Dưới đây là
bản dịch một bài nói chuyên của ngài trước các sinh viên thuộc University of British Columbia ở thành phố Vancouver, bang British Columbia, Canada vào năm 1985. Sau 25 năm, bài nói chuyện của ngài vẫn còn nguyên giá trị.
Trong kỷ nguyên hiện nay, khi công nghệ và chủ nghĩa sùng bái vật
chất nảy nở, chúng ta muốn có một cái nhìn cặn kẽ vào tư duy của thời
đại và tự hỏi xem phải chăng giai đoạn này là một thời kỳ đáng sống.
Khoa học đã mang lại những tiến bộ diệu kỳ về mặt công nghệ và chắc chắn
điều đó được kể là tốt đẹp. Nhưng chúng ta cũng nên nhận thức sự thật
qua phát biểu, “vật cực tắc phản”, nghĩa là khi sự vật tiến tới một cực
độ thì nó sẽ biến thiên theo chiều ngược lại. Trong trường hợp của những
tiến bộ công nghệ, những điều tốt cũng báo hiệu sự bất hạnh. Chẳng hạn,
chúng ta hãy tìm hiểu kỹ về máy vô tuyến truyền hình. Tôi biết nhiều
người sẽ phản đối những phân tích của tôi về máy vô tuyến truyền hình,
bảo rằng, “Thưa thầy, thầy là người muốn trở về thời đồ đá. Thầy là một
kẻ lỗi thời. Thầy không đi cùng nhịp bước với thời đại.”Mặc dù vậy, theo
quan điểm của tôi, máy vô tuyến truyền hình vẫn là một sự đe dọa đối
với cuộc sống loài người. Máy vô tuyến truyền hình là một thứ ăn-người.
Quý vị chưa biết được điều đó à? Hãy nhìn đám trẻ con ngày nay. Thay vì
làm bài tập về nhà, trẻ con chỉ biết ngồi trước máy vô tuyến truyền
hình. Chúng bị dán chặt vào màn hình, và màn hình của máy đã hút hết
sinh lực của chúng. Những đứa trẻ ấy có thể coi là không còn sinh khí vì
chúng sẽ chẳng bao giờ học được những nguyên lý căn bản của một người
hiền thiện. Chúng chỉ học được việc nhìn chăm chăm vào màn ảnh truyền
hình.
Và máy vô tuyến truyền hình đã dạy chúng những gì? Bất kể hành vi
quái đản kỳ lạ nào mà ta có thể tưởng tượng được. Chúng học được hết sức
ít ỏi về giá trị.Trẻ con nhanh chóng học để diễn lại những bài học xấu
xa và có hại mà chúng đã xem được. Chẳng bao lâu sau, chúng học được tất
cả những điều tồi tệ mà con người có thể làm.
Trước khi máy vô tuyến truyền hình có mặt trong thế giới loài người, thứ hàng hóa ăn-người
chính là chiếc máy vô tuyến truyền thanh. Máy vô tuyến truyền thanh
cũng đã hút kiệt sinh lực của loài người. Con người thường cắm một cái
ống nghe vào tai và hoàn toàn quên sạch tất cả mọi điều khác. Máy vô
tuyến truyền thanh đã từng làm cho chúng ta quên ăn quên ngủ và quên hầu
như tất cả những sự kiện thông thường của cuộc đời. Ngày nay máy vô
tuyến truyền hình đã làm cho chúng ta lúng túng đến mức không biết là
chúng ta đang đến hay đang đi.
Máy điện toán đã tiếp bước ngay sau máy vô tuyến truyền hình. Trong
ngôn ngữ Trung Quốc máy điện toán được hiểu một cách cụ thể như là bộ
não điện tử. Trong tương lai, sẽ có cả những cặp mắt điện tử, cũng như
những đôi tai điện tử, những cái lưỡi điện tử, những lỗ mũi điện tử và
những thân thể điện tử. Mỗi một con người với lục căn sẽ có cả những bộ
phận tháo rời dùng một lần rồi bỏ, giống như những hộp đựng băng từ và
sẽ có được sự tăng thế của nguồn điện. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý
đều sẽ được điện toán hóa. Ngay cả ý thức cũng sẽ gắn chặt một cách hữu
cơ với các “ngân hàng dữ liệu điện toán biết mọi thứ”. Phải chăng đó là
một thời kỳ thích hợp để là một con người Chắc chắn là không thể được!
