ.

Phong trào Dân ca đã lớn lên rất mạnh, mang nhiều ý nghĩa đặc biệt. Muốn giải thích sự hiện diện của phong trào này, chúng ta cần phải dựa trên những yếu tố lịch sử xảy ra hồi bấy giờ. Chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng đời sống tại các đô thị hoàn toàn bị xáo trộn kể từ khi quân đội ngoại quốc hiện diện trên đất nước ta, trong đó có sự xáo trộn về sinh hoạt văn nghệ. Nhiều sản phẩm lai căng được đẻ ra khiến cho những người có ý thức dân tộc thấy khó chịu đến khổ sở. Họ nhìn đó là những đứa con hoang, con lai phản ảnh một tình trạng mất gốc nô lệ. Họ phản ứng lại bằng cách dùng văn nghệ thuần tuý Việt Nam. Thứ vũ khí sẵn có của dân tộc có thể đem ra dùng ngay được trong hoàn cảnh này chính là Dân ca. Đó là lý do của sự có mặt của phong trào Dân ca.

Trong khi tay họ chưa có cái gì để chống đỡ thì Dân ca cổ điển vẫn là một thứ vũ khí cần thiết, quá cần thiết. Thực sự những bài dân ca mà quần chúng đô thị hát không liên quan gì đến đời sống hiện tại của họ, không phải là hơi thở của con người trong không gian, thời gian này. Các bài Lý con sáo, Lý ngựa ô, Hát hội trăng rầm, Qua cầu gió bay, Mẹ Việt Nam…chỉ phản ảnh sinh hoạt của dân Việt trong một hoàn cảnh đã qua. Chúng thành những câu chuyện đời xưa, rất xưa nói về tình yêu trai gái trên một cổ xe ngựa hay trên một dòng sông nhỏ chảy qua làng hay bên chiếc cầu tre, trong một buổi hội hè, hay nói về những bà mẹ Việt Nam lam lủ một đời sau lũy tre xanh. Đó dĩ nhiên là một loại nhạc dân tộc, nhưng chắc chắn không phải là dân tộc hiện tại.

 

(Lý con sáo):http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=XnO7DqVuXp

(Lý ngựa ô): http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=4Zgx3PnTFf

(Hát hội trăng rằm): http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=VuHgzhocbM

(Qua cầu gió bay): http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=P67Z4finww

 

Những bài ca đó gắn liền với một xã hội đã qua, cách đây hàng chục năm, hàng trăm năm. Những bài ca này không có gì thay đổi, trong khi đódân tộc đã thay đổi rất nhiều. Dân tộc ta đã chuyển mình đứng lên giải phóng khỏi chế độ phong kiến thực dân. Từ trong lũy tre xanh, trong hải cảng đóng kín, dân tộc đã vươn dài cánh tay cách mạng ra khắp năm châu. Do đó những nhân vật điển hình trong giai đoạn lịch sử này không thể là những nhân vật trong những bài dân ca cổ điển trên mà là những bà mẹ Việt Nam mới, những thiếu nữ mới, những thanh niên mới, những thiếu nhi mới, những lời ca tiếng hát mới. Tất cả đều mới để phù hợp với cuộc chiến tranh giành độc lập, tự do, gương mẫu là một dân tộc tiền phong giải thực. Loại dân ca cổ điển kia không phản ảnh được thực tại của quần chúng mà chỉ giúp quần chúng trong phản ứng đầu tiên nhằm đề kháng những ảnh hưởng văn hóa ngoại lai. Hết giai đoạn đó, quần chúng không dùng dân ca cổ điển nữa và bước vào giai đoạn văn nghệ mới, tức là phong trào Sử ca, Kháng chiến ca.

Điều đáng ghi nhận là sau khi quần chúng tiến bộ chấm dứt giai đoạn dân ca cổ điển để tiến tới một giai đoạn ca hát tranh đấu mới thì chính quyền Việt Mỹ lại tung ra chiêu bài dân tộc bằng loại dân ca trên nhằm đánh lạc hướng tranh đấu của thanh niên sinh viên. Họ lại nâng đỡ, khuyến khích việc “Về Nguồn” đáng được tôn trọng của người Việt bằng cách cổ võ loại dân ca: Cây trúc xinh, Xe chỉ luồn kim, Lý ngựa ô, Lý con sáo,…bằng cách phục hưng thời sĩ phu la cà trong những quán cô đầu để uống rượu, nghe Hát nói, Hát chèo, những chuyện Bích Câu kỳ ngộ, Trương Chi Mỵ nương v.v…

Người Mỹ đứng bên cạnh người Việt để hát dân ca, kháng chiến ca, làm như họ yêu mến tiếng hát dân tộc Việt Nam, họ cũng đồng tâm chống thực dân như dân tộc Việt Nam. Đó là hình ảnh của Phạm Duy và anh chàng Steve Addiss đã một thời khuấy loạn trước mắt quần chúng cách đây không lâu. Trong cuộc chiến tranh giải thực, chúng ta có một hình ảnh một bà mẹ tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam, đó làBà mẹ Gio Linh:

            Mẹ già cuốc đất trồng khoai,

            Nuôi con đánh giặc đêm ngày,

            Cho dù áo rách sờn vai,

            Cơm ăn bát vơi bát đầy.

            http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=KsA_Of2n1Q

Trong cuộc chiến tranh hiện nay, hình ảnh bà mẹ Việt Nam tiêu biểu chắc chắn không phải là hình ảnh một bà mẹ trong một khúc ca âm hưởng dân ca như sau:

            Đôi má tươi hồng, má tươi hồng, với bàn tay trắng,

            Nhỏ người vai lẳn, vú căng tròn, tròn lưng ong,

            Mẹ nằm phơi gió trăng.

            Ôi! Mẹ Việt Nam!

            Nghiêng mắt xanh, chải tóc mây ngàn,

Mẹ Việt Nam!

Bên bờ đại dương

Mẹ duỗi chân dài chờ mưa tuôn…

(Mẹ xinh đẹp trong Trường ca Mẹ Việt Nam)

Ngay cả tại Sài gòn cũng không thể có hình ảnh một bà mẹ Việt Nam “nằm phơi gió trăng, duỗi chân dài chờ mưa tuôn” như vậy trong lòng quần chúng được.

Có chăng là hình ảnh của Quách thị Trang:

            Em ngã xuống rồi cho cuộc đấu tranh,

            Em ngã xuống rồi khi tóc còn xanh.

Có chăng là hình ảnh của Nhất Chi Mai:

            Lửa bốc lên cao mắt người cháy đỏ,

            Lửa tràn bốn phía co quắp chân tay :

            Phan thị Mai ! Phan thị Mai !

            Cả tấm hình hài.

