tham nhũng xuất hiện từ khi có giai
cấp và nhà nước. Ngoài ra, còn kéo theo hàng loạt những hiện trạng
khác như vô cảm, bất công, gian dối, băng hoại lối sống và đạo đức.
Ðiều này không nói thì mọi người cũng thấy quá rõ…
Từ thực
trạng của xã hội như trên, trong kinh, Phật đã dạy về đạo đức cho
một quốc gia hưng thịnh, một xã hội thái bình, mà ngẫm ra, đến nay
vẫn còn giữ nguyên giá trị.
Phật quan
niệm quốc gia bao gồm dân chúng và quốc vương. Ðiều này, chí ít,
Phật giáo quan niệm quốc gia không phải của ông vua như Nho giáo và
những tư tưởng bị ảnh hưởng Nho giáo. Rất tiếc, ngày nay, nhất là
các cấp cơ sở, không ít người hiểu về cơ quan, đơn vị mình theo tinh
thần như vậy!
Trước hết,
nói về dân. Một trong những chuẩn mực đạo đức để cho một xã hội,
một quốc gia hưng thịnh là dân chúng phải đoàn kết, thương yêu, tôn
trọng lẫn nhau, đồng thời tôn trọng truyền thống và luật pháp. Vấn
đề này, trong kinh Ðại bát Niết bàn (kinh Trường bộ), nhân
chuyện vua nước Magadha là Ajatasattu muốn xâm lược nước Vajjì, nên cho
đại thần Vassakara đến hỏi Phật.
Phật đưa ra 7
điều và hỏi Ananda trước mặt Vassakara, nội dung như sau:
1. Ngày
nào mà dân chúng thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau.
2. Ngày
nào mà dân chúng thường hay tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán
trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết.
3. Ngày
nào mà không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ
những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống đã được
ban hành thuở xưa.
4. Ngày
nào mà dân chúng tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc
trưởng lão.
5. Ngày
nào mà dân chúng không cướp bóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu
nữ.
6. Ngày
nào mà dân chúng còn tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các
miếu tự ở trong và ngoài tỉnh thành, không bỏ lễ đã cúng từ trước,
đã làm từ trước đúng với quy pháp.
7. Ngày
nào mà dân chúng bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp với các vị
A-la-hán ở tại nơi mình, khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong
xứ, và những vị A-la-hán đã đến sẽ sống an lạc.
Cuối cùng
Phật kết luận:
“Này
Vassakara, khi nào bảy pháp bất thối được duy trì giữa dân Vajjì, khi
nào dân chúng Vajjì được giảng dạy bảy pháp bất thối này, thời dân
Vajjì sẽ cường thịnh, không bị suy giảm”(1).
Nghe xong,
Vassakara chắp tay bạch Phật rằng: Chỉ cần dân chúng Vajjì giữ trọn
một điều thôi thì nước Magadha
cũng không dễ gì xâm lược được!
Như vậy,
người ta thấy ngay rằng, sức mạnh của một đất nước bắt nguồn từ sự
tôn trọng công lý và đoàn kết thành một khối thống nhất. Ðây cũng
là điều mà Nguyễn Trãi nhận xét về sự thất bại của nhà Hồ, cho
nên: “Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa”
(Thuận cơ trời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng thuận lòng dân)(2).
Thứ đến, muốn cho một xã
hội an bình, cường thịnh còn phải có vai trò của người đứng đầu.
Ðương thời, Phật nhìn thấy rất rõ về bối cảnh chính trị, kinh tế,
xã hội và Ngài chứng minh rằng: Toàn thể xứ sở có thể trở thành
đồi trụy, thối nát và bất hạnh, nếu vua quan đều thối nát và bất
công. Theo Phật, muốn cho một quốc gia hạnh phúc phải có nền chính
trị công bằng, mà phần cốt tử đóng góp cho sự công bằng là từ đời
sống đạo đức, sống thiện của người cầm đầu. Do vậy, Ngài thuyết Thập
vương pháp với nội dung:
1. Là
sự rộng rãi, bố thí, bác ái. Người cai trị không được thèm khát
và bám víu vào tài sản, tiền của mà phải bố thí cho dân tộc no
ấm.
2. Phải
có một đức tính cao đẹp. Làm vua không bao giờ được sát hại, lừa
bịp và bóc lột kẻ khác, tà dâm, nói lời sai quấy, rượu chè. Ðiều
này có nghĩa là, chí ít ông vua cũng phải giữ năm giới của nhà Phật.
3. Hy
sinh tất cả vì hạnh phúc của dân chúng. Ông vua phải sẵn sàng từ
bỏ mọi tiện nghi cho cá nhân mình, tên tuổi danh vọng và ngay cả sự
sống của mình vì lợi ích của dân.
4. Trực
hạnh. Ông vua phải xa lìa sự sợ hãi và thiên vị khi thi hành công
vụ, phải thật trong ý định và không được lừa bịp dân chúng.
5. Khổ
hạnh. Ông vua phải sống một cuộc đời giản dị, không được xa hoa,
đồng thời phải biết chế ngự bản thân mình.
6. Nhu
hòa. Ông vua phải có tính tình hòa nhã.
7. Không
thù hằn ác độc. Ông vua không được có tư thù và tâm địa độc ác
với bất cứ ai.
8. Bất
hại. Ông vua không làm hại ai mà còn phải cố tạo hòa bình bằng
cách tránh và ngăn ngừa chiến tranh hay sự dính dáng đến bạo động,
sát hại chúng sinh.
9. Nhẫn
nại. Ông vua phải chịu đựng khó khăn, khổ cực và những sự nhục
mạ mà không mất bình tĩnh.
10. Không
đối lập, không ngăn cản. Ông vua không được đi ngược với ý chí của
toàn dân, không được ngăn cản bất cứ biện pháp nào đưa đến sự lợi
lộc cho toàn dân. Nói cách khác là ông vua phải cai trị thuận với ý
chí của dân tộc(3).
Ngoài ra, trong kinh Kùtadanta (kinh Trường
bộ, tập III), Phật còn dạy rằng, các hình phạt sẽ không hữu
hiệu, không thành công, không công bằng và lợi ích bằng việc cải
thiện kinh tế…
Như vậy,
nội dung chủ yếu của Thập vương pháp là Phật muốn ông vua phải
sống có đạo đức ít ra là với tinh thần vô ngã. Ðiều này cũng
giống như muốn cho quốc thái dân an thì ông vua, mà mở rộng ra là
người cai trị phải công minh, chính trực. Ðó cũng là ý tứ câu “chính
giả, chính dã” (người làm chính trị thì mình phải chính) của
Khổng Tử, câu “dĩ chính trị quốc” (lấy ngay thẳng mà trị
nước) của Lão Tử. Nếu người cai trị mà tâm địa hẹp hòi, đố kỵ, tư
lợi, thiên vị, sống không công bằng, hưởng lạc, trác táng... thì đó là
nguy cho nước.
Thâu tóm
những tư tưởng trên, Thiền sư Pháp Thuận (?-990) có hiến kế cho vua Lê
Ðại Hành một phép trị nước lừng danh trong lịch sử Việt Nam. Ðó là,
“vô vi cư điện các; xứ xứ tức đao binh” (tạm dịch: ông vua cai
trị phải sống với tinh thần vô tư, vô vi, thực chất là vô
ngã thì khắp nơi không có cảnh đao binh, loạn lạc). Ðây là bài
học cho những người cầm cân nảy mực ở các cấp công quyền suy ngẫm!
Với tinh
thần nhân bản lớn, Phật giáo còn đóng góp cho một nền hòa bình trên
trái đất, Niết-bàn giữa trần gian. Theo Phật, tất cả những cuộc chiến
tranh, tất cả những điều nhiễu nhương… trong xã hội, suy cho cùng đều
do cái tâm hữu ngã của con người loạn động từ tham, sân, si mà
ra, đồng thời không bao giờ hận thù có thể xóa được hận thù. Nếu
con người hữu minh từ bỏ tam độc đó bằng cách dứt trừ tâm ác,
tinh tấn tâm thiện, tâm vô ngã thì sẽ góp phần đem lại hòa bình cho
dân tộc và trên trái đất. Từ lẽ đó, cũng có thể rút ra nhận xét
rằng: cái tâm của con người bẩn và loạn là tác nhân cho một xã hội
bẩn và loạn, cái tâm của con người an tịnh và trong sạch thì xã hội
sẽ yên bình, lành mạnh và trong sáng. Do vậy, con đường đạo đức của
Phật giáo là xây dựng cái tâm ổn định, bất hại, an lạc và từ bi cho
từng người, từng loại người, cho nên tự thân giáo lý Phật giáo nổi
bật sắc thái của từ bi, bất hại, bất sát, bất đạo. Ðó cũng là
sắc thái của giáo lý hòa bình, an lạc và điều này được gói gọn
trong lời dạy của Ðức Phật: Từ bỏ mọi điều ác, làm mọi điều
lành, giữ tâm ý trong sạch (kinh Pháp cú, kệ 183).
Có một
điều phải bàn thêm, luật pháp và đạo đức, cả hai đều trực tiếp tác
động đến hành vi của con người; chỗ khác nhau cơ bản là: sức mạnh
của luật pháp nằm ở việc thực thi các điều luật do nhà nước thống
trị ban hành, còn sức mạnh của đạo đức nằm ở dư luận xã hội. Thông
thường, cứ chỗ nào, khi nào đạo đức bất lực thì luật pháp lên tiếng.
Nhưng, luật pháp bất lực thì sao? Trong xã hội, đây là cái mầm của
loạn!
Bàn về vấn đề này, Phật giáo dựa vào
một trong những cơ sở rất vững chắc để xây dựng một hệ thống đạo
đức. Ðó là thuyết Nghiệp, nó được triển khai từ luật Nhân-quả
của cùng học thuyết. Theo Phật giáo, luật Nhân-quả là một
luật hiển nhiên trong cuộc sống, đồng thời, không ít các hệ tư tưởng
khác cũng thừa nhận.
Cũng theo
Phật giáo, thuyết Nghiệp giải thích tất cả từ cấu tạo thân
thể cho đến hạnh phúc, bất hạnh... của từng chúng sinh cụ thể. Quan
tòa của mỗi chúng sinh là do cái nghiệp của mình, bắt đầu từ sự
tác ý của mình. Ðây là quy luật có giá trị khách quan và công bằng.
Do vậy, con người hay cái ta của Phật giáo, thực chất là Nghiệp
báo, cho nên con người của Phật giáo là con người của hành động -
hành thế nào nhận thế ấy. Theo tinh thần đó, Phật tuyên bố: “Ta
là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng,
nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ
làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy”(4).
Rõ ràng,
đây là một luật nghiêm khắc và sòng phẳng, cho nên Lão Tử nói: “Lưới
trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt”. Con người để lại đằng
sau những hành động của mình, dấu ấn được ghi hết sức tỉ mỉ, không
có chuyện nhầm lẫn và sai sót. Người ta gieo nhân nào, sẽ gặp quả
ấy, còn thời gian vay trả phụ thuộc vào quả dị thục (chín), nhưng
trước sau cũng không thoát được. Cũng vì lẽ này, Phật có nói: “Kẻ
phàm phu không tri giác nên đi chung với cừu địch một đường. Cũng thế,
những người tạo ác nghiệp nhất định cùng ác nghiệp chịu khổ báo”(5).
Chính đây
là sức mạnh, một lời cảnh báo, là quan tòa cho chính mình và thực
tế đã chứng minh rằng: ngày càng có nhiều trường hợp nhân quả nhãn
tiền, cho nên Bồ tát thì sợ nhân, chúng sinh thì sợ quả! Ðây
là giá trị đáng trân trọng của tư tưởng Phật giáo.
Như vậy, trên cơ sở của
thuyết nghiệp, Phật muốn trước hết con người phải làm thiện
từ tâm, thân, khẩu, chính cái này đem lại hạnh phúc cho mình,
cho người và cho xã hội. Rồi sau đó, hành giả buông xả tất cả theo tinh
thần vô ngã để tiến tới bờ mé của sự giải thoát viên mãn.
Tiến sĩ TẠ
CHÍ HỒNG
(Ðại học Ðà Lạt)
---------------------
(1). Kinh Trường bộ, tập
1, bản dịch của Thích Minh Châu, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn
hành 1991, tr.545.
(2). Triệu Anh Dung, Hán học
danh ngôn, Nxb.Ðồng Nai
1995, tr.234
(3). Ðọc Walpola Ràhula, Tư
tưởng Phật học, bản dịch của Thích nữ Trí Hải, Ban Tu thư Ðại
học Vạn Hạnh, Sài Gòn 1974, tr.140-142; Thích Chơn Thiện, Phật học
khái luận, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành,
tr.134-135.
(4). Kinh Tăng chi bộ,
tập II, bản dịch của Thích Minh Châu, Viện Nghiên cứu Phật học Việt
Nam ấn hành 1996, tr.425.
(5). Kinh Pháp cú, bản
dịch của Thích Thiện Siêu, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành
1993, tr.25-26.