Hòa Thượng Quảng Khâm
HT Quảng Khâm & HT Tuyên Hóa
Kinh Hoa-Nghiêm
dạy rằng: "Chúng sanh như người bệnh, Thiện-tri-thức như bác-sĩ, lời dạy của
Thiện-tri-thức như thuốc hay. Thuốc hay thì đắng, song trị lành được bệnh."
Bởi vậy, trong
tập Cẩm-Nang này, bạn sẽ thấy mỗi lời dạy của Ngài đều vô cùng sâu sắc, trực
tiếp song đơn giản; ngắn gọn, dễ hiểu mà hàm súc. Ðây là điểm then chốt dị biệt
giữa lời nói của người đã ngộ Ðạo và kẻ chưa tỉnh giác.
Kẻ còn mê muội
thì cần lời giảng cao xa, sâu sắc, dùng trò chơ trí thức chữ nghĩa, song thiếu
thực dụng nội tại. Những lời dạy của Hòa-Thượng Quảng-Khâm là những lời mà không
ai có thể bắt chước đặng, bởi vì những lời ấy được lưu xuất từ một nội tâm thâm
chứng và một cuộc đời chân thật thực nghiệm, "sống" trong sự thâm chứng ấy mỗi
ngày. Ngài chỉ ăn một bửa ngọ và chỉ ăn trái cây; ngủ thì ngủ ngồi; áo mặc thì
chỉ một vài bộ. Ngài rất ít lời, không nói chuyện dông dài, bàn luận thế sự tạp
nhạp. Cả đời, vật sở hữu của Ngài hoàn toàn không! Chẳng có xe hơi, chẳng có
trương mục ngân hàng hay thẻ tín dụng, nhà riêng, Tivi, tủ lạnh, radio.... tất
cả Ngài đều không có. Chính bởi vì, và chỉ có, cuộc sống rỗng không như vậy nên
Ngài mới thực sự an trụ trong cảnh giới Chân Không của tự tâm. Ðây thật là điều
quý báu để chúng ta, kẻ hậu học, nhất là người xuất gia, phản tỉnh và thức tỉnh.
Ðối tượng trọng
tâm của tập Cẩm-Nang này là người xuất gia, song hoàn toàn ứng dụng cho kẻ tại
gia. Khi đọc Cẩm-Nang, bạn hãy hình dung như có một vị Tăng già hiền từ, chín
mươi tuổi ngoài, đang nói chuyện cùng mình vậy.
Sách này, đọc
là để áp dụng; đây không phải là tiểu thuyết; truyện, hay sách nghiên cứu để
tăng kiến thức. Khi được đọc để áp dụng như thuốc lành trị bệnh hay như gậy đỡ
chân, thì tập Cẩm-Nang này sẽ giúp chúng ta đổi cái nhìn, sửa thói hư tật xấu,
trừ suy nghĩ lầm lẫn, hướng dẫn bước tu đúng đắn. Khi đó, ánh sáng bất tận của
Chánh Pháp sẽ chắc chắn tràn ngập nơi nơi - trong tâm bạn và những gì quanh bạn.
Tiểu Sử Hòa Thượng Quảng Khâm
Hòa-Thượng
Quảng-Khâm sinh vào đời nhà Thanh, năm Quang-Tự thứ 18 (1892). Ngài họ Hoàng,
tên tục là Văn-Lai, quê ở Phúc-kiến, Trung-Hoa.
Gia đình Ngài
rất nghèo, đến độ anh ruột Ngài không có đủ tiền để cưới vợ. Năm Ngài bốn tuổi,
vì không đủ sức nuôi dưỡng Ngài, cha mẹ Ngài phải đem Ngài bán làm con nuôi cho
gia đình họ Lý ở Tấn-giang. Hai ông bà họ Lý là người rất tốt, cả đời sống bằng
nghề trồng trọt. Họ thương yêu Ngài như con ruột vậy. Bà Lý là người tin Phật
sâu xa, suốt đời trường trai. Bà thường đem Ngài lên chùa cầu nguyện bởi từ nhỏ
Ngài thường bệnh hoạn, thân thể yếu ớt.
Năm Ngài chín
tuổi, bà Lý qua đời; hai năm sau dưỡng phụ Ngài cũng nối gót từ trần, khiến Ngài
bỗng chốc trở thành cô nhi. Bấy giờ, bà con họ hàng ai nấy đều tranh dòm, chờ
chực để chiếm đất đai ruộng vườn, tài sản của gia đình họ Lý để lại. Ðiều ấy
khiến Ngài, một trẻ thơ, cảm nhận sâu xa mùi vị chua chát của thói đời và tánh
vô thường của mọi sự. Trong đầu Ngài nảy sinh ý niệm thoát trần: Ngài đem hết
của cải đất đai nhường lại cho bà con, rồi một mình tìm tới Chùa Thừa-Thiên ở
Phúc-châu xin xuất gia.
Bấy giờ, phương
trượng Chùa Thừa-Thiên là Hòa-Thượng Chuyển-Trần, dạy Ngài quy-y, tu Khổ-hạnh
với Thầy Thụy-Phương. Ngài được phân phối cho việc lao tác, trồng rau, nhổ cỏ....;
đây là những việc công quả tập sự dành cho người muốn xuất gia.
Ðến năm 19 tuổi,
do nhiều nhân duyên đặc biệt, Ngài đã qua Nam-Dương. Ở đây, vì không có trình độ
học vấn nên Ngài phải làm việc lao động chân tay. Một hôm, nhân cùng đồng bạn
lên núi đốn củi, Ngài nói với bạn về trực giác linh cảm của mình rằng chiếc xe
vận tải chở củi sẽ lật ở dốc núi, nhưng không ai tin. Không lâu, chiếc xe quả
nhiên bị lật thật. Ðiều này khiến bạn Ngài ngạc nhiên, bảo rằng: "Có được trực
giác như vậy sao anh không chịu tu hành, phát triển tâm linh, sau này độ thế?"
Nghe qua, Ngài như chợt tỉnh, liền đáp thuyền về lại Trung-Hoa. Bấy giờ Ngài đã
35 tuổi, sau gần 16 năm sống ở Nam-Dương.
Về lại Chùa
Thừa-Thiên, Ngài chính thức xuống tóc, lạy Hòa-Thượng Thụy-Phương làm Thầỵ
Pháp-danh của Ngài là Chiếu-Kính, tự Quảng-Khâm. Sau khi xuất gia, Ngài chuyên
chú tu Khổ-hạnh, ăn những thức không ai thèm ăn, làm những việc không ai chịu
làm, thường luôn ngồi Thiền, một lòng niệm Phật. Có một thời gian Ngài giữ trách
nhiệm Hương-đăng (thắp nhang, quét tước điện Phật) và đánh bảng thức chúng mỗi
sáng. Nhiều lần Ngài ngủ say quá nên trễ nãi việc đánh bảng. Ðiều này khiến Ngài
vô cùng hổ thẹn, sám hối sâu xa trong lòng, rồi từ đó lập chí ngủ ngồi.
Năm 1933, sau
sáu năm làm Sa-di tu Khổ-hạnh, bấy giờ Ngài mới đi cầu thọ giới Tỳ-khưu nơi
Hoà-Thượng Diệu-Nghĩa, Chùa từ-Thọ, Phủ-điền. Thọ Giới rồi, Ngài liền xin phép
Phương-Trượng Chuyển-Trần đi ẩn tu; lúc ấy Ngài vừa đúng 42 tuổi. Bấy giờ, một
thân một mình, với ít áo quần và hơn 10 ký gạo. Ngài nhắm núi Thanh-lương, tỉnh
Tuyền-châu, tiến bước. Nơi ấy, ở giữa sườn núi, Ngài tìm thấy một thạch động đủ
rộng để an thân tu Ðạo. Ðộng này vốn là nơi mãnh hổ thường lui tới; thế nhưng
khi gặp hổ, Ngài chẳng hãi sợ. Ngài bảo cho chúng biết ý định muốn dùng động này
để tu hành và khuyên chúng hãy tìm nơi khác. Lạ thay, hổ như hiểu ý Ngài, rõ lời
người. Ngài lại vì hổ mà thuyết Tam Quy-y; hổ nghe rồi vẫy đuôi đi mất. Không
lâu sau, hổ ấy đem bầy hổ lại: nào hổ mẹ, hổ con... đùa giỡn, gần gủi với Ngài
như gia súc vậy. Bởi thế, sau này người dân quanh đấy gọi Ngài là Phục Hổ
Hòa-Thượng.
Bấy giờ,
Hòa-Thượng ở sơn động ngày ngày tọa Thiền, niệm Phật; chẳng bao lâu lương thực
cạn sạch, Ngài bèn hái trái cây rừng để ăn. Trong núi, ngoài hổ còn có khỉ, vượn.
Bọn ấy, lạ thay, thường hay đến động; chúng lại đem cả hoa quả cây trái lại cúng
dường Ngài nữa!