Phân tách như vậy chúng ta có dịp thấy thế nào là một bài ca dân tộc, thế nào là một bài ca rất có vẻ dân tộc, từ âm thanh đến nội dung, nhưng trong một hoàn cảnh nào đấy thì chỉ là một thứ chất độc nguy hại cho dân tộc. Chúng ta lại có dịp thấy thêm rằng việc khảo cứu, sưu tầm dân ca là công việc của người nghiên cứu văn hóa, tìm những mạch sống của dân tộc để nuôi dưỡng dân tộc mỗi khi cần đến. Trong khi đó, việc phục sinh một giai đoạn dân ca nào đây là việc của người làm chính trị. Sự xuất hiện của nó phản ảnh một đường lối chính trị, do đó chúng ta có thể lấy nó để hiểu được đường lối chính trị, hay ngược lại lấy chính trị để giải thích sự hiện diện của nó. Như vậy chúng ta thấu hiểu một cách dễ dàng tại sao chính quyền Việt Mỹ nâng đở loại dân ca lỗi thời trên và tại sao quần chúng đi vào phong trào Sử Ca, Kháng Chiến Ca.

           

 

 

PHONG TRÀO SỬ CA, KHÁNG CHIẾN CA   

 

 

Trong một giai đoạn mà người ta không được nói thẳng cái cảm nghĩ hay thái độ của mình thì họ tìm cách nói gián tiếp, nhưng khi nghe thì ai cũng hiểu được ý muốn của họ. Đó là lý do xuất hiện của Phong trào Sử Ca, Kháng Chiến Ca.

Những bài sử ca như Khúc khải hoàn, Hội nghị Diên Hồng, Bạch Đằng giang, Thăng Long hành khúc, Gò Đống Đa v.v… là những bài gián tiếp chống thực dân trước đây. Đó là những bài dành cho quần chúng đô thị trong cuộc tranh đấu khéo léo, tế nhị. Những bài Kháng chiến ca như Lên đàng, Du kích sông Thao, Tiếng hát sông Lô, An phú đông, Nhạc tuổi xanh, Đường về quê v.v…là những bài dành cho cuộc tranh đấu trực tiếp chống lại thực dân Pháp vừa qua. Cả hai loại nhạc này nay lại được sinh viên học sinh Sài gòn phục sinh thành một phong trào khá rầm rộ nhằm tạo một cuộc tranh đấu gián tiếp tại các đô thị. Chúng tôi gọi đó là phong trào Sử ca, Kháng chiến ca.

http://media.tuoitre.vn/Album.aspx?AlbumID=775

 

1. Đặc tính thứ nhất của phong trào là làm sống lại những trang sử oai hùng.

Giữa lúc chiến tranh khốc liệt và dai dẳng có thể làm cho nhiều người bi quan, tuyệt vọng về tương lai của đất nước thì vẫn còn rất nhiều người vẫn tin tưởng vào lịch sử, vào sức mạnh của dân tộc. Sử ca có tác dụng làm cho niềm tin trên vững vàng hơn. Niềm tin càng vững, tiếng hát lại càng mạnh với kẻ đã cố gắng dùng Sử ca để thổi một luồng gió dân tộc anh hùng vào các đô thị. Những bài ca này được kết lại thành những nhạc cảnh nên lại trở thành mới mẻ, lôi cuốn người thưởng thức.

Đại nhạc cảnh Việt Nam Gấm Vóc kể lại một huyền thoại hình thành giang sơn Việt Nam: Người Việt không muốn bị tiêu diệt nên đào đất đắp lên trụ đồng của Mã Viện; đất đào đi còn lại sông hồ, đất đắp nên thành núi, thành gò. Những bài Sử ca được dùng trong nhạc cảnh này là: Giòng sông Hát, Hồ Lãng Bạc, Du kích sông Thao, Chiều Yên Thế, Bạch Đằng giang, Gò Đống Đa, Tiếng sông Hương, Tiếng hát sông Lô, Cửu Long giang, Khúc Khải Hoàn.

 

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=xLvnkPZaHr (Bạch Đằng giang)

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=eDdgYoyvk0 (Du kích sông Thao)

 

Đại nhạc cảnh Xuân Việt Nam vẽ lại hai mùa xuân dân tộc: một mùa xuân thanh bình có hội chùa hái hoa, trẩy lộc và một mùa xuân chinh chiến có cuộc tiến công đại phá hai mươi vạn quân Thanh. Những bài ca được sử dụng trong đại nhạc cảnh này là: Chùa Hương, Xuân và Tuổi trẻ, Thúc quân, Thăng Long hành khúc v.v…

 

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=-6Ndb_a959 (Xuân và Tuổi trẻ)

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=MJd9WmSXFv (Thúc quân)

 

Nhạc kịch Sơn Tinh, Thủy Tinh thể hiện ý chí vô cùng vĩ đại của dân tộc: nước càng lên cao, núi càng cao hơn nữa, cũng như không có một sức mạnh nào có thể phá vỡ được những con đê Việt Nam.

 

2. Đặc tính thứ hai của phong trào là ngợi ca, tán dương các cuộc chiến đấu chống chế độ thực dân.

Sinh khí Kháng chiến ca còn bàng bạc trong lòng mọi người, Kháng chiến ca còn là hơi thở của người Việt hôm nay. Hễ nhạc trỗi lên là máu trong người cuồn cuộn chảy. Đại nhạc cảnh Hoàng Hoa Thám thể hiện ý chí sắt đá của dân Việt không hề lùi bước trước quân sài lang. Đại vũ Lúa thơm đồng xanh diễn tả sinh hoạt nông thôn phục vụ chiến tranh giải thực:

 

Lúa của anh thơm trên đồng xanh,

Lúa người nghèo nuôi dân cả nước,

Lúa một trăm năm nuôi anh kháng chiến,

Lúa còn đời đời đuổi giặc xâm lăng.

 

Hoạt cảnh Bà mẹ Gio Linh thể hiện một bà mẹ Việt Nam điển hình trong cuộc chiến tranh giải thực.

 

3.  Đặc tính thứ ba của phong trào là thức tỉnh trí thức đứng dậy cứu nước.

Không có một giới nào trong xã hội lại bị chê bai mạt sát bằng giới trí thức. Hễ đất nước lâm nguy là bởi sĩ phu sa lầy trong quyền lợi nhất thời của cá nhân, trong hèn nhát, trong yếu đuối. Thảm trạng đó được mô tả rất nhiều trong văn chương.

Với hiện tình đất nước, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy nhiều vở kịch xuất hiện để công kích hay để thức tỉnh trí thức. Vở kịch Tiếng trống Hà hồi mô tả tâm trạng ray rứt, dằn vặt của giới trí thức Bắc hà trong những ngày giặc Thanh xâm chiếm nước ta. Cho đến khi họ dứt bỏ được mọi ràng buộc của tư tưởng, của gia đình để ra đi cứu nước thì tiếng trống Tây Sơn đã nổi lên thúc quân đánh tan xâm lăng. Vở kịchHàm Tử Quan mô tả tâm trạng sĩ phu Bắc hà trong thời đất nước bị giặc Minh xâm chiếm. Người thì vì quyền lợi riêng tư, viện đạo quần thần mà phù Trần diệt Hồ, người thì cho rằng nhà Trần vì chiếc ngai vàng mà cấu kết với quân Minh rước voi về giày mả tổ cho nên họ nhất định theo Hồ quý Ly chiến đấu chống xâm lăng. Nhưng mấy ai thoát được vòng danh lợi, chọn con đường gian khổ mà đi, do đó Hàm Tử Quan trở thành một vết nhục trong Việt sử.