Đây chính là một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử loài người.
Trong cái kỷ nguyên đen tối này, sự minh triết của loài người đã bị
đánh cắp bởi vật chất. Chẳng ai còn có một sự minh triết nào để nói tới.
Sự thông minh cố hữu của con người đã bị thay thế bởi các sản phẩm và
đủ loại hàng hóa. Và một khi chúng ta đã mang vật chất thay thế cho sự
minh triết, bấy giờ con người sẽ trở nên trống rỗng, giống như những
thằng khờ. Sự khôn ngoan sẽ trở thành lỗi thời. Con người sẽ chẳng còn
phụng sự cho bất kỳ một chức năng hữu dụng nào. Hãy ghi nhận những điều
tôi nói: trong tương lai, con người sẽ trở nên thừa thãi. Quý vị có thấy
rằng đó là một vấn đề nghiêm trọng không? Hãy xét kỹ! Con người đang bị
làm cho trở nên vô dụng. Chẳng hạn, một số nhà khoa học vô đạo đức đang
bận rộn trong việc sáng tạo những quái vật kỳ diệu. Quý vị cho rằng sản
phẩm đó là có tính người ư? Chắc chắn nó không có tính người. Quý vị
cho rằng nó có tính thú vật chăng? Sản phẩm ấy cũng chẳng là thú vật. Vì
đám khoa học gia ấy cấy ghép những đơn vị di truyền của con người vào
trong thân thể của loài thú và làm biến đổi các đơn vị di truyền ấy
trong cơ thể những sinh vật thuần chủng của loài thú, sự biến đổi về di
thể hỗ tương như vậy sẽ tạo ra một giống lai tạp kỳ quái mang tính đột
biến về tế bào không hề giống cả bố lẫn mẹ.
Bấy giờ con người có thể sinh ra với những cái sừng trên đầu hoặc với
những cái vòi giống như vòi voi.Theo tôi, một người được sinh ra với
cái vòi của loài hậu bì sẽ giống yêu tinh hơn là giống người. Những
giống yêu tinh và quái vật như thế đang nằm trong phạm vi có thể có được
của thời đại ngày nay.
Hơn nữa, tầm mức của công nghệ đã vượt ra ngoài sự kiểm soát. Chỉ
trong vòng hai thế kỷ nữa mà thôi, điện thoại và các công cụ tương tự sẽ
hoàn toàn trở nên lỗi thời. Máy vô tuyến truyền hình và máy điện toán
cũng sẽ hoàn toàn biến mất. Tấm thân vật chất của từng con người một sẽ
chứa đựng sẵn những khả năng của các loại công cụ ấy. Chẳng một ai sẽ
phải mất công quay số hay bấm phím điện thoại. Con người sẽ chỉ cần phải
phát đi chuỗi số của người anh ta muốn gọi từ một hệ thống điện thoại
được cài đặt sẵn trong cơ thể, với những cần ăng-ten được định vị trong
cặp lông mày hay trong mái tóc chẳng hạn, trong khi kẻ được gọi cũng sẽ
tiếp nhận cuộc gọi nhờ vào một thiết bị được cài đặt sẵn trong cơ thể.
Đó là điều thật dễ dàng để thay cho một cuộc gọi bằng máy điện thoại.
Sẽ có người nghĩ rằng, “Thưa thầy, đó là câu chuyện kỳ cục nhất mà tôi từng được nghe”.
Được thôi, tôi yêu cầu quý vị hãy xem xét kỹ. Nếu như cách đây năm
trăm năm, quý vị tiên đoán,”Trong vòng năm trăm năm nữa, sẽ có máy bay,
máy vô tuyến truyền thanh và máy vô tuyến truyền hình” lúc ấy có bao
nhiêu người tin vào lời phát biểu của quý vị? Lúc ấy có lẽ mọi người đều
cho rằng quý vị là kẻ mất trí. Thế mà tất cả những phát minh đó nay là
chuyện hết sức thông thường.