Hòa-Thượng
thường hay nhập Ðịnh. Có lần Ngài nhập Ðịnh đến vài tháng, không ăn uống, không
động đậy thân thể; thậm chí hơi thở dường như dứt tuyệt. Có người gần đấy thấy
vậy thì lầm tưởng rằng Ngài đã viên tịch, nên tức tốc cấp báo với Hòa-Thượng
Chuyển-Trần để lo việc hỏa táng. May thay, lúc ấy có vị cao-tăng là Ðại-Sư
Hoằng-Nhất đang ở chùa gần đấy, nghe được tin trên bèn cùng Hòa-Thượng
Chuyển-Trần lên núi xem hư thực. Tới nơi, Ðại-Sư Hoằng-Nhất biết Ngài đang nhập
Ðịnh, liền gõ ba tiếng khánh, đánh thức Ngài dậy từ trạng thái Thiền-định. Tin
Ngài nhập Ðịnh lan truyền khắp nơi khiến ai ai cũng tán thán.
Tháng ngày qua
như tên bắn, thấm thoát Hòa-Thượng đã ở trên núi Thanh-lương được 13 năm. Bấy
giờ Ngài, đã 54 tuổi (1945), trở về Chùa Thừa-Thiên. Hai năm sau, 1947, Ngài rời
Ðại-lục, đáp thuyền tới Ðài-loan. Ở đây, bắt đầu quãng đời hoằng Pháp của Ngài:
- 1948, Ngài
xây một ngôi chùa nhỏ ở Ðài-bắc, tên là Quảng-Minh Tự.
- 1951, xây
Quảng-Chiếu Tự.
- 1952, Ngài
tìm thấy một thạch động ở núi Thành-phước rất đặc biệt: khi mặt trời và mặt
trăng mới mọc thì ánh sáng chiếu thẳng vào cửa động. Bởi thế, Ngài đặt tên là
Nhật-Nguyệt Ðộng và quyết định ở đấy ẩn tu. Nơi ấy xưa nay vốn không có nước,
song từ khi Ngài vào ở bỗng có một suối nước mát tự nhiên vọt lên kế bên. Trên
đỉnh núi ấy, Ngài dựng một chòi tranh để ở. Một đêm nọ, có con trăn khổng lồ bò
lại chòi tranh cầu Pháp; Ngài liền vì nó thuyết Pháp và truyền Tam Quy-y.
- 1955, tín đồ
ở Ðài-bắc cúng dường Ngài một cuộc đất do hỏa sơn tạo nên; Ngài bèn xây
Thừa-Thiên Tự ở đó.
- 1963, Ngài
hưng kiến Tường-Ðức Tự; xây Quảng-Long Tự ở núi Long-tỉnh.
Ðến năm 1964,
Ngài đã ở Ðài-loan được 17 năm. Trong suốt thời gian ấy, Ngài đã nhập định ba
lần và mỗi lần lâu hơn cả tháng. Hằng ngày, Ngài chỉ ăn một bửa và chỉ ăn trái
cây; Ngài không ăn đồ nấu nướng hay chiên xào gì cả. Vì vậy, tín đồ gọi Ngài là
Thủy-Quả Hòa-thượng - Ông Thầy Ăn Trái Cây - Trừ khi trời mưa, thường thì mỗi
đêm Ngài đều ngồi tọa Thiền cho tới sáng ở ngoài vườn hay trong rừng, chứ không
ngủ trong phòng như kẻ khác. Ðấy là những công hạnh đặc biệt của Ngài.
Năm Ngài 80
tuổi, có lần Ngài biểu thị cho Ðại-chúng biết ý định "Xả Báo" - nhập Ðịnh - của
Ngài. Lúc ấy các đệ tử vô cùng khẩn thiết, cầu xin Ngài tiếp tục từ bi trụ thế.
Bấy giờ Ngài vì tùy thuận chúng sanh nên trì hoãn việc nhập Ðịnh, tiếp tục công
cuộc độ sinh. Từ ấy Ngài đi Nam-đầu, Ðài-trung, Gia-nghĩa, Hoa-liên, v.v...
hoằng Pháp độ chúng.
Ðến năm 84 tuổi,
Ngài bắt đầu cấm túc, ở luôn tại chùa Thừa-Thiên trên núi Thanh-lương không còn
xuống núi nữa. Công cuộc xây chùa vẫn tiếp tục, song do các đại đệ tử của Ngài
chủ động: trùng tu Chùa Thừa-Thiên, xây Quảng-Thừa Nham (1974), Diệu-Thông Tự
(1982).
Năm Ngài 94
tuổi (1985), Ngài chủ trì Tam Ðàn Ðại Giới, truyền giới cho hơn 2.500 vị Tăng,
Ni và cư sĩ; tạo thành một Pháp-Hội trang nghiêm vĩ đại nhất ở Ðài-loan lúc bấy
giờ.
Bấy giờ tuy đã
gần kề trăm tuổi, Ngài vẫn sống rất đơn giản, đạm bạc; lời nói của Ngài bình dị,
khiêm nhường; bước đi của Ngài vẫn vững chãi, không cần dùng tới gậy chống,
không nhờ người đỡ taỵ Nếu ai gặp Ngài lúc ấy sẽ thấy thân Ngài vô cùng nhẹ
nhàng, linh hoạt; động tác thanh thoát. Ngài vẫn y nhiên ngủ ngồi, không nằm; và
vẫn ngồi ngoài vườn lộ thiên tĩnh tọa mỗi đêm. Bấy giờ thức ăn trái cây của Ngài
phải được nghiền thành chất lỏng để dễ ăn.
Cuối năm 1985,
Ngài trở về Chùa Thừa-Thiên. Ngài thị hiện có bệnh; cự tuyệt mọi thứ ẩm thực,
thuốc men; cũng không tiếp kiến tín đồ.
Ngày Tết
Nguyên-đán năm ấy, 1986, Ngài triệu tập tất cả đệ tử ở các chùa và tu viện khắp
nơi lại để phú chúc, phân phối hậu sự. Ngài chỉ bảo việc hỏa táng, phân chia
linh cốt tại Thừa-Thiên Tự, Quảng-Thừa Nham, và Diệu-Thông Tự, đồng thời trả lời
mọi nghi vấn của tín chúng.
Sáng ấy, sau
giờ thọ trai, Ngài quyết định xuống Diệu-Thông Tự ở Cao-hùng.
Hôm sau, mồng
hai Tết, khí lực của Ngài vô cùng suy nhược.
Mồng ba Tết,
thể lực của Ngài bình phục. Ngài cùng đại chúng lên điện niệm Phật. Ngài lại nói
chuyện một cách thong dong tự tại với các tín đồ đệ tử; tinh thần vô cùng sáng
suốt và lạc quan như không có chuyện gì xảy ra.
Sáng mồng bốn
Tết, Ngài gọi tất cả đệ tử cùng Ngài ra bên ngoài điện đón nắng. Ngài nói với
một đệ tử, Thầy Truyền-Văn, rằng: "Ngươi được rồi đấy; song bọn họ - đại chúng -
còn chưa xong đâu!"
Mồng năm Tết (ngày
13 tháng 2 năm 1986), Ngài ngồi xếp bằng yên định, tinh thần hòa hoãn, chẳng
chút xao động; rồi dạy các đệ tử đồng thanh niệm Phật.
Vào hai giờ
chiều hôm ấy, Ngài bảo đại-chúng: "Vô lai vô khứ, một hữu sự!" (chẳng đến chẳng
đi, chẳng việc gì); rồi nhìn đại-chúng gật đầu, mỉm cười. Không lâu sau, đại
chúng thấy Ngài ngồi yên bất động liền đến bên quan sát kỹ, mới hay Ngài đã an
nhiên theo tiếng niệm Phật, viên tịch rồi.
Nhìn lại cả đời
Ngài, xuất thân tuy nghèo khổ song bản tánh tự an, ngay thật, bình dị; đến khi
xuất gia, Ngài thật sự buông bỏ vạn sự, chân thành ẩn tu, thực hành đủ thứ
khổ-hạnh gian khó. Bởi nhân địa chân thật như vậy, nên kết quả là cảm ứng bất
khả tư nghị - sau khi xuống núi, tới Ðài-loan hoằng dương Phật Pháp, Ngài đã
tiếp độ không biết bao nhiêu chúng sanh, từ người đến thú, từ dương giới đến âm
giới, từ hữu tình đến vô tình... Và, nhất là sự viên-tịch vô cùng tự do tự tại
của Ngài - một minh chứng hùng hồn nhất về sự diệu kỳ của Phật Pháp, cũng như về
khả năng thành tựu sự giải thoát, đạt Ðạo của những bậc chân tu, thật hành.
Thầm nguyện
Hòa-Thượng sẽ không xả bỏ đại nguyện, tiếp tục chèo thuyền từ bi trở lại cõi này
để không ngừng đưa lớp lớp chúng sanh tới bờ bên kia, đến nơi an ổn, vô úy, vô
ưu não!