Chúng tôi nhận thấy không những người ta dùng Sử ca, Kháng chiến ca trên sân khấu mà ngay trong những sinh hoạt khác như trong nhữngcông tác xã hội, Hội thảo, Xuống đường tranh đấu, Đêm không ngủ v.v…Tiếng hát sông Lô, Du kích sông Thao, Lên đàng, Khúc Khải hoàn, Nhạc Tuổi xanh, Thanh niên ca, Đường về quê, An phú đông v.v… là những bài kháng chiến ca trên môi những người trẻ hiện đang bất mãn chế độ.

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=mTPAlnPV1R (Khúc Khải hoàn)

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=urtIJS3aK_ (Nhạc Tuổi xanh)

Sử ca, Kháng chiến ca trở thành một phong trào phản ảnh cảm nghĩ của quần chúng trước tình trạng hiện tại của đất nước. Do đó phong trào hàm chứa một ý nghĩa chính trị bất lợi cho chính quyền Việt Mỹ lúc bấy giờ. Cũng vì vậy, những nhà chính trị này lại khua đũa phù thủytriệt hạ phong trào bằng cách cũng ca ngợi những trang sử oai hùng bằng Sử ca và ngợi ca kháng chiến giải thực bằng Kháng chiến ca. Bài ca nào không thể hát được thì họ thay lời đổi nghĩa, phá cho hư thối đi, làm cụt hứng người nghe cho dù nghe lại nguyên bản. Ví dụ ở bài Tình Nước, câu cuối Nằm kề nhau chờ giặc đến, Lòng súng nao nao, đã bị đổi thành Nằm kề nhau chờ trăng lên, Lòng thấy nao nao. Trong bài Bà mẹ Gio Linh, chữ TÂY trong câu hát Nhà thì Tây đốt còn đâu, đã bị đổi thành NÓ.

Nhưng một hậu quả của hành động chính trị trên là sự hình thành của một phong trào Tranh đấu ca, tức là những bài ca nhắm thẳng vào chế độ mà tấn công, chớ không còn nói úp mở bóng gió gì nữa hết. Quần chúng lại tiến lên một bước nữa trong cuộc tranh đấu và nhờ hiện tượng này, chúng ta càng hiểu rõ chủ tâm của phong trào Sử ca, Kháng chiến ca vậy.

 

 

 

PHONG TRÀO TRANH ĐẤU CA

 

 

Đêm 27.9.1968 là đêm hội thảo của Sinh viên Học sinh Sài gòn về chiến tranh Việt Nam. Trụ sở Sinh viên Sài gòn trở nên rộn rịp lạ thường. Họ tập trung đông đảo quanh ngọn lửa hồng. Lửa rực sáng và những người con yêu dân tộc bắt đầu thay phiên nhau bằng giọng nói đanh thép, hùng hồn tấn công những âm mưu chiến tranh diệt chủng và cơ cấu thối nát của chế độ. Những khẩu hiệu được bung ra trong những cánh tay rắn chắt. Sau đó tiếng hát trổi dậy. Họ hát Sử ca, Kháng chiến ca.

Nhưng cũng vào đêm hôm đó, một bài ca mới xuất hiện, một bài ca rất nhẹ nhàng nhưng nghe lại vô cùng chua chát, một bài ca làm rung động dư luận trong và ngoài nước với những lời như sau:

            Ôi, những viên đạn đồng, thật tươi thật đỏ hồng,

            Các nước bạn đồng minh tặng cho dân Việt mình.

            Dân Việt cần cơm áo, bạn đồng minh hiếu thảo,

            Tăng viện trợ thật cao, những viên đạn đỏ hồng.

            Ôi, nhân danh Hoà Bình, ta, nước bạn đồng minh,

            Xin ủng hộ hai miền những viên đạn văn minh.

                                    (Viên đạn đồng – Miên Đức Thắng)

 

Link: http://cafevannghe.wordpress.com/2010/01/29/ca-nh%E1%BA%A1c-si-mien-d%E1%BB%A9c-th%E1%BA%AFng/

 

Cũng trong đêm hôm đó, một bài ca mới khác nữa xuất hiện, một bài ca hát nghe xôn xao rộn ràng trong lòng người như ta đã từng nghe những ca khúc Lên đàng, An Phú Đông, một bài ca vừa mang sức sống của dân tộc hôm nay, vừa âm hưởng nhạc cách mạng giải thực:

 

            Ngày nao loa vang, dân xóm thôn cũng vừa lên đường,

            Đời không yên vui nên rừng hoang cũng quen người rồi.

                                    (Hát cho dân tôi nghe – Tôn Thất Lập)

            http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=dQVZcF8A55

            http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=RgmQaaseOc

 

Chúng tôi muốn lấy đêm hội thảo đó làm đêm khởi đầu cho phong trào Tranh đấu ca của thanh niên, sinh viên, học sinh Sài gòn. Chúng tôi cũng muốn chứng minh là kể từ năm 1968 có một nền văn nghệ tranh đấu mang sắc thái đặc biệt do quần chúng đô thị dựng lên, đóng góp xứng đáng vào gia tài văn nghệ cách mạng của dân tộc ta.

 Phong trào Tranh đấu ca có những đặc tính sau:

 1. Đặc tính thứ nhất là chống chiến tranh do ngoại bang gây ra.

Thực chất của cuộc chiến tranh Việt Nam dần dần được mọi người thấy rõ. Việt Nam chỉ là một trận đại chiến thu hẹp lại. Người ta đã nhân danh cho Việt Nam đủ điều, nhưng thật sự Việt Nam chỉ là một chiến trường tiêu thụ võ khí và giải quyết những tranh chấp tư tưởng, chủ nghĩa của các đại cường quốc. Kết quả của cuộc chiến tranh phi lý này là hàng triệu người đã chết một cách vô cùng oan uổng:

            Con biết không con, hơn triệu người đã chết vì ai?

            Xác của ai nằm ven ruộng lúa,

            Xác của ai nằm trong rừng mía,

            Xác của ai thịt rữa ròi bươi, nằm giữa đồi hoang, chim quạ từng đàn,

            Xác của ai?

            Xác của ai nằm trong vại nước,

Xác của ai nằm trong bụi mía,

Xác của ai nằm trong bụi trúc,

Xác của ai lòi hết ruột gan, nằm dưới trời sương, thân hình trần truồng,

Xác của ai ?

Xác của ai nằm phơi ghềnh đá,

Xác của ai cong queo lạnh giá,

Xác của ai mà mất một chân, mà mất một tay mà cụt cả đầu,

Xác của ai ?

Xác của ai nằm bên bụi dứa,

Xác của ai nằm phơi đồi núi,

Xác của ai mà cháy thành than, nằm giữa gạch vôi, không còn hình người,

Xác của ai ?

**

Người biết hết hay không bao giờ muốn biết ?

Nhân danh ai người đi giết người ?

Nhân danh ai, nhân danh ai người đi giết người ?

Người đã biết dân Việt Nam tôi

Bốn ngàn năm đấu tranh bền chí, từng dẫm nát quân thù xâm lăng,

Sao người vẫn cố quên hỡi người ?