Tại sao tôi đã phải nêu chủ đề này lên trước nhất? Vì chúng ta cần
phải nhận thức rằng những tiến bộ về khoa học và về những lợi ích vật
chất không nhất thiết là lúc nào cũng mang lại sự tốt đẹp cho nhân loại
về lâu về dài. Chúng chỉ là những lợi ích không hoàn thiện, không trọn
vẹn. Ngược lại, chính sự minh triết mới là lợi ích triệt để cho toàn thể
thế giới. Tư duy và thái độ dẫn xuất từ luân lý và đức hạnh mới thật sự
hoàn toàn tốt đẹp cho tất cả chúng ta. Tứ vô lượng tâm của Đức Phật bao
gồm từ, bi, hỷ và xả hoàn toàn có lợi cho hết thảy chúng sinh. Khi
chúng ta đặt tư tưởng của chúng ta trên nền tảng của Tứ vô lượng tâm,
khi đó chúng ta có thể tiến tới và thúc đẩy để công nghệ phải phục vụ
cho con người. Không hề có sự sợ hãi là chúng ta sẽ quên hẳn những khía
cạnh nên tảng của tính nhân bản, chẳng hạn, thân thể của chính mình. Nếu
thiếu từ bi hỷ xả, trong tương lai, con người sẽ quên hẳn rằng con
người đã từng trông như thế nào. Chẳng phải là tôi đang quở trách quý vị
đâu; lời tiên đoán trên chỉ là một sự thật lạnh lùng, khó chấp nhận.
Đó chính là cái cách để thế giới biến đổi. Điều tốt đẹp khi tới cực
độ sẽ chuyển thành điều tệ hại. Điều xấu ác, một khi đã đạt tới cực độ,
cũng chuyển thành tốt đẹp. Một kẻ nghèo tới mức cùng cực của sự nghèo có
thể bất ngờ phất lên, trong khi người giàu có thể mất đến đồng xu cuối
cùng chỉ trong vòng một đêm. Một khi đã được sinh ra, chúng ta đều là
những đứa trẻ yếu ớt nhỏ bé, nhưng chúng ta dần trưởng thành, trở nên
già nua, bệnh hoạn rồi chết. Đó chính là chu kỳ sinh trụ dị diệt quay
vòng trong cuộc đời. Đó chính là tiến trình tự nhiên của sự biến đổi
tuần hoàn mang tính cách tiến bộ. Một tiến trình của sự biến đổi tuần
hoàn có tính cách tiến bộ. Một tiến trình của sự chuyển hóa và biến
chuyển. Nếu chúng ta nhận thức được trạng thái ấy, khi đó việc làm giàu
không còn có sức mời gọi chúng ta nữa. Và nếu chúng ta bị mất mát tài
sản, bấy giờ chúng ta sẽ thấy mọi sự hệt như câu ngạn ngữ, “Quân tử
cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ (người quân tử dù gặp lúc cùng cũng
vẫn giữ trọn vẹn khí tiết của mình, kẻ tiểu nhân gặp lúc cùng thì bắt
đầu nghĩ chuyện bậy)”
Cho nên điều quan trọng trong thời đại điên rồ này là đừng đam mê, và
đừng quên điều gì đã làm thành một con người. Chúng ta phải giữ trong
tâm những mục tiêu và diện mạo nguyên thủy của giống người. Khi nói về ý
nghĩa của đời người, tôi có thể nói một cách thẳng thắn rằng những điều
lợi ích lớn nhất mà tôi đã gặp được trong toàn thể đời mình chính là
Sáu Nguyên Tắc của Vạn Phật Thành.