Chương I: Tu Hành
1. Tu Hành:
Tìm Lại "Bản Lai Diện Mục"
Pháp môn mà
ta tu học là pháp Vô-thượng, là Pháp chẳng có hình tướng gì, bởi vì nó là pháp ở
trong tâm.
Xuất gia tu
hành là vì mục đích tìm lại bản lai diện mục - khuôn mặt thật của mình trước khi
được cha mẹ sanh ra. Khi các bạn chưa sáng tỏ việc này thì trí huệ chưa khai mở;
cũng giống như mặt trăng bị mây đen che kín, không thể hiển xuất quang minh được.
Tu đạo là vì
giải thoát, không bị chìm đắm trong luân hồi. Coi bạn có thể tu đến chỗ Ngũ Uẩn
(Sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều "không" chăng?
Tu đạo thì
cần trừ tham, sân, si; đạt đến chỗ thân, miệng, ý đều trong sạch.
Từ thuở vô thủy tới nay, nghiệp chướng mà mình
tạo ra thì đầy ngập như núi cao. Ngày nay các bạn xuất gia tu hành thì cần phải
tiêu trừ nghiệp chướng của mình đi. Nếu không khéo tu hành, mà ngược lại, tạo
tội nghiệp, thì núi cao nghiệp chướng kia ngày càng đắp cao thêm; vĩnh viễn bạn
không còn cách gì thoát khỏi vòng sanh tử.
2. Cục Ðá Cột
Chân Người Tu
A. Tham, Sân,
Si
Hễ bạn khởi
tâm động niệm thì tự mình đã sai lầm rồi đó, là bởi do cái "ngã", cái "tôi" tồn
tại. Ðây là niệm rất vi tế; chỉ do niệm này bắt đầu khởi dậy, mà tất cả ý nghĩ
khác dấy lên.
Cứ chê kẻ
khác sai, kẻ khác xấu, còn mình thì luôn luôn đúng, luôn tốt; nghe người ta nói
mình tốt thì vui, thì thích; bị kẻ khác chê xấu thì khó chịu, thì rầu; đó đều là
nhân-ngã tướng- thấy thật có mình, có người. Khi tu hành mà còn có tướng
nhân-ngã như thế thì không thể yên ổn tu hành. Khi còn ngã-tướng thì làm gì cũng
thấy có cái "ta", coi cái "ta" này trọng lắm, phân định ranh giới "ta" và "bọn
họ" rõ ràng lắm. Như vậy thì chẳng có lợi gì cho việc tu, mà ngày ngày lại do đó
phát sinh phiền não.
Nếu bạn đắm
trước, chấp chặt vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (hình sắc, âm thanh, hương
thơm, mùi vị, chạm xúc, và ý tưởng) thì trí huệ không thể khai phát đặng.
Tai các bạn
lúc nào cũng thích nghe, nghe xem có ai nói xấu mình chăng; mắt lúc nào cũng
thích nhìn hình sắc đẹp đẽ; đó là những thứ chẳng lợi cho việc tu.
Không trừ
sạch tham, sân, si, thì không có cách gì khai trí huệ đâu!
Chỉ cần tham
một thứ gì đó là đủ khiến ta trở lại vòng luân hồi rồi!
Tham một thứ
thì nhiều thêm một thứ. Ít đi một vọng niệm thì bớt đi một chút nghiệp, lại tăng
thêm một phần giải thoát.
Không nên
nổi lòng tức giận, dù nhỏ như sợi lông; nếu không mình chẳng thể nhập đạo đặng.
Nếu bạn vẫn
còn lòng yêu đương, tình ái trong quan hệ phụ mẫu, bạn bè, đồng sự, bà con...,
thì trăm ngàn vạn kiếp bạn vẫn mãi ở trong luân hồi. Nếu có hạt giống Phật thì
sự tu hành tương đối mau hơn.
Không nên để
những thứ xấu xa, rác rến chất đầy đầu não, thật là thống khổ đấy! Không nên yêu
thích cái đẹp; hãy mặc cái y này (chỉ áo cà-sa của chư Tăng, Ni) mà trực tiếp
tới cõi Tây Phương. Nếu bạn thích (mặc áo) đẹp thì sau này khi ở Tây Phương sẽ
tự nhiên có y phục đẹp mặc vào, không cần phải may phải mua. Có kẻ chưa tới Tây
Phương song hiện đã có hình dáng như ở đó rồi.
B. Ngã Mạn
Không nên
học tánh cứng đầu, cố chấp.
Không nên có
ngã-chấp (luôn nghĩ tới cái "ta", luôn cho rằng "ta" đúng). Có ngã-chấp thì trí
huệ không khai mở. Ðùng nên sanh lòng cống cao ngã mạn bởi vì nó chướng ngại
đường Ðạo.
Không dẹp
sạch ý niệm về "ta" và "người" (nhân-ngã tướng), thì không cách gì giải thoát.
Sư-Phụ vốn dạy mình Pháp-môn Giải-thoát; Ngài nói Pháp không phải để thu nhập
nhân tài.
Nếu kẻ có
tài năng song không khéo tu hành, do đó cứ nghĩ lăng xăng, tính toán việc này
việc nọ. Tu hành là tu ở sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; là mặc áo thô, ăn cơm
đạm, coi thử bạn có khả năng tu luyện để đầu óc được thanh tịnh hay chăng.
C. Thiện ít. Ác
nhiều
Trong tâm,
thế lực xấu ác thì mạnh còn khuynh hướng tốt thì yếu.
Thế tốt thì
nói: "Tôi là tốt lắm đây"; thế xấu thì nói: "Tôi là tốt nhất đây!" Tư tưởng xấu
ác luôn đứng đầu, lấn át tư tưởng thiện; nên thiện chung cuộc bị ác đè bẹp. Ðó
là điều không tốt.
Từ thuở vô
thủy đến nay, do ý niệm thiện trong lòng ta ít ỏi còn ý niệm xấu ác lại nhiều,
nên tự-tánh trong sạch (Phật-tánh) bị che phủ, không xuất hiện được. Bởi vì niệm
ác tích lũy ấy mà ta cứ khởi vọng niệm, thích ngủ, thích hưởng thụ... mà không
cách gì đề kháng đặng. Ðó chính là nghiệp chướng; do đó mình phải tu để chế phục
nó. Nếu không, dù bạn đi đây đi đó nghe giảng, bạn chỉ là nghe vô một đống mà
phiền não thì vẫn đầy dẫy, chẳng chỗ nào thông đạt!
Khi nghiệp
chướng tới thì phiền não khởi. Khi không chánh niệm thì tà niệm khởi.
Lúc ấy, bạn
thấy người nào cũng không hợp nhãn; thấy việc gì cũng chẳng vừa lòng. Có kẻ vì
vậy mà muốn rời bỏ chùa; hoặc có kẻ cảm thấy không có ý vị gì nên muốn hoàn tục.
Thật ra, không cần biết bạn có lý hay vô lý, hễ bạn khởi phiền não là bạn đã sai
lầm rồi đó!
Không sợ hãi
thì tâm mới an định. Khi tâm sợ hãi thì không thể an định.
Sợ hãi là tâm
lý chỉ cho mình cảm nhận thôi, kẻ khác không cảm thấy như mình; do đó, chỉ có
mình là bất lợi. Khi mình không tự chủ thì mới sợ. Sợ quá, sợ hoài, thì sanh
phiền não. Khi ấy, tâm không an định thì sẽ chẳng còn Ðạo tâm tu hành nữa!
3. Nẻo Chánh
Ðể Tu Hành
A. Trừ Tướng
Hỏi: Thưa
Thầy, khi thực hành mới thấy không giản dị!
Ðáp: Ðừng nói
là "không giản dị." Bạn cứ làm thì sẽ hết sức giản dị!
Hỏi: Song con
là kẻ phàm phu cho nên...
Ðáp: Nói mình
là "phàm phu", tức là chấp trước!
Hỏi: Song con
không có tu hành gì...
Ðáp: Ðừng nên
nói không có tu hành (rồi không tu). Bạn cần phải có lòng tin, rằng: "Tôi cũng
có khả năng thành Phật. Tôi cũng có khả năng tu tới nơi tới chốn." Nghĩ như vậy
thì bạn mới tinh tấn hơn. Ðừng nên cứ thường nói: "Tôi, tôi..."; bởi chính nó
(quan niệm về "tôi") tác quái, làm chướng ngại bạn đấy!
Xưa kia có
một vị quan từ chức, xuất gia tu hành. Ông ta sợ kẻ khác biết được thân phận của
mình do đó không hề tiết lộ thân thế cao quý (kẻ có chức vị cao, ăn mặc đầy đủ,
thì rất dễ bị đọa lạc vì phú quý không thể vĩnh cửu). Ông ta làm đủ thứ việc
thấp kém như lau chùi, quét dọn...; không ai biết thân thế của ông. Một ngày nọ,
ông ta quét dọn rồi khai ngộ! Ông ta biết ra là xưa kia mình đã từng làm bể bao
nhiêu cái chén cái bát của chùa, do đó cấp tốc bồi thường cho chùa.