                                    (Con đường trước mặt – Phạm Thế Mỹ)                       

 

Phong trào Da Vàng Ca mới chỉ mô tả thực trạng chiến tranh mà thôi, trong khi đó phong trào Tranh Đấu Ca tiến xa hơn một bước nữa. Họ nhìn thẳng vào mặt những thủ phạm chiến tranh, không than khóc mà anh dũng tố cáo :

            Ôi nhân danh hoà bình,

            Ta, nước bạn đồng minh,

            Xin ủng hộ hai miền

            Những viên đạn văn minh.

 

2. Đặc tính thứ hai là kêu gọi anh em ngừng tay chém giết nhau.

Trong bài Phong trào Da Vàng Ca, chúng tôi có đề cập đến tâm trạng phủ nhận cảnh nồi da xáo thịt như sau :

« Giữa lúc những người Việt đang tham dự một cuộc chém giết nhau, gán cho nhau là tay sai của đế quốc này hay đế quốc nọ, thì chính trong thâm tâm họ, họ luôn luôn muốn phủ nhận cái cảnh nồi da xáo thịt đó. Họ đã từ bỏ con người của họ để mang những nhản hiệu cho mình, cho người anh em của mình để đánh nhau trên khắp các chiến trường. Thế nhưng, khi họ quên hết những nhản hiệu đó, khi họ xóa bỏ những chiếc mặt nạ mang cho nhau thì họ lại thấy gần gũi nhau, yêu thương nhau :

            Tôi có người yêu chết trận Plei-me,

            Tôi có người yêu ở chiến khu D,

            Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà nội,

            Chết vội vàng dọc theo biên giới…

                       (Tình ca người mất trí - TCS)

                  http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=u4jpsbtMoM

 


 

Trịnh công Sơn & Khánh Ly 1966, 
Link
:http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh_C%C3%B4ng_S%C6%A1n

 

Họ thấy những người chết trong cuộc chiến tranh khủng khiếp này là những người yêu, những người anh em của họ, cho dù những người này ở Plei-me, ở chiến khu D, ở ngoài Hà nội, ở Chu Prong, A Shau, hay bất cứ nơi nào trên giải đất Việt Nam thân yêu này…Tất cả là người yêu của họ. Yêu nhau là chấp nhận những đắng cay, ngọt bùi của nhau như câu ca dao : ‘‘Gừng cay muối mặn, xin đừng bỏ nhau’’. Làm sao có thể chấp nhận cái cảnh giết nhau, hận thù nhau được. »

Nhưng đó mới chỉ là những rung cảm mơ hồ, chưa thể hiện một sức mạnh tranh đấu nào hết. Phong trào Tranh Đấu Ca muốn giải quyết thật sự vấn đề ‘‘nội chiến’’. Nội chiến là một ảo tưởng, một chiêu bài của ngoại bang. Nếu ta rơi vào mê hồn trận của đấu tranh chủ nghĩa thì ảo tưởng nội chiến trở thành nội chiến thực sự. Anh em hãy ngưng tay lại kẻo lầm lẫn, sát hại nhau. Thay vì nói thẳng hãy ngừng tay thì những bài ca chua chát nói ngược lại :

            Ngủ đi con, ngủ đi con,

            Rồi ngày mai khôn lớn,

            Cầm súng với cầm gươm.

            Ngủ đi con, ngủ đi con,

            Rồi ngày mai khôn lớn,

            Giết bạn bè anh em.

            *

            Hãy giết người đi con,

            Giết người mà lên lon,

            Hỡi anh hùng tuổi nhỏ.

            Hãy giết người đi con,

            Giết người mà lên lon,

            Hỡi anh hùng tuổi nhỏ.

            http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=etu3QUu6o8 
            (Hởi Hồn Mẹ Việt Nam, nhạc Phạm Thế Mỹ, Miên Đức Thắng hát)

 

Không những họ kêu gọi anh em mà còn tích cực hơn nữa bằng cách tỏ thái độ không tham dự cuộc chiến :

            Người lính khe khẻ hát,

            Mẹ ơi ! Ơi Mẹ ơi !

            Vì con không muốn giết

            Bao anh em của mình,

            Vì con không muốn giết

            Nên con làm tù binh.

Trong những năm gần đây, hai chữ lính đánh thuê lại tái xuất hiện, như người ta đã gọi anh lính Bảo vệ, anh lính Việt binh đoàn ngày  trước. Chủ quyền quốc gia đã bị hoàn toàn chi phối, hoà hay chiến tùy thuộc quyền quyết định của ngoại bang. Người Việt sống lệ thuộc hoàn toàn vào chính sách của ngoại bang, làm tôi mọi phục vụ cho chính sách này. Do đó họ không muốn hợp tác tích cực nữa. Thái độ đó thể hiện rõ ràng trong câu hát sau:

            Người lính khe khẻ hát,

            Dân ta biết bao nhọc nhằn,

            Dân ta sống trong ngục tối,

            Vì bọn người gian ác.

            Con không tiếp tay lũ giặc,

Con không sống trong phù phiếm.

*

Người lính khe khẻ hát,

Mẹ ơi! Ơi Mẹ ơi!

Vì con không muốn kiếp lính đánh thuê tủi nhục,

Vì con không muốn giết

Giết người mà lên lon,

Vì con không muốn giết,

Nên con làm tù binh.

Sự lựa chọn ở tù, làm tù binh trong bài ca phản ảnh một cuộc chiến đấu tiêu cực của dân tộc. Làm tù binh ở đây có nghĩa là bó tay, nhắm mắt, bịt tai, giả ngu, giả điếc, giả câm, giả đui mù, què quặt, bại hoại, nhác nhớm, mệt mỏi, rù rờ, chậm chạp, trễ nãi, vô kỷ luật, vô trật tự, vô trách nhiệm v.v… Tất cả những tật xấu đó đã làm cho người Mỹ chê trách người Việt hết lời: gọi là GOOKSthiếu văn minh, mọi rợ, đáng khinh bỉ, yếu đuối, bất lực, không tin tưởng được, cho nên họ phải chủ động trận giặc này, phải trực tiếp tham dự chiến tranh, phải đem nửa triệu quân văn minh tài giỏi vào, và họ đã bị sa lầy.

Cuộc nội chiến trở thành một cuộc chiến tranh Việt-Mỹ. Người Mỹ không những phải điên đầu vì những thằng người nhỏ bé Việt Nam ngoan cố, liều mạng, dám làm cái chuyện châu chấu đá xe, mà họ lại còn điên đầu hơn nữa vì phải đeo đẳng bên vai những thằng người chỉ biết hút thuốc, uống rượu và hát nghêu ngao:

            Tôi có người yêu chết trận Pleime,

            Tôi có người yêu ở chiến khu D,

            Chết trận Đồng xoài, chết ngoài Hà nội,

            Chết vội vàng dọc theo biên giới.

             http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=u4jpsbtMoM

 

3. Đặc tính thứ ba là chống lại chính sách phá hoại kinh tế nông nghiệp Việt Nam và chính sách tập trung nông dân.

Người Việt Nam nhận thấy được một chính sách dã man của người ngoại quốc đối với đồng bào nông thôn miền Nam. Đó là chính sách thả bom, tàn phá ruộng vườn, nhà cửa để lùa nông dân vào các trại tập trung “để tránh nạn Việt cọng”. Người dân sống trong những trại này không còn là người nữa vì không còn quê hương mà chỉ là những người nô lệ da vàng ngồi yên xin áo xin cơm. Những trại tập trung này không khác gì những trại tập trung của Đức quốc xã và còn tệ hơn nữa là khác. NgườI dân sống ở vùng “tự do” mà chịu những cảnh đau lòng như vậy, cho nên tại các đô thị, những phong trào tranh đấu đã liên tục nổi dậy.

Trong lãnh vực văn nghệ, mặc dù người dân đô thị không sống trong sinh hoạt nông thôn, nhưng đâu đâu chúng ta cũng thấy những màn vũcuốc cày, gặt lúa, giã gạo, đâu đâu cũng nghe họ ca hát những bài tưởng chừng như họ là nông dân vậy:

Trong bài Hát từ đồng hoang của Miên Đức Thắng, có những câu:

            Đất ta ta xới, đất ta ta bồi,

            Đất ta ta tới, đất ta ta ngồi,

            Đất hoang ta phá, đất khô ta gầy,

            Đất mang hoa thắm, tương lai ta đầy.

 

Trong bài Hãy giành lại ruộng vườn của Tôn Thất Lập, có đoạn :

 

            Anh em ơi ! Hãy giành lại ruộng vườn ta!

            Hãy giành lại đồng bào ta!

            Hãy giành giành lại đường đi!

            Cho tiếng hát vang sông dài.

 

Vũ khúc Lúa thơm đồng xanh xây dựng trên những lời ca:

 

            Lúa của anh thơm trên đồng xanh,

            Lúa người nghèo nuôi dân cả nước,

            Lúa một trăm năm nuôi anh kháng chiến,

            Lúa còn đời đời đuổi giặc xâm lăng.

                                    (Đồng lúa reo)

 

Nhạc kịch Sắc lụa Trữ La lại đề cập đến nền tiểu công nghệ tơ lụa Việt Nam bị kỹ nghệ Tây phương tiêu diệt v.v…

 


    Nhạc sĩ Tôn thất Lập tham dự Đại hội sinh viên VN hải ngoại Paris 1974, 
Link:
 http://vietbao.vn/Van-hoa/Nhac-si-Ton-That-Lap-Con-nguoi-chang-the-nao-tron-duoc-thoi-gian/70036074/181/

 

 

4. Đặc tính thứ tư là phản ảnh một sắc thái tranh đấu kỳ lạ của dân tộc Việt Nam.

Đó là Nhất Chi Mai tự thiêu để đòi Hoà Bình, Tự Do. Con người ở đây không tranh đấu bằng cách hủy diệt người khác mà chỉ đốt mình làm đuốc cải hóa người khác:

               Link: http://www.phatviet.com/pgvn/50nam/50n1522.htm#_ftnref1

 

Hãy sống giùm tôi, hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi 
Thịt da này dành cho thù hận, 
Cho bạo cường, cho tham vọng của một lũ điên.

Hãy sống giùm tôi, hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi 
Quả tim này dành cho lửa hồng, 
Cho hòa bình, cho con người còn chờ đấu tranh.

Ai có nghe, ai có nghe tiếng nói người Việt Nam 
Chỉ mong hòa bình sau đêm tăm tối,
Chờ mong một ngày tay ấm trong tay. 

Hãy sống giùm tôi, hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi 
Đă lâu rồi làm sao chờ đợi,
Sao còn ngồi, sao im lìm ngủ hoài các anh.

Hãy sống giùm tôi, hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi 
Còn thấy ǵì ngoài bom lửa đạn, 
Anh chị này, sao vui mừng làm người cúi xin.

 (Hãy sống giùm tôi – TCS)

 

 http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=ag6-xLCBx8

 

Một Trường ca vẽ nên một Bức tranh phơi cảnh tượng một trận đấu kỳ diệu, một bên là bồ câu, một bên là ó biển:

            Ó biển giương mười móng đen sân hận,

            Bồ câu xoè đôi cánh trắng từ bi.

            Lửa hồng đốt rụng vây kiềm tỏa,

            Tôi vượt muôn trùng cánh tự do.

            Lửa hồng hun từ lòng Hy Mã

            Ánh sáng Phương Đông rạng thái bình.

Không có một sức mạnh nào chống lại được ngọn lửa Quảng Đức, Nhất Chi Mai. Đó là hiện thân của một nền văn minh cao cả nhất của nhân loại. Nền văn minh Tây phương đã hủy hoại con người, đã gieo rắc chiến tranh lên khắp địa cầu, kẻ thắng cũng như kẻ bại đều trở thành hư hỏng, sa đọa. Lửa Thiêng đã loé sáng đem lại cho người người một niềm tin mới. Niềm tin đó cũng được thể hiện trong những lời ca, tiếng hát thanh thoát nhưng hùng vĩ lạ thường:

            Lửa thiêng! Lửa vươn cao ngất trời xanh,

            Lửa đem ta tới bình minh.

            Lửa thiêng! Lửa reo câu hát tự do,

            Lửa reo tươi sáng đời tôi,

            Lửa reo thế giới hòa vui.

            Thế giới mai đây rạng ngời,

            Yêu thương lửa ấm, trong tim ngàn đời.

            Nhân dân nhớ mãi công ơn của Người,

            Nơi nơi tiếng hát reo vui đời mới.

            Thế giới mai đây hòa bình,

            Em thơ mắt sáng môi hoa nụ cười.

            Muôn năm thế giới, muôn năm Hòa Bình,

            Cây sai quả phúc ngàn đời Lửa Thiêng!

                                    (Lửa Thiêng - Phạm Thế Mỹ)

 


Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, 
Link: http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Th%E1%BA%BF_M%E1%BB%B9

 Tuy nhiên, những bài thơ, những bài nhạc trên mới chỉ là những rung cảm của con người vừa được cảm hóa. Nó âm hưởng phần nào sự huyền diệu, thanh cao của lời thơ, của âm thanh thầm lặng thoát ra từ ngọn lửa. Chính lửa mới là khúc nhạc đầy nhân loại tính, vô cùng vĩ đại, khởi đầu cho một kỷ nguyên mới vậy.

 

 5. Đặc tính thứ năm là phản ảnh khí thế tranh đấu của quần chúng đô thị.

Thời thực dân Pháp, quần chúng đô thị chỉ tranh đấu bằng Sử Ca và ít có những bài tranh đấu ca trực tiếp tấn công chế độ. Quần chúng đô thị hôm nay tiến xa hơn nữa, không những họ dùng Sử Ca, Kháng chiến Ca mà còn sáng tác Tranh đấu Ca để nói lên tiếng nói của chính họ. Nhiều bài ca tranh đấu xuất hiện song song vớI những cuộc tranh đấu của quần chúng chống lại cơ cấu thối nát của chế độ và đề kháng áp lực ngoại bang:

            Ngày nao loa vang dân xóm thôn cũng vừa lên đường,

Đời không yên vui nên rừng hoang cũng quen người rồi.

Giành lại dòng sông này cho lúa chín khắp đồng xanh,

Giành lại thành phố đó cho bàn tay nâng cao hòa bình.

                        (Hát cho dân tôi nghe – Tôn thất Lập)

               http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=dQVZcF8A55

Hai điểm son của phong trào này là Đại hợp xướng Con Đường Trước Mặt của đoàn Văn nghệ Sinh viên Vạn Hạnh và Đại hội Mừng Tết Quang Trung của Sinh viên Học sinh Sài gòn. Đại hợp xướng Trường ca Con Đường Trước Mặt là một hợp xướng vĩ đại chưa từng có trong sinh hoạt văn nghệ từ mấy mươi năm nay. Lời kể lại không thể tạo lại được cho người nghe một sự rung cảm lớn lao tràn đầy lồng ngực như khi được tham dự trình diễn. Một trăm người hát trên sân khấu là một trăm gương mặt biểu tình, hội thảo xuống đường với những đường nét rắn rỏi điển hình của thế hệ mới, với giọng ca nổ ra thành sóng gió trổi dậy giữa màu áo quần đỏ rực mặt trời thân yêu. Trong tiếng hát, trong ánh sáng kỳ diệu đó, người nghe bỗng dưng thấy mình được tái sinh trong Việt sử vàng son, trong con đường thênh thang vô cùng trước mặt.

 

 

Nhạc trong Con Đường Trước Mặt vừa mang âm hưởng dân ca cổ điển vừa mang âm hưởng nhạc cách mạng giải thực, cọng thêm âm thanh của tiếng hô hào trong những cuộc biểu tình. Sự tổng hợp của ba nguồn âm nhạc đó đã tạo nên sắc thái đặc biệt cho nền Văn nghệ mới này. Trường ca được chia làm ba phần. Phần thứ nhất mô tả thảm trạng chiến tranh do ngoại bang gây ra:

             Người muốn biết hay không bao giờ muốn biết?

            Nhân danh ai người đi giết người?

            Người đi giết người?

Phần thứ hai của trường ca nhằm nhắc cho ngoại bang biết dân tộc Việt Nam là dân tộc bất khuất:

 

            Người đã biết dân Việt Nam tôi

            Bốn ngàn năm đấu tranh bền chí,

            Từng dẫm nát quân thù xâm lăng,

            Sao người vẫn cố quên hỡi người?

Nhắc cho anh em lịch sử oai hùng của dân tộc để vững niềm tin, noi gương tổ tiên tiến lên giành tự do hạnh phúc:

            Dòng máu này của Quang Trung,

            Dòng máu này của Trưng Vương,

            Với ánh sáng lửa thiêng của Người sáng bước chân đi ngàn lối.

            Mảnh đất này của quê ta,

            Ruộng lúa này của dân ta,

Ta không muốn đời ta tối tăm lầm than bởi quân bạo tàn.

 


Ban hợp xướng Đoàn văn nghệ sinh viên Vạn Hạnh

 

Phần thứ ba mô tả Việt Nam sáng tươi trong Hoà bình, Thống nhất, Tự do, Độc lập:

            Ôi con đường Việt Nam

            Ôi con đường Việt Nam

Hai mươi lăm triệu trái tim ta

Sống yên vui, yên vui một nhà.

 

Đại hội Mừng Tết Quang Trung do các đoàn thể Sinh viên Học sinh Sài gòn tổ chức đã lôi cuốn gần vạn người tham dự, trong một không khí vô cùng hào hứng, phấn khởi. Đại hộI đánh dấu một biến chuyển mới trong phong trào văn nghệ tranh đấu của quần chúng đô thị với những ưu điểm sau:

 

a. Đầu tiên là cải tiến khung cảnh trình diễn văn nghệ.

Sân khấu phải thật rộng, có thể chứa cả trăm diễn viên với các phông cảnh vĩ đại. Mở rộng rạp hát bằng cách trình diễn ở ngoài trời để có thể có hàng vạn người tham dự và nếu cần sẽ đốt lửa tranh đấu thành mít tinh, biểu tình. (Tiêu biểu là bài hát Dậy mà đi, phỏng thơ Tố Hữu- DB.)

     http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=GAP1SyMOkT

 

b. Ưu điểm thứ hai là cải tiến quan niệm thưởng thức văn nghệ của quần chúng.

 

Văn nghệ tranh đấu khác xa với văn nghệ làm trò mua vui khán giả. Đó là những tiếng nói nhiệt tình nhất trong mọi tiếng nói có thể làm rung động tim người, làm cho họ hăng say đứng dậy tranh đấu. Như vậy, không thể để cho khán giả và người trình diễn cách biệt nhau được. Không có ai trình diễn cho ai coi hết, mà tất cả đều phải tham dự cuộc trình diễn.

 
Đêm văn nghệ Sinh viên Vạn Hạnh

Những diễn viên trên sân khấu chỉ là những người bắt giọng cho tất cả hát diễn theo. Sân khấu ở đây không phải là tiếng đối nghịch với tiếng cuộc đời. Trái lại, sân khấu ở đây chính là cuộc đời thật sự. Mọi người sống trong những điều ước mơ mà không cần phải che đậy, đóng trò, đóng kịch gì hết. Khán giả trong Đại hội Mừng Tết Quang Trung là loại khán giả chúng tôi vừa mới trình bày. Họ rước đuốc, họ diễn hành, họ hát theo những người trên sân khấu. Họ hô khẩu hiệu phát huy tinh thần Quang Trung. Đứng trên sân khấu nhìn về phía khán giả thì chúng ta có thể thấy ở đó cũng là sân khấu, một sân khấu vĩ đại, hết sức vĩ đại, trong đó cả vạn diễn viên kết thành một bài ca lớn như câu thơ:

    “Đêm liên hoan, đầu người nhấp nhô như sóng biển ngang tàng”.

 

c. Ưu điểm thứ ba của đại hội là cải tiến quan niệm trình diễn.

Những hình thức đơn ca, song ca trong sinh hoạt văn nghệ miền Nam từ trước đến nay chỉ phản ảnh chủ nghĩa cá nhân lan tràn trong xã hội. Văn nghệ tranh đấu không thể đi theo con đường đó được. Văn nghệ tranh đấu phải thể hiện sức mạnh tranh đấu của quần chúng. Do đó, không những nội dung văn nghệ tiến bộ mà ngay cả hình ảnh những đại vũ khúc, âm thanh trống chiêng mới có thể đáp ứng nhu cầu văn nghệ của khán giả lớn lao như vậy. Đại hội đã thực hiện quan niệm trình diễn này, không những không có những màn cá nhân bé nhỏ nhược tiểu, mà có những màn to lớn đáng ghi nhận:

Đại vũ khúc Đường Độc Lập do đoàn Văn nghệ Sinh viên Học sinh Sài gòn thực hiện với tiếng trống chiêng, nhạc Ải Chi Lăng, gươm giáo sáng chóa, y phục vàng đỏ màu đất nước. Ba mươi diễn viên chia làm năm toán kết lại thành một vũ khúc hào hùng gợi hình ảnh chiến công anh dũng của dân tộc ta trong cuộc tranh đấu chống xâm lăng, giành độc lập để kết nên Khúc Khải Hoàn: Việt Nam mến yêu.

Đường Độc Lập và Tiếng Trống Hào Hùng là hai vũ khúc khích động mạnh mẽ khí thế dân tộc được trình diễn nhiều nơi và được tán thưởng nhiệt liệt. Đại vũ khúc Lúa Thơm Đồng Xanh do ban Văn nghệ sinh viên Luật Khoa thực hiện với y phục nông dân Việt Nam. Hai mươi bốn diễn viên trai gái diễn tả sinh hoạt canh tác ruộng đồng, đi cuốc, đi cày, gieo mạ, gặt lúa, sàng sẫy, liên hoan trong những ngày mùa. Bài phụ họa là một sáng tác mới mang tên Đồng Lúa Reo trong đó có những câu:

            Lúa của anh thơm trên đồng xanh,

Lúa người nghèo nuôi dân cả nước,

Lúa một trăm năm nuôi anh kháng chiến,

Lúa còn đời đời đuổi giặc xâm lăng.

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=d7xe1Dwr0g

 

6. Đặc tính thứ sáu là nhạc Hòa bình xuất hiện.

            Hai mươi năm chờ từng phút giây,

Hôm nay tiếng Hoà Bình đã thấy,

Trên môi người, trên môi ta, trên môi em,

Trên môi những ngườI Việt nghèo khốn.

Hai mươi năm chờ đợi đã lâu,

Nay sức sống tràn về mạch máu,

Nuôi tim mẹ, nuôi tim cha, nuôi tim nhau,

Nuôi đất nước Việt giàu.

            (Đồng dao hoà bình - Trịnh Công Sơn)

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=k8Du8aiRWF

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=e_dKicCnCJ

 

Nhạc Hoà bình xuất hiện trong khi chưa có Hoà bình, trong khi chiến tranh vẫn còn gia tăng thì không phải là nhạc Hòa bình mà là nhạc Đòi Hoà bình, nhạc tranh đấu cho Hòa bình. Phong trào sáng tác nhạc Hoà bình đã chuyển mình lớn dậy trong những ngày gần đây. Hoà bình trở thành hai chữ đẹp nhất, quyến rũ nhất trong giai đoạn này, cho nên bài ca nào nói về Hoà bình đều được mọi người yêu thích:

            Đường ta đi thênh thang từng bước, bước, bước,

Chim bồ câu bay trên nẻo đường xa xa.

Đường ta đi thênh thang từng bước, bước, bước,

Chuông chùa ngân nga trên nẻo đường quê ta.

Đường ta đi diều bay cuối xóm,

Đường ta đi trẻ thơ hát cười,

Đường ta đi người yêu đất mới,

Đường ta đi chim hót reo vui.

            (Con đường trước mặt - Phạm Thế Mỹ)

Không biết bao nhiêu bài ca Hoà bình xuất hiện. Việt Nam hát nhạc Hòa bình, thế giới bây giờ cũng cất cao tiếng hát Hòa bình cho Việt Nam, phải chăng nhạc Hòa bình là giai đoạn chót của cuộc tranh đấu quá to lớn của dân tộc ta và của lương tâm thế giới? 

(Xem thêm: Phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe, Link:http://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_tr%C3%A0o_H%C3%A1t_cho_%C4%91%E1%BB%93ng_b%C3%A0o_t%C3%B4i_nghe

http://www.baomoi.com/Info/Hat-cho-dong-bao-toi-nghe-nhung-loi-ca-vang-vong-Ky-2-Di-san-cua-mot-thoi/71/4150485.epi )

 

 

 

TẠM KẾT LUẬN :

 

Điều chúng ta có thể thấy rõ là quần chúng trong những phong trào văn nghệ tranh đấu là quần chúng không bằng lòng với hoàn cảnh hiện tại và tích cực tranh đấu chống lại những gì mà họ cho là nguy hại cho dân tộc. Câu hỏi căn bản mà phong trào DA VÀNG CA đặt ra tức là vấn đề “gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc dân ta” nay đã được phong trào văn nghệ tranh đấu trả lời. Khác với những phong trào trước, quần chúng trong phong trào văn nghệ tranh đấu không than khóc, không tuyệt vọng, trái lại họ can đảm tích cực đứng dậy nhìn thẳng vào những bàn tay đặt gông cùm, xiềng xích lên đầu lên cổ họ và họ cố bứt mạnh những bàn tay đó ra.

Một điều đáng ghi nhận nữa là: dĩ nhiên, cách mạng sẽ phải bùng nỗ để chấm dứt một giai đoạn sa đọa của nền văn minh Tây phương cũng như Cách mạng Tháng Tám đã chấm dứt chế độ Thực dân. Nhưng giai đoạn này hết cũng là lúc một giai đoạn sa đọa mới xuất hiện. Con người ở đây không muốn như vậy và họ đã cất cao tiếng hát Đông phương, tiếng hát khởi từ Hy Mã Lạp Sơn, bốc lên thành ngọn lửa thiêng Quảng Đức, Nhất Chi Mai, phục sinh một nền văn minh cao cả nhất của nhân loại đã bị chôn sâu hàng ngàn năm tuyết phủ. (Lời kêu gọi Nối vòng tay lớn đã được cất lên – DB. Link: http://www.youtube.com/watch?v=1zEJ1G5tGRs)

 

LÊ TRƯƠNG (1970)

(Hội Sinh viên sáng tác Sài Gòn /1970)

Bản điện tử: Đông Ba (bổ sung tháng 7-2011)

 

 


 

 

Góp nhặt đó đây :

 

Thứ Hai, 28/03/2005, 00:04 (GMT+7)

Cuộc gặp gỡ của anh em phong trào SVHS miền Nam:

30 năm,  lửa trong tim vẫn ấm

 TT - Ba mươi năm trước, họ là những HS, SV của Huế và Sài Gòn xuống đường với ngọn lửa tuổi trẻ hừng hực, đấu tranh đòi hòa bình cho quê hương, tự do cho đồng bào. Và giờ đây, ba mươi năm sau, những mái đầu xanh thuở nào đã nhuốm bạc, bồi hồi gặp lại nhau trong ngày kỷ niệm giải phóng Huế...

Buổi sáng 26-3, quán cà phê Tổng Hội (22 Trương Định, Huế) không còn một chỗ để ngồi. Những chiếc bàn được ghép lại thành một vòng tròn. Ngồi quanh là những mái đầu đã nhuốm bạc nhưng cười nói ngả nghiêng: “Thằng Mẫm có ra được à? Thằng Nhạc mô không thấy? Nhớ gọi taxi chở thằng Tường về nghe!”...

Hơn 30 năm trước, ngôi nhà này chính là “đại bản doanh” của Tổng hội Sinh viên (THSV) Huế (bây giờ là trụ sở Thành đoàn).

Ngày ấy dưới giàn hoa giấy này, những chàng trai Văn khoa, Luật khoa, Sư phạm đã chia sẻ với nhau về nỗi đau của quê hương đất nước dưới gót giày xâm lược Mỹ; đã sục sôi ngọn lửa yêu nước, thương dân; và cũng từ đây những bước chân đã rầm rập xuống đường, đốt xe Mỹ, phá tòa lãnh sự quán Mỹ...

Gặp nhau để yêu thương và soi lại mình

 Những câu chuyện về trái bom xăng đốt xe Mỹ của Thái Ngọc San, Bửu Chỉ, hay chuyện Trần Phá Nhạc và Hoàng Thị Thọ phát thanh như giọng của Đài Giải phóng khiến cảnh sát ngụy cứ tưởng Việt cộng đã ở trong thành phố; xen lẫn chuyện học hành của con cái, chuyện vui chơi của ba mẹ... vẫn không thể dứt, cho đến khi họ tề tựu đông đủ ở sân Thành ủy Huế. 

Tại đó, đã có mặt hơn 40 anh chị từ TP.HCM, Nha Trang, Qui Nhơn, Buôn Ma Thuột, Đà Nẵng cũng đã về kịp. Những mái đầu bạc ấy lại hét toáng lên, rồi ôm nhau cười rạng rỡ. Ở một góc sân là các chị SV sư phạm, y khoa, HS Đồng Khánh một thời bây giờ đã thành những bà nội, bà ngoại ôm nhau và nước mắt ràn rụa.

Còn nhiều người nữa vì bận công tác không về được, nhưng cũng có nhiều người của phong trào mãi mãi không về nữa: Bửu Chỉ (người đã vẽ những bức tranh bút sắt rực lửa), Trương Quốc Khánh (tác giả bài hát Tự nguyện), Nguyễn Phạm Kim Hùng (trưởng khối kế hoạch của THSV Huế)... Và cả những người đã nằm xuống khi cuộc đấu tranh vẫn chưa dứt như: Ngô Kha, Lê Minh Trường, Trần Quang Long, Nguyễn Thiết... 

Một chiếc xe lăn tiến vào sân, mọi người xúm lại nhấc bổng lên hành lang. Đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường, tổng thư ký THSV Huế năm 1963, dù bệnh tật vẫn không chịu vắng mặt.

“Huế là nơi xuất phát tiên phong của phong trào đấu tranh của SVHS toàn miền Nam. Cũng từ đây, những phong trào đêm không ngủ, đốt xe Mỹ, chống quân sự học đường... lan tỏa đến Sài Gòn - anh Huỳnh Tấn Mẫm, chủ tịch THSV miền Nam bấy giờ, nghẹn ngào hồi tưởng - Huế cũng là nơi sản sinh ra nhiều nhân tài cho phong trào SVHS Sài Gòn như: Trần Quang Long, Trần Triệu Luật, Tôn Thất Lập, Trương Thìn...”.

Anh Mẫm kể rằng ông tỉnh trưởng Thừa Thiên bấy giờ rất sợ lực lượng sinh viên vì cuộc đấu tranh của họ diễn ra công khai, nhưng đàn áp thì lập tức dư luận cả nước và thế giới lên án ngay.  Anh Nguyễn Duy Hiền, bấy giờ là trưởng đoàn công tác xã hội THSV Huế, tâm sự: “Đã sống bên nhau và cùng vượt qua những ngày nóng bỏng nguy nan đó nên chúng tôi thương yêu nhau như anh em một nhà. 30 năm hay bao nhiêu năm nữa, tình cảm đó vẫn nồng ấm”.

Thức lại những đêm không ngủ

Không khí lạnh cuối mùa bị đốt nóng lên bởi ngọn lửa của tình cảm 30 năm xa cách. Và họ lại kéo nhau lên sân khấu, ôm nhau hát vang những bài ca một thuở: Còn một ngày ta vẫn còn tranh đấu.

Tiếng hát cứ kéo dài cho đến tối ở nhà kèn công viên 3-2, ngay trước giảng đường Đại học Sư phạm, và cạnh đó là Đại học Văn khoa (bây giờ là khách sạn Saigon Morin) - nơi được xem là chiến lũy của những người xuống đường, nơi mà họ đã biết bao đêm không ngủ để “hát cho đồng bào tôi nghe”.

“Tại đây, sau những đêm “hát cho đồng bào tôi nghe” là một vòng vây của cảnh sát chìm, cảnh sát nổi với súng tiểu liên, lựu đạn cay siết chặt” - nhạc sĩ Tôn Thất Lập, tác giả bài Hát cho dân tôi nghe, hồi tưởng trong sự lắng nghe chăm chú của đông đảo bạn trẻ sinh viên Huế. “Tiếng hát đi đầu để thúc giục lòng yêu nước. Đó là ý nghĩa của phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe vang dậy cả miền Nam”.

Và tiếng hát ấy đang vang dậy bên sông Hương: “Ngày nao loa vang dân xóm thôn cũng vừa lên đường”. Mọi người không ai bảo ai, tự nguyện kéo lên sân khấu, nắm chặt tay nhau, hát vang với hào khí ngất trời ngày nào. “Không ai ngăn nổi lời ca, lời ca mãi muôn đời, lời ca yêu mến người” - chị Thúy Liên, một giọng ca của phong trào từ Sài Gòn ra, tiếp tục cất tiếng. 

Nhiệt độ tăng lên nóng hổi khi nhạc sĩ Miên Đức Thắng, một nhạc sĩ của phong trào, từ xa trở về quê với tuổi đã 62 nhưng giọng hát vẫn còn quá ư vạm vỡ và hào sảng. “Đất cho ta sống, quê hương ta bồng, đất cho ta chết, quê hương ta về”. Hơn 30 năm trước, cũng chính vì bài Hát từ đồng hoang này mà Miên Đức Thắng đã bị chế độ ngụy kết án khổ sai.

Họ đã hoảng sợ tiếng hát - một thứ vũ khí “đặc hữu” của những người xuống đường, như nhạc sĩ Tôn Thất Lập nói: “Nếu thế hệ trước “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” (lời của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước), thì thế hệ chúng tôi lại cầm bút nghiên xuống đường đấu tranh. Vũ khí của chúng tôi là tri thức, là nghệ thuật”. Điều đó đã được nhà thơ Võ Quê tiếp tục thể hiện với bài thơ sục sôi một thời Thừa Phủ ơi, lòng ta hồng biển lửa...

Đó là đêm thứ hai họ gặp lại nhau khá đủ ở Huế sau 30 năm, trong những ngày tháng ba bồi hồi này, và cũng là đêm thứ hai tiếp tục không ngủ. Tiếng hát, tiếng đàn tiếp tục kéo dài ở ngôi nhà Tổng Hội. Và nhạc của Trần Long Ẩn, Trương Quốc Khánh, Nguyễn Văn Sanh, Xuân An; và thơ của Lê Văn Ngăn, Lê Gành, Trần Vàng Sao, Trần Phá Nhạc, Đông Trình... vẫn liên tục vang dậy như những ngày nào xuống đường đầy khí phách.

 

MINH TỰ

 


Những cuộc xuống đường đấu tranh của học sinh, sinh viên đô thị miền Nam  - Ảnh tư liệu


Làn sóng đấu tranh dâng lên mạnh mẽ khắp nước - Ảnh tư liệu


Những chàng trai văn khoa, những cô gái sư phạm năm xưa, giờ gặp lại - Ảnh: M.Tự

Phiên tòa sôi động nhất ngày 18-3-1972. Mười sinh viên cắt tay lấy máu viết khẩu hiệu "Tự do hay là chết" lên tường tòa án quân sự Bạch Đằng. Từ trái qua phải: Trương Văn Khuê, Nguyễn Duy Thông, Lê Văn Nuôi (giữa), Nguyễn Xuân Thượng, Lương Đình Mai...

 

 

 

Nguon: http://giaodiemonline.com/2011/09/nhac.htm

Các tin đã đăng:
Về đầu trang