Nguyên tắc đầu tiên là “đừng tranh đấu”. Nguyên tắc
này được áp dụng một cách đơn phương. Chẳng phải là tôi sẽ bằng lòng với
tất cả mọi người. Nhưng bất kể quý vị chỉ trích tôi điều gì, tôi cũng
sẽ chấp nhận nó không chút ngần ngại. Quý vị có thể gán cho tôi bất kỳ
thuộc tính nào. Bảo tôi là con mèo nhỏ ư? Vâng, thì là con mèo nhỏ. Gọi
tôi là con chó à? Được thôi, tôi là con chó. Bất kể quý vị nhận thức về
tôi như thế nào trong tâm của quý vị, thì tôi chính là như vậy đó. Có
phải quý vị thấy tôi là một vị Phật không? ừ thì tôi là Phật. Có phải
quý vị thấy tôi là một vị Bồ-tát? Phải đấy, tôi là thế đấy. “Nhất thiết
duy tâm tạo”. Tôi là bất kỳ thứ gì mà quý vị tưởng tượng về tôi.
Nhưng về phần tôi, tôi có những mục tiêu và những đích nhắm để là một
con người. Những mục tiêu và những đích nhắm ấy là gì? Chỉ đơn giản là
không tranh đấu với con người, bất kể người đó là ai. Quý vị có thể gọi
tôi là gì tùy ý, và tôi sẽ mang theo cái nhãn ấy. Tôi sẽ chấp nhận cái
nhãn ấy, cái nhãn ấy sẽ là cái tôi là. Nhưng tôi không đồng ý với quý
vị.
Nguyên tắc thứ hai là “đừng tham lam.” Bất kỳ điều
gì quý vị sở hữu, nó là của quý vị. Tôi không khao khát nó. Và bất kỳ
thứ gì của tôi mà quý vị thích, tôi sẽ tặng quý vị. Tới mức tôi còn dâng
hiến nửa là khác. Khi tôi trao tặng, điều đó không giống như một vị Sa
môn tham lam ngày xưa, lúc nào cũng khuyên người khác, “Hãy bố thí, hãy
bố thí, hãy bố thí”, và luôn mồm nói những lời vô vị rằng,”Kẻ xuất gia
không cầu xin của cải, nhưng có càng nhiều càng tốt”. Bất kỳ người bạch y
cư sĩ nào cũng hy vọng người ta sẽ bố thí cho vị sa môn ấy, nhưng chính
vị sa môn ấy lại không nghĩ đến việc phải rộng lượng đối với người
khác. Đó chính là một thái độ sai lầm mà chúng ta nên tránh.
Về nguyên tắc “đừng mong cầu”, thì nó có nghĩa là
đừng tìm kiếm cơ hội để vớ bở hoặc để có được một khoản lợi nhuận bất
ngờ. Mọi người trong cuộc đời đều tranh đấu về lợi thế. Nếu chúng ta
hiểu được nguyên tắc đừng mong cầu, và bằng lòng với điều mình có, khi
ấy chúng ta sẽ chẳng phải tranh đấu với ai nữa làm gì. Một số người nắm
vững điều này thực sự hiểu đúng Sáu Nguyên Tắc. Tại sao chúng ta không
mong cầu? Bởi vì chúng ta không muốn trở thành kẻ ích kỷ. Lý do duy nhất
buộc một người phải mong cầu vật chất là vì có tính ích kỷ. Khi đã
không thấy có bản ngã, chẳng có lý do gì để phải mong cầu. Và khi được
giải phóng khỏi lòng ích kỷ, con người sẽ không chạy theo những lợi ích
cá nhân.
Có hai nguyên tắc liên quan với nhau; đó là “đừng ích kỷ” và “đừng tự lợi”. Không
ích kỷ sẽ tạo điều kiện để không mong cầu những lợi thế cá nhân. Không
tự lợi sẽ không chạy theo lợi ích của riêng mình mà bỏ qua lợi ích của
người khác. Hai nguyên tắc này có vẻ giống nhau nhưng thực sự chúng có
những ý nghĩa khác biệt rõ rệt.
Nguyên tắc cuối cùng là “đừng dối trá”. Lý do duy
nhất khiến một người phải nói dối là vì sợ hãi; người ấy sợ đánh mất
những lợi thế ích kỷ của mình. Sự sợ hải đó thúc đẩy người ấy chỉ trích
tất cả mọi người khác, luôn luôn nói rằng, “Tất cả các ông đều sai, chỉ
có mình tôi đúng”. Tại sao người ấy lại có cảm nghĩ như vậy? Vì anh ta
sợ sẽ để mất những lợi ích của mình vào tay người khác. Những người
không khao khát lợi ích cá nhân thường chẳng có lý do gì để dối trá.
Cuối cùng, ta có thể hỏi thêm, dù sao đi nữa thì sự dối trá có giá trị
gì?
Nếu có thể hiểu đúng Sáu Nguyên Tắc trên, khi đó quý vị sẽ biết là một con người thì có ý nghĩa gì.
Nếu quý vị không hiểu được Sáu Nguyên Tắc ấy, bấy giờ quý vị cứ bám
theo sát gót với cuộc tranh đấu quyết liệt của thời đại điên rồ này. Bao
lâu mà quý vị còn trôi lăn với trào lưu của sự mất trí này, quý vị cũng
chỉ là một con người điên rồ nào đó, cũng dại dột chẳng khác gì người
kế cận.
Đó là thông điệp của tôi gửi đến tất cả quý vị hôm nay. Tôi hy vọng
trong số quý vị, những người trẻ đã nghe tôi sẽ không mất trí.Trong số
quý vị, những người lớn tuổi tiếp tục duy trì được sự tỉnh táo của mình,
ở đây, trẻ em cũng có thể học tập cùng với người trưởng thành. Hãy học
tập để đừng trở nên mê đắm. Tôi vẫn thường nói, “Mọi chuyện đều tốt đẹp
cả, chẳng có vấn đề gì”.
Ở đây có một vấn đề nhỏ cần nói thêm. Đừng hoảng hốt khi quý vị nghe
tôi nói rằng máy vô tuyến truyền thanh, máy vô tuyến truyền hình và máy
điện toán là những loại yêu tinh ăn thịt người. Không cần phải sợ hãi.
Tôi hy vọng rằng quý vị sẽ nhận thức cụ thể về những công cụ ấy theo
đúng thực chất của chúng. Một khi quý vị đã nhận biết chúng, bấy giờ
những thứ dụng cụ điện tử ấy đã mất cái năng lực làm cho quý vị phải
lúng túng. Biết như vậy là đủ rồi. Nhưng nếu quý vị còn bối rối về
chúng, khi ấy chúng có thể nhai nuốt quý vị thật.
Cùng nguyên lý này cũng được áp dụng cho cái đẹp. Nếu hình ảnh của
một gương mặt đẹp có năng lực gây bối rối cho quý vị, bấy giờ quý vị đã
bị ăn tươi nuốt sống bởi một thứ ăn người. Nếu việc thấy đồng tiền làm
cho quý vị bối rối, khi đó quý vị cũng đã bị nhai nuốt bởi một thứ ăn
người. Nếu mục đích của quý vị là thiết lập một danh tiếng vĩ đại và sự
nổi tiếng làm quý vị phải bối rối, quả thật quý vị đã bị nhai nuốt bởi
con yêu tinh danh vọng. Nếu thức ăn làm quý vị quay quắt, mặc dù quý vị
có cảm giác là mới thưởng thức một món ăn ngon, thực ra, thực phẩm đã
nhai nuốt quý vị. Thực phẩm đã nhai nuốt tâm thức của quý vị, hay nói rõ
hơn, Pháp thân của quý vị. Nó đã nuốt sạch trí tuệ của quý vị, và bỏ
mặc cho quý vị ngốc nghếch đến mức nào có thể.
Nếu giấc ngủ có thể giữ quý vị trong trạng thái ngẩn ngơ suốt vài thế
kỷ, và khi cuối cùng tỉnh giấc nhìn đồng hồ đeo tay quý vị nhận ra đã
quá nửa đêm, và nếu bấy giờ quý vị cũng lại lăn qua một bên rồi ngủ
tiếp, thì có nghĩa là quý vị vừa bị nhai nuốt bởi giấc ngủ. Có phải vậy
không nào?
Trần Khiết Bách dịch
Nguồn: Vajra Bodhi Sea: A Monthly Journal of Orthodox Buddhism, July, 2000. ■
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 101