Chính vì ông ta
không có ý niệm về cái "tôi" (ngã tướng) nên mới được khai ngộ. Bởi vậy, hãy trừ
sạch ngã-tướng.
Cần phải
không có tâm phân biệt thì mới trừ nỗi ngã-tướng. Khi còn chấp chặt vào ý niệm
về "tôi", thì tu chẳng đến đâu. Trừ được ngã-tướng thì trí huệ mới khai phát.
Tu hành, không thể chấp trước. Chấp trước tức
sanh phiền não.
Tu Ðạo là cần
trừ tham, sân, si; đạt tới thân, miệng, ý thanh tịnh.
Muốn trừ cái
cái chấp về "tôi" thì phải từ nơi mặc áo thô, ăn cơm đạm mà dụng công - giảm bớt
ham muốn, không có tâm phân biệt, không suy nghĩ về mình, về người, về chúng
sanh, hay về thọ mạng.
Mọi thứ đều
là anh-tôi tranh chấp mà ra. Coi xem bạn có thể tu đến chỗ chẳng còn anh-tôi,
mình-người chăng?
Bạn cần tu
nhẫn; nhẫn nhục, nhẫn nại là căn bản, gốc rễ của việc tu. Nếu bạn không thể tu
nhẫn, thì chỉ uổng công mang ngoại biểu, hình tướng kẻ xuất gia!
Ðừng nên cho
mình lúc nào cũng đúng. Thái độ như vậy không thể tu tâm.
Tu hành
không cần có ý niệm về "tôi." Không nên kể lể mình hồi xưa, lúc chưa xuất gia,
thì có chức phận thế này, địa vị thế nọ; nếu làm vậy thì không thể buông bỏ mọi
thứ, không thể tu Ðạo. Khi đã xuất gia thì chẳng còn chức phận, địa vị, học lực,
bằng cấp, tài năng...; mọi người đều như nhau cả.
Tốt thì mỉm
cười, xấu cũng mỉm cười; bởi tốt hay xấu đều do tâm phân biệt đặt bày ra. Do đó,
đừng phân biệt.
Khi gặp việc
khiến bạn cao hứng, vui vẻ, hãy tự hỏi: "Ai đang vui vẻ?" Khi gặp chuyện phiền
não, hãy tự hỏi: "Ai đang buồn lo?"
Khi bạn có ý
nghĩ không tốt, hoặc khi có phiền não, thì hãy hướng về Ðức Phật A-Di-Ðà mà nói.
Hễ những thứ ý niệm xấu ấy đến, thì đập nát chúng ngay.
Do đó bạn cần
niệm Ðức A-Di-Ðà, tự nói rằng: "Phiền não! Hãy mau đi khuất, chẳng có việc gì
cho bây cả!" Ðó là dùng tâm trị tâm vậy.
B. Xả Bỏ Tâm
Phân Biệt
Con đường tu
cần phải trải qua gian khổ; như vậy mới có thể khai ngộ. Không nên hy vọng mọi
người đối với mình tốt; nếu người tu chẳng vậy thì không khác gì kẻ thế tục.
Tu hành thì
phải chịu thiệt thòi, thua lỗ; có vậy tu mới tiến bộ.
Tu hành là
làm những việc mà không ai chịu làm; luôn dũng mãnh, tinh tấn, chứ không phải
tính toán, so đo rằng: "Việc này đâu phải để tôi làm!"; bởi đó là thái độ chẳng
khác người đời.
Làm những
việc mà kẻ khác không làm, đó là cách tu phước huệ. Tu hành không phải là làm
việc tính toán so đo; không cần phải toan tính, sắp đặt.
Ðiều tốt thì
góp nhặt để học; điều xấu thì vất qua một bên. Tự mình trong lòng thông hiểu là
đủ rồi; thuận theo đây mà tu hạnh Nhẫn-nhục Ba-la-mật. Tu thì đừng hỏi "đúng"
với "sai", đừng kể "hữu lý" hay "vô lý."
Tu thì đừng
nói thị phi, ai đúng ai sai. Dù mình đúng lý mà người khác nói mình sai, mình
cũng cứ tiếp nhận ý kiến ấy. Hễ bạn tự nhận mình sai - dù mình đúng - thì phiền
não sẽ không khởi; bằng ngược lại, tâm bạn sẽ không an, phiền não sẽ kéo tới.
Trên đường
tu, có rất nhiều thứ không giống với đường đời, thế tục; do đó, đừng nên tranh
chấp "đúng" với "không đúng."
Xưa, có hai
người đồ đệ cùng tọa Thiền, một người ngồi rất nghiêm trang, còn người kia thì
nghiêng qua ngả lại; nhưng Sư-Phụ của họ lại lấy roi quất người ngồi nghiêm
trang. Nếu là người thời nay thì có lẽ y đã nổi giận, sanh phiền não rồi; song
người đệ tử ấy thì lại vô cùng xấu hổ, thỉnh vấn Sư-Phụ khai thị dạy bảo.
Tu hành không
phải là tranh chấp "đúng" với "sai." Tu hành cần phải có công phu nhẫn nhục; dù
mình đúng mà bị trách là sai, mình cũng phải nhận chịu.
Nếu bạn thật
có lòng muốn tu, thì đó chính là phước của bạn; do vậy cần tu cả phước lẫn huệ.
Mỗi người cần trừ sạch hết những nghiệp chướng đã tạo xưa kia, rồi đừng tạo thêm
nghiệp mới nữa; như vậy thì phước, huệ sẽ tăng gia.
(Phương pháp:
Niệm Phật, lạy Phật, phát tâm làm việc lao tác ở chùa, không tính toán. Hễ tính
toán thì sanh phiền não, tức là tạo thêm nghiệp mới.)
C. Tâm Kiên Cố
Khờ khạo mà
tu hành, ngốc nghếch mà ăn uống, niệm Phật cho nhiều.
Hôm nay là hôm
nay. Ngày mai là ngày mai. Chuyện gì cũng đừng rớ tay, xỏ mũi vào. Ðó chính là
tâm kiên cố, chính là tu hành.
Khi tu thì cứ
tu, cần gì phải suy nghĩ, tính toán nào là đi học Phật-học, lấy bằng cấp, làm
này làm nọ? Ðó đều không phải là chuyện tu hành.
Sau này, khi
tôi (Hòa-Thượng Quảng Khâm) không còn, các bạn đừng buồn; chỉ nghe theo lời tôi
mà niệm Phật, tu Khổ-hạnh. Ðối với hoàn cảnh tốt hay xấu, đều không nên chấp
trước, cần phải tùy duyên.
Tu hành cần
phải gạt bỏ cái thân. áo quần, ăn uống, chỗ ở đều phải giản dị. Cần phải mặc áo
thô, ăn cơm lạt. Nếu quá chú trọng đến ăn, mặc, ở, thì bạn nào khác gì kẻ thế
tục? Khi bạn coi nhẹ việc ăn, mặc, ở, thì mới trừ nổi tham, sân, si.
Khi những thứ
ấy (áo quần, ăn uống, nhà cửa...) quá sung túc, thì dục vọng sẽ phừng phừng,
lòng tham sẽ cao ngất. Do đó, muốn buông bỏ thân tâm thì phải từ nơi ăn, mặc, ở
hạ thủ công phu.
Khi có
chuyện tốt xấu gì bạn cũng đừng để hiện ra ngoài mặt. Như bạn sanh bệnh thì chớ
để kẻ khác biết bạn bị bệnh. Như tôi tuy có bệnh, song ai nhìn tôi cũng nói:
"Trông Thầy thân thể khỏe lắm"; không ai biết tôi lúc ấy có bệnh cả.
D. Canh Gác Sáu
Căn
a) Mắt
Khi thấy
khuyết điểm, lỗi lầm của kẻ khác, đừng nên khỏi tâm phân biệt, so sánh. Hãy quán
sát chính mình. Ai ai cũng có Phật tánh cả.
Không nên
tối ngày cứ dòm ngó lỗi xấu của người. Phải thường xuyên tự nhìm xem mình có lỗi
lầm, sai trái gì hay không. Tu như vậy mới không đi ngược lại vời Ðạo.
Phàm thấy
việc gì cũng đừng quá chấp tướng. Thấy tướng mạo tốt thì chớ sanh lòng vui
thích; thấy tướng mạo xấu cũng chớ khởi phiền não.
b) Tai
Tu hành cần
phải tự tại. Ðừng để tâm vào lời dư luận phê bình bạn này nọ.
Nói bạn tốt,
phê bình bạn xấu: Ðây chẳng phải là người ta sai, mà thật ra là bạn không an
định.
Người khác
phê bình bạn: Chính đây là nơi bạn phải tu.
Tu hành cần
có cảnh giới tới thử thách thì mình mới tu đặng. Tự tu, tự ngộ - phiền não là
Bồ-đề. Tu hành chính là tu ở chỗ đó. Khi có kẻ công kích mà tâm bạn vẫn an
nhiên, bình lặng, không nổi sóng gió; thì đó là tu.
Không phải nói
rằng: "Mỗi ngày tôi lạy Phật bao nhiêu lạy, niệm Phật bao nhiêu chuỗi"và cho như
thế là đủ; phải biết đó là những nhân duyên thiết yếu (song phải biết tu trong
những lúc còn lại).
Khi bạn quét
chùa sạch sẽ rồi, có Thầy lại hằn học nói bạn quét chưa sạch. Nếu lúc đó bạn
cùng Thầy ấy biện bác, giải thích, thì bạn còn tánh tình kẻ tục. Nếu bạn chấp
nhận lời mắng nhiếc, rồi trả lời: "Vâng, tôi sẽ quét sạch ngay"; thì đó là tu
hành.
Khi tu tới
chỗ có chánh niệm, lòng sáng tỏ, thì tai bạn thích nghe lời tốt hay lời xấu, bạn
đều cảm nhận rất rõ. Khi tai bạn chỉ thích nghe lời hay lời tốt, thì hãy đem lời
xấu lại mà tu.
c)
Miệng
Khi nói, lời
lẽ cần phải tinh (chỉ nói điểm chính) và giản (đơn giản). Khi lời không cần phải
thốt ra, đừng nói!
Tu hành đừng
nên thị phi (chê bai, nói xấu người khác), đừng đặt điều.
Trong đạo
Phật, sợ nhất là nói thị phi. Kẻ nói chuyện thị phi là kẻ thị phi (không đáng
tin cậy), chỉ tạo khẩu nghiệp. Tu hành chính là ở chỗ này mà tu thành; nếu không
thì là kẻ chỉ biết ăn ngày ba bữa!
Ðừng nói thị
phi; vì nói thị phi thì sẽ dẫn tới thất bại, và khiến kẻ khác không được yên ổn.
Muốn nói gì
về người khác, trước hết hãy tự hỏi lương tâm mình.
Ðừng phê
phán người khác là sai, là có lỗi. Lời nói một khi thốt ra, bạn đã sai trái rồi.
Do đó, cái miệng thật quan trọng lắm!
Mỗi ngày
phải tự huấn luyện để lòng đừng tham, đừng nói lăng nhăng.
Khi mở miệng,
hãy nói về Phật Pháp, cầu sanh Tây Phương. Chủng tử "thói quen thế tục" bạn đã
trồng trong tâm quá đủ rồi; do đó, đừng nên tiếp tục nói những lời thế tục, thi
phi nữa!
Có kẻ khi
nói thường làm cho người nghe phiền não, tâm không thể an định; khiến người nghe
không biết phải xử lý làm sao cho đúng. Ðã vậy, y còn làm người ta phải nghe y
mà chẳng biết y có nghe cho họ chăng? Kết quả là người nghe phiền não, buồn bực,
không cách gì giải khai nổi.
Trong chùa,
không được hai, ba người tụm lại nói chuyện lăng nhăng; hoặc kết bè đảng, phê
bình người này kẻ nọ, thị phi đúng sai, trong lúc họ không hiện diện. Nếu làm
vậy sẽ dễ gây ra sự bất an trong chúng, phạm vào giới quấy nhiễu đại-chúng.
Tu hành cần
phải trong ngoài nhất trí, không tự mâu thuẫn; nghĩa là không được "khẩu thị tâm
phi" (miệng nói một đằng, tâm nghĩ một ngả).
Tu hành phải
chú ý đến khẩu nghiệp. Miệng tốt thì tâm mới tốt. Ðừng cho rằng: "Tôi miệng tuy
không tốt, song lòng tốt!"
Sau khi xuất
gia rồi, trong chùa vẫn có kẻ nói chuyện thị phi. Song le, bạn đừng cùng bọn họ
nói thị phi là đủ. Ðừng nên cứ mở miệng là thị phi hoài. Kẻ nào nói phiếm, lẻo
mép về chuyện người khác, thì y là kẻ thị phi.
Hễ có thời giờ
rảnh rỗi, bạn hãy lạy Phật, niệm Phật.
Khi bạn khởi
phiền não, buồn lo, chớ nên kiếm kẻ khác nói này nói nọ. Nói lui nói tới, thế
nào bạn cũng mắc vào thói thị phi lăng nhăng. Tốt nhất là hãy lạy Phật cho nhiều
để giải trừ phiền não.
Hỏi: Nghe
Thầy giảng (về tiết thực) nên con không dám ăn nhiều quá, ăn no quá; song sức
lực yếu ớt, con phải làm sao đây?
Ðáp: Cần ăn cho
đủ. Chủ yếu là không tham, không chấp trước.
Không phải là
hễ thức nào ngon thì ăn nhiều một chút, thức nào dở thì ăn ít một tí. Ðừng tham
cầu hương, vị, xúc, pháp.
Khi bạn khởi
ý nghĩ xấu, đừng chấp trước nó; hãy tự nhủ thầm: "Mình không nên nghĩ ác!" Không
thể dùng hình phạt, bởi vì hình phạt chỉ làm tổn hại chính mình mà thôi.
Sự vật có
tướng trạng thì dễ thấy. Việc vô hình vô tướng thì khó thấy (như nói thị
phi...); ta cần có lòng cứng rắn, đừng để bị chúng lôi kéo.
Hỏi: Có
nghiệp mang theo thì làm sao khai trí huệ?
Ðáp: Niệm "Nam
mô A-Di-Ðà Phật" cho nhiều.
Nếu các bạn
noi gương đức hạnh của Sư-Phụ (Hòa-Thượng Quảng Khâm) thì đi đâu cũng yên ổn cả.
Thân thể giả
dối của chúng ta khó tránh bệnh tật; song, thân bệnh là bệnh nhỏ.
Có vọng tưởng,
tham, sân, si mới là bệnh lớn. Còn vọng tưởng là còn tiếp nối chuỗi luân hồi,
không dứt được vòng sanh tử.
Ðể bảo đảm có
được chánh niệm ở giây phút lâm chung, bình thường mình cần phải uống thuốc
"A-Di-Ðà Phật"; nếu không, chết rồi chẳng biết về đâu!
Lúc đi,
đứng, nằm, ngồi, phải luôn thể hội Phật pháp, giác ngộ đạo lý; vậy mới không
uổng phí thời gian. Thời gian qua rất chóng, phải tận dụng nó để thể nghiệm. Nếu
tu như vậy, ý nghĩ xấu mới không có cơ hội nảy sanh; không làm vậy, sẽ không có
được chánh niệm.
Khi miệng không
nói thì tâm suy nghĩ; song đừng suy nghĩ những thứ có sắc tướng, hình bóng; phải
suy nghĩ thư ra ngoài sắc tướng.
E. Tâm Trường Viễn (bền bĩ lâu
dài)
Bạn cho tu
hành dễ lắm sao?
Bây giờ, việc
chúng ta làm chỉ là thứ khổ công, khổ tu mà thôi. Bởi vì hiện tại chúng ta chưa
đoạn được tham, sân, si, do đó đây là giai đoạn tu luyện tâm trí. Chờ khi những
thứ ấy bị đoạn không còn một mảy may, thì mới gọi là nhập Ðạo.
Tu hành
không phải là việc dễ "ăn" như đậu hủ, bỏ vô miệng là có thể ăn ngay!
Các bạn cần để
10 năm, 20 năm trì một câu "A Di Ðà Phật" không buông lơi, cộng thêm công phu
Tín, Nguyện, Hành mới được.
Nếu các cô
có Ðạo-tâm, từ từ tu tới 40, 50 tuổi, không có quái ngại, trở thành "lão sư bà",
thì lúc đó các cô mới có đặng một chút xíu tự tại; song không phải là tự tại gì
lắm. Nếu các cô không ngộ Ðạo, thì dù đến 40, 50 tuổi, phiền não sẽ vẫn tràn
ngập, dễ thành điên đảo.
Tu hành cần
giữ Trung Ðạo (trạng thái cân bằng). Ðừng quá gấp, đừng chậm; phải như "tế thủy
trường lưu", nước chảy từ từ mà không ngừng.
Tu hành,
phải giữ Trung Ðạo bằng công phu buông bỏ và nhìn thủng. Cần mặc áo thô, ăn cơm
đạm, và không chấp trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Song le, phải
hành trì một cách tự nhiên; không phải miễn cưỡng, bày đặt không ăn cơm, không
mặc áo dù trời lạnh, hay không ngủ nghỉ để chứng tỏ mình là một tay tu hành cừ
khôi! Khi tu tới một trình độ nào đó, tự nhiên bạn sẽ không còn biết đói, không
còn cần ngủ nghỉ nữa.
Hãy tinh
tấn, dũng mãnh tu hành. Tu tới lúc bạn không còn nhu yếu về ăn, mặc, ở, thì khi
ấy bạn có thể lên núi bế quan; như thế thì may ra bạn có thể thành tựu. Nếu tu
chưa tới trình độ như vậy mà bế quan, thì sau này sẽ gặp chướng ngại.
Trong quá
trình tu hành, nảy sanh phiền não là việc không tốt. Cần phải không có phiền
não, lo âu, buồn vui, thì mới tốt.
Nếu có thể
mỗi ngày yên ổn, bình tĩnh để niệm Phật, lạy Phật, tu trì, không có chuyện gì
xảy ra, là tốt rồi; chớ nên vọng tưởng chuyện này chuyện nọ.
Khi không tạo
tội lỗi, thì đó là công đức rồi!
Hôm nay là
hôm nay. Ngày mai là ngày mai.
Hôm nay không
xảy ra chuyện bất tường, có thể niệm Phật qua ngày, là đủ lắm rồi.
Việc ngày mai,
để ngày mai - chớ quái ngại, chớ âu lo.
4. Bản Sắc Của
Việc Tu
Trừ bỏ
nhân-ngã tướng (ý niệm và sự chấp trước vào quan niệm có mình và người) là việc
mà người tu phải làm cho thấu. Làm được, đó gọi là công phu thiệt. Nếu không làm
được, bạn đi tới chỗ nào, chùa nào tu cũng vô ích. Tu tới trình độ như vậy, công
phu của bạn mới thành tựu.
Chuyện gì
cũng là do "tôi, anh", mình, người" tranh chấp, phân tranh mà ra. Xem bạn có khả
năng tu tới chỗ không còn "mình, người" chăng?
Cứ nhậm vận
mà làm, tùy duyên qua ngày, thì chuyện gì cũng chẳng quấy nhiễu được tâm bạn.
Mọi thứ: ăn, uống, ngủ, nghỉ, mặc, ở, thị phi, vinh nhục... hãy lạnh lùng buông
bỏ chúng đi. Khi quét sạch được những ngoại duyên ấy, thì trí huệ trong tâm sẽ
tự nhiên khai phát.
Tâm bình
thường chính là Ðạo: Mỗi ngày cứ giữ cho tâm đừng khởi phiền não, âu sầu, cũng
không vui vẻ thái quá. Ðối đãi với mọi người thì không tốt cũng không xấu; cứ
tùy duyên mà kết mối giao hảo với họ. Song, chớ phan duyên, tức là đừng lợi dụng
họ để thủ lợi.
Lúc nào cũng
phải chú ý đến sự khởi tâm động niệm, sự suy nghĩ của mình. Khi có ý tưởng xấu
thì phải lập tức thức tỉnh, dẹp đi.
Tu hành, cần
tu với thái độ vô ngại, ví như con hạc làm tổ vậy. Con hạc không lo lắng gì về
ăn uống cả; nó thích chỗ nào thì làm tổ chỗ đó. Khi nào muốn, nó lại tung cánh
bay đi nơi khác. Ðó là giống chim tự do, tự tại nhất.
Khi tu, bạn
phải có thái độ "vô quái ngại" ở mọi nơi, mọi chốn. Ðược vậy, thì tâm mới an
tĩnh, mới như như bất động.
Tu hành, cần
tu tới mức không còn quái ngại trong hoàn cảnh động hay tĩnh.
Thế nào là
"động và tĩnh không còn quái ngại?" Tức là ở trong hoàn cảnh động mà tâm bạn
không động: Bạn không bị hoàn cảnh động bên ngoài ảnh hưởng làm tâm bạn lay
chuyển, nghĩ ngợi. Và khi ở trong hoàn cảnh tĩnh lặng, bạn không có ý nghĩ là
yên lặng.
Phải dùng tiếng
niệm Phật để quét sạch hai trạng thái bụi bặm đó, khiến liên hoa khai mở; như
vậy mới đắc chánh niệm. Khi niệm Phật, bạn cần phải chuyển niệm - chuyển hóa,
biến ác niệm thành chánh niệm!
Việc gì cũng
phải buông bỏ. Buông bỏ chính là công phu.
Bình thường,
đối đãi với việc gì cũng buông xả hết; không có vướng mắc, quái ngại vào việc
gì. Ðó là để tránh trường hợp lúc lâm chung, giây phút tối hậu, vọng tưởng nổi
lên lôi kéo mình vào vòng luân hồi bất tận.
Mục đích
việc tu là để lúc chết, bạn không còn vướng bận, không còn quái ngại chuyện gì
cả; chỉ thảnh thơi đem theo linh quang (công đức trí huệ sáng suốt) của chính
mình mà thôi!
Tu hành, cần
phải ở chỗ nào cũng tu như nhau; đâu đâu bạn cũng có thể tự tại. Tu là tu ở chỗ
này đây.
Tu hành, cần
không để cho ngoại cảnh bên ngoài ảnh hưởng, lôi kéo tâm mình.
Bạn cần chú
ý tự tâm: Cần phải có niềm vui khởi dậy từ nội tâm chứ không phải là cái vui do
hoàn cảnh tốt đẹp bên ngoài đưa đến. Do đó, bạn phải luôn quan sát tự tâm, xem
xét sự suy nghĩ của mình, và đừng chú ý tới ngoại cảnh. Phải tu tới độ "tôi
chẳng có gì cả" mới được!
Tu hành là
tu ở phước lẫn huệ. Tu tới lúc bạn lớn tuổi, "lão" rồi, thì phước và huệ sẽ đầy
đủ; bấy giờ, mọi người sẽ cung kính bạn (đừng tham được cung kính khi còn trẻ,
lúc còn thiếu phước huệ).
Khi bạn tu
chân thật, đúng đắn, thì dù bạn ở đâu người ta cũng sẽ tìm đến; ai ai cũng vui
vẻ muốn cùng bạn đàm đạo.
Cần tu đến
chỗ chánh niệm lúc nào cũng hiện tiền. Có chánh niệm thì mới có khả năng phân
biệt thế nào là đúng, thế nào là sai; rồi từ đó mà hành động.
Tu hành, là
tự mình tu. Tu tới lúc thể ngộ - ngộ cái khổ ở Ta-bà, cái khổ phải luân hồi. Hễ
ngộ một việc thì một chút trí huệ xuất hiện.
Tu hành, cần
tu tới lúc có trí huệ. Chuyện gì tới tay, bạn đều biết vận dụng nó. Khi nói, cần
phải biết nói sao cho viên dung. Khi mình đã đứng vững rồi thì mới có thể khiến
cho người khác tin theo và vui vẻ tiếp nhận.
Có trí huệ mới
không tạo ác nghiệp. Do đó, phải tập nuôi dưỡng tâm từ bi và thực hành hạnh Bồ
Tát.
Tu hành, cần
tu cho có tướng mạo từ bi. Tu làm sao để người khác có thể thấy được vẻ hiền
hòa, từ bi trong ánh mắt của mình!
Khi một
người tu hành thành tựu thì những kẻ khác sẽ được nhờ phước. Lúc đó, ai ai cũng
khởi tâm dũng mãnh, tinh tấn học theo gương người ấy.
Khi ai cũng
muốn tu hành thì hãy cùng nhau khuyến khích, cùng nhau tu. Nếu không vậy thì mọi
người sẽ khởi chuyện thị phi, sanh lòng đố kỵ, tranh chấp, và trở nên ngu si;
bấy giờ, việc tu ở chùa sẽ không còn yên ổn nữa.
Tu cho tốt
thì tự nhiên có người ủng hộ; chứ không phải bắt ép người ta mà được.
Ðừng nên hy
vọng, mong cầu thí chủ lại cúng dường này nọ. Ðừng ỷ lại vào thí chủ. Bạn chỉ
cần nỗ lực tu hành; khi tu thành tựu thì Thiên, Long, Bát Bộ đều tới ủng hộ bạn.
Khi ngồi
Thiền, thấy cảnh giới tốt hay xấu đều đừng chấp trước; cũng đừng nói về nó.
Phật Pháp
thì không dính mắc, ngưng trệ nơi cảnh giới Lạc, Minh và Không.
Khi thân khinh
an, nhẹ nhàng, thì tâm sẽ hoan hỷ (Lạc); khi trong lòng ít vọng niệm thì tâm sẽ
sáng suốt (Minh); và khi chẳng có một ý nghĩ hay vọng niệm sanh khởi thì đạt tới
trạng thái không.
Nếu bạn vướng
mắc ở cảnh giớ Lạc thì đọa và Dục-giới Thiên, chấp trước vào cảnh giới Minh thì
kẹt trong Sắc-giới Thiên, và bám chặc vào cảnh giới Không thì mắc ở Vô-sắc-giới
Thiên.
Chương II: Khổ
Hạnh
1. Vững Lòng
Tin, Tu Khổ Hạnh
Nhân sinh có
Bát Khổ--Sanh, Lão, Bệnh, Tử, Cầu bất đắc (khổ do mong cầu mà không được toại
ý), Ái biệt ly (khổ vì phải xa lìa người mình yêu thương), Oán tằng hội (khổ vì
phải gần gũi người mình oán ghét), và Ngũ-ấm xí thạnh (khổ do bị tấm thân Ngũ-ấm
này khống chế).
Nếu bạn có
nguyện lực tu Khổ-hạnh thì sau này sẽ có chút thần thông, sẽ biết được chuyện
này chuyện nọ. Lúc ấy, tự mình cảm biết, tự mình làm chủ.
Nếu ai ai
cũng có nguyện tu Khổ-hạnh, thì ai ai cũng có thể thành Phật, có thể được vãng
sanh Tây Phương, được hóa sanh từ hoa sen. Các vị xuất gia thì tấm cà-sa chính
là y áo Tây Phương đấy.
Cơm của kẻ
xuất gia phải đạm bạc; coi đây chính là một Khổ-hạnh.
Tu hành cần
phải chịu cực khổ. Càng chịu cực khổ thì càng có điều tâm đắc.
A.
Khuyến Khích Tu Hành
Việc tu thì
dựa vào sự thực hành của mình. Như uống nước, khi chưa uống thì bạn không biết
mùi vị của nó; uống xong rồi mới biết mùi vị. Có thực hành mới đảm bảo được việc
tu là chân thật.
Ði, đứng,
nằm, ngồi--bạn phải dùng nó để thể hội Phật Pháp. Ngày tháng qua mau như tên
bắn, chớ phóng dật!
"Một ngày đã qua,
Mạng cũng
giảm dần,
Như cá cạn
nước,
Thử hỏi gì
vui?"
Mạng người
vô thường--một hơi thở ra mà không vào lại, đời người tức hết! Bởi vậy, mau mau
dũng mãnh, tinh tấn; chớ buông lung, lơi lỏng! Hãy coi việc niệm Phật là gấp
rút, khẩn trương nhất!
Gia tài, của
cải--mọi thứ ta chẳng đem theo khi sanh ra và cũng sẽ không mang theo lúc chết
đi:
"Mọi thứ chẳng
đem đặng,
Chỉ có nghiệp
tùy thân."
Ðừng nên vì
những thứ ở ngoài thân mình mà lãng phí quãng đời trân quý của mình. Phải mau,
sớm tu hành!
B. Hạnh
Nguyện
Thứ niệm
thiện, nghiệp thiện mình đem theo (từ kiếp trước) thì ít, mà niệm ác thì nhiều.
Bởi vậy, nay mình cần phải tu Khổ-hạnh để tiêu trừ nghiệp chướng. Vì thế, không
nên tham ngủ, tham ăn...; phải quét cho sạch những thứ niệm xấu ấy! Có chánh
niệm thì sẽ ít phiền não.
Khổ-hạnh là
hạnh nguyện của lịch đại Tổ-Sư, của Ðức Phổ-Hiền, Văn-Thù, Quán-Âm, Ðịa-Tạng,
các Ðại Bồ-tát. Ngày nay mình bắt chước, học theo gương các Ngài.
Khi
Hòa-Thượng Hư-Vân đi ba bước một lạy triều sơn, Ngài một mình, một gậy, một bao
ăn tạm qua ngày. Ngày nào lạy tới đâu thì tính tới đó; chuyện ngày mai thì để
hôm sau tính. Tâm Ngài hoàn toàn không chấp trước vào đâu cả. Do đó Long, Thiên,
Hộ-Pháp đều bảo vệ Ngài. Chúng ta thì chẳng có nguyện gì cả; nếu có nguyện thì
việc gì cũng có thể làm tới nơi tới chốn!
Tu Khổ-hạnh
là để nuôi dưỡng cái nguyện; xem bạn có hay không có nguyện. Kẻ ít nghiệp chướng
thì mới có thể phát nguyện tu Khổ-hạnh. Chư Phật, Bồ-tát thành Ðạo cũng bởi do
nhờ nguyện.
Hỏi: Song
tôi không thể phát đặng nguyện Khổ-hạnh?
Ðáp: Nguyện
không phải là "tôi muốn như thế này, thế nọ"; bởi như vậy thì vẫn còn cái "ngã",
cái "tôi." Nguyện cần phải được phát một cách tự nhiên, và phải vì lợi ích của
chúng sanh.
Như bản thân
tôi, tôi có hề nói tôi ra sao, ra sao đâu? Ngày nay dù có thành tựu, tôi cũng
không biết được!
2. Làm Sao Tu
Khổ Hạnh
Thế nào là
tu Khổ-hạnh? Tức là không so đo, tính toán mọi sự. Ðối với chuyện hằng ngày, chớ
khởi tâm phân biệt.
Tu Khổ-hạnh
tức là rửa sạch đầu óc, thay đổi chủng tử.
Khổ-hạnh
không phải là việc giản dị, vì tu Khổ-hạnh là tu tâm.
Khổ-hạnh
không phải là việc đơn giản, là cứ làm "bừa." Làm "bừa" không phải là biện pháp
đúng. Nếu làm "bừa" thì dù có đến hết kiếp, rồi đầu thai trở lại cũng chẳng tới
đâu!
Việc làm
Khổ-hạnh không có nghĩa là làm cho nhiều.
Làm việc là
để rèn luyện đầu óc suy nghĩ của bạn.
Làm việc thì
phải thong thả; không được quá gấp gáp, hấp tấp.
Làm việc lâu
ngày thì sẽ quen tay; khi ấy, bạn có thể khai trí huệ. Bấy giờ, công việc cần
làm ra sao, bạn chỉ cần nhìn qua là tự nhiên biết ngay; không cần phải bóp trán,
suy đi nghĩ lại mới biết.
Muốn tu
Khổ-hạnh, cần phải rèn luyện xem mình có khả năng xả bỏ thân này hay chăng.
Thân này là giả
tạm, nhất định sẽ bị hủy hoại; dù muốn cứu vãn cũng không có cách gì khôi phục.
"Xả bỏ thân
này" là thế nào? Tức là ăn cơm đạm, mặc áo thô, đắp ba lớp cà-sa; chẳng kể gì
đến ăn ngon, mặc đẹp!
Tôi dạy các
bạn dựa vào Pháp-môn Niệm Phật mà tu.
Xưa, tôi ở trên
núi tu hành thì chỉ tùy duyên. Hễ thức gì mọi chúng sanh ăn được thì loài người
cũng có thể ăn được; đó gọi là đồ cúng dường tự nhiên của trời đất.
Nếu quá đói mà
bạn cứ bướng bỉnh nhẫn chịu, thì thân thể sẽ hư hoại. Tu hành thì cần phải dụng
tâm; không nên tu luyện những thứ cực đoan như không ăn uống như vậy.
Tôi tu đến
ngày nay, lòng cảm thấy rằng nếu vạn nhất, chẳng may mà tu trật tu sai, thì thật
nguy hiểm. Duy có môn Niệm Phật là tốt nhất.
Thế nào là
"mặc áo thô, ăn cơm đạm"?
Không phải là
chẳng ăn cơm đâu! Mà là ăn để no, chứ chẳng phải ăn cho ngon; mặc đủ ấm đủ che
thân, chứ chẳng phải mặc cho đẹp. Ngủ vừa để có đủ tinh thần là tốt rồi; chớ ham
ngủ. Ngủ nhiều rất dễ bị hôn trầm, dật dờ, nặng nề.
Nếu bạn bày đặt
không ăn cơm, nhịn đói, thì sẽ khiến thân thể suy nhược, rồi khó an tâm tu đặng.
Vậy là uổng phí cho bạn tới đây tu hành.
Tôi xưa kia đã
từng làm qua việc ấy (nhịn đói); nay già rồi mới biết là sai lầm.
Rèn luyện
ngủ ngồi là việc đòi hỏi thiện căn; nó không giản dị đâu. Ðừng nói tới phương
pháp, cách thức luyện tập nó, làm sao đối trị, v.v... Nói ra, các bạn thêm chấp
trước.
Ðây là việc
mà kẻ có thiện căn có lòng muốn tu. Khi thực hành, hễ có chánh niệm thì tự nhiên
sẽ thành công. Song le, nếu lầm đường trật bước, thì "thân người mất đi, khó
phục hồi!" Ðã có rất nhiều người lầm lẫn rồi đấy!
Hỏi:
Hòa-Thượng thường dạy chúng con học theo gương các lịch đại Tổ-Sư. Song le, nếu
hoàn cảnh quá tốt đẹp: ăn, mặc, ở đều không thiếu thốn gì, thì làm sao học gương
chư Tổ?
Ðáp: Các bạn
không nên tham lam, đắm trước vào mọi thứ (ăn, mặc, ở); chỉ cần có thể sống qua
ngày là tốt rồi.
Ðừng nói rằng
có thức ăn cúng dường nhiều, rồi cắm đầu cắm cổ ăn, tự làm nô lệ cho cái miệng.
Song le, cũng không được ăn quá ít, để bụng đói lả. Bạn phải lượng bụng mình mà
ăn, ăn đủ vừa no là tốt rồi--chớ phân biệt đồ ngon đồ dở!
Hiện tại, thực
phẩm đều có chất hóa học, hoặc đã bị nhiễm hóa chất, thuốc sát trùng... Khi thức
ăn thật sự là không thể ăn được, hoặc là hư hoại rồi, thì chớ ăn. Cứ ăn bừa, ăn
cho nhiều vào, thì có thể chết đấy!
3. Buông Xã
Túi Da Thối Này!
Túi da thối
này là để ta mượn mà tạm ở. Song le, cũng vì nó (thân này) mà ta tạo vô lượng vô
biên nghiệp.
Chúng ta, ai
cũng do mang nghiệp mà sinh ra, do đó đầy dẫy bệnh khổ. Bớt sát sanh, niệm Phật
nhiều, thì mới có thể tiêu nghiệp đặng.
Khi thân thể
có bệnh mà uống thuốc gì cũng chẳng lành, hãy niệm Phật thì bệnh sẽ lành, bởi
Ðức Phật A-Di-Ðà là vị "Vô Thượng Y Vương" (vị vua thầy thuốc cao tuyệt nhất).
Con người
phải chăng có thể trốn được kiếp số và bệnh khổ?
Thí dụ có kẻ bị
đau tim; nếu y chuyên tâm niệm Phật thì bệnh tim chắc chắn sẽ lành. Nếu y tuy
niệm Phật mà vẫn còn muốn đi bác sĩ kiểm tra bệnh tình, thì niệm Phật trả về
niệm Phật, bệnh không thể lành nổi (thiếu thành tâm). Nếu y có thể chuyên tâm
trì niệm Phật hiệu thì bệnh sẽ lành, mà chính y cũng không hay biết nữa!
Thân thể này
giống như cái nhà; chắc chắn sẽ hư sụp. Lúc ấy dù có sửa chữa đến cách nào nó
cũng sụp. Do đó chúng ta phải buông bỏ sự chấp trước vào thân thể giả dối này;
đừng nên quá chăm sóc, lo lắng cho nó.
Xét cho cùng,
thân này là thứ huyễn hóa; song le, chúng ta phải khéo léo lợi dụng nó để tu
hành.
Không nên
quá quý tiếc thân này. Khi sanh bệnh, chớ quá quan tâm; vì đó là một thứ thử
thách. Quá quan tâm thân này nên mới bị thử thách.
Khi bệnh, bạn
phải càng thể hội sự vô thường của đời người. Khó ai tránh nổi sanh, già, bệnh,
chết, và khổ; do đó, càng phải nỗ lực, tăng sức tu hành!
Chương III: Rõ
Nghĩa
1. Hiểu Biết,
Lập Hạnh
Người xuất
gia nếu không dựa vào Phật lý mà hành trì, mười người tu có đến chín kẻ sai.
Kẻ tu học
Phật Pháp, không phải rằng:
"Thứ gì tôi cũng chẳng cần!" Như thế là đi
lệch lạc rồi vậy.
Hãy đọc Kinh
Kim-Cang cho nhiều, bạn sẽ không còn quá chấp trước.
Nên đọc cho
nhiều sách, truyện nói về Phật, Bồ-tát, lịch đại Tổ-Sư, chư Cao-tăng, Ðại-đức.
Mình phải học hỏi gương các ngài, tìm hiểu kinh nghiệm quá trình tu hành đã
khiến các Ngài thành Phật.
Con người là kẻ
ở vị trí tu hành tốt nhất; bởi vì thành Phật hay đọa địa ngục đều từ nơi lúc làm
người này định đoạt.
Sau khi thọ
Giới, học Phật Pháp, các bạn có gương tu hành của chư Tổ, lại có kinh điển để
tham khảo - hãy xem thử bạn có tìm được cho mình một con đường tu chăng.
Sách vở thế tục
ở đời, các bạn đã đọc cả rồi (lúc chưa tu, còn ở ngoài xã hội); do đó chớ nên vì
nó mà trở lại luân hồi trong cõi Ta-Bà này!
Khi có thời
giờ rảnh rỗi, bạn hãy coi kinh điển. Xem kinh là để thấu hiểu, rồi dựa vào kinh
điển mà tu trì, thực hành; chứ không phải xem xong rồi đi tán dóc.
Có kẻ (xuất gia
rồi) còn đi học (trường ngoài đời); thật chẳng khác gì kẻ thế tục cả! Khi y
không có trụ cột tu hành để nương tựa, thì y càng học chỉ càng thêm loạn.
Các bạn cần
phải nắm lấy thời gian; đừng để ngày giờ trôi qua uổng phí. Hãy dành thời giờ để
xem kinh, lạy Phật, niệm Phật, ngồi Thiền, tụng Kinh!
Kinh-điển là
con đường. Khi phiền não đến, hãy theo "con đường" này mà thông thoát. Nếu bạn
biết dùng kinh điển thì khi phiền não tới, phiền não tức là Bồ-đề. Nếu bạn không
biết vận dụng, thì phiền não tức là vô minh.
Nếu phiền não
tới mà bạn không biết giải thoát, thì bạn sẽ mắc cứng vào phiền não; như thế thì
cũng như uống lầm thuốc, hay uống phải thuốc độc vậy. Thuốc là tùy ý mình uống
hay không uống. Bạn phải uống cho đúng thuốc; chớ uống lầm độc dược! Nghĩa là
sao? Nghĩa là bạn phải biết "hồi quang phảng chiếu", xoay tâm lại để tự soi cõi
lòng (nhìn phiền não theo cái nhìn của chư Phật và Bồ-tát trong kinh điển).
Toàn bộ Tam
Tạng Kinh là ở trong tâm ta. Giới, Ðịnh, Huệ cũng chỉ ở trong tâm này.
Giới, Ðịnh, Huệ
chẳng phải là thứ để đem đi nói đi giảng - đó là thứ dùng để thực hành, để tu
(phá) Ngũ Ấm. Tụng Kinh không phải đọc oang oang là xong đâu. Bạn phải thể hội
cho được ý nghĩa của Kinh; nếu không thì uổng cho bạn đã xuất gia đấy!
Thuyết Pháp
chỉ là nói miệng. Bạn cần phải tu sao cho mình nhìn tới đó. Mình phải liễu ngộ
mọi sự; nếu không, bạn sẽ chấp trước nặng nề vào kinh điển!
Kinh giấu ở
đâu? Kinh giấu ngay trong tâm chúng ta, song cần mở khai trí huệ thì mới biết
được chúng. Nếu bạn không khai trí huệ thì xem Kinh, bạn sẽ mơ mơ hồ hồ. Khi trí
huệ khai mở, lúc xem Kinh bạn sẽ cảm thấy rất thành thục, rành rẽ; đồng thời bạn
sẽ lĩnh ngộ được những chân lý khác nữa.
Khi một lý
thông suốt, mọi lý đều thấu triệt!
2. Công Phu
Khuya và Tối
Bây giờ, khi
còn ở cảnh động, bạn hãy học cho rành nội dung cuốn Thiền Môn Nhật Dụng Khóa
Tụng (tức là Kinh đọc hằng ngày, hai thời công phu). Sau này, khi bạn ở cảnh
tĩnh, bạn sẽ dùng đặng nó.
Khi công
quả, lao tác xong rồi, nếu còn dư thời giờ thì bạn hãy xem Kinh. Xem Kinh gì?
Chỉ cần bạn liễu giải, thể hội hai thời công-phu, rồi theo đó thực hành, thì
nhất định bạn sẽ liễu thoát sanh tử.
Bạn hãy khéo
mà thể hội Tam Quy-y; xem mình đã làm đặng tới nơi tới chốn chăng.
Như "Tự quy y
Pháp, nguyện rằng chúng sanh, hiểu sâu Kinh Tạng, trí huệ như biển." Trí huệ bạn
thế nào mới sâu rộng như biển? Người ngoài nhìn một cái là họ biết ngay!
Chẳng phải kinh
điển là ở nơi giấy trắng mực đen vuông vức đâu; vì cứu cánh, chúng không phải là
vật của (chân-tánh) bạn.
Bạn phải xem bộ
Kinh "Vượt Ra Ngoài Hình Tướng Trong Kinh Ðiển" - kẻ biết đọc nó thì nhìn là
biết ngay; ai không biết xem nó thì không thể biết đặng. Do đó, hễ niệm Phật,
niệm tới một trình độ nào đó thì tự nhiên Kinh Tạng sẽ ở tại tâm bạn!
3. Gõ Chuông
Hỏi: Phật là
gì?
Ðáp: Phật không
là gì cả. Ở đời (xã hội) mới có vật hình sắc, tướng mạo. Học Phật thì chẳng có
vật gì cả.
Thứ "không
sắc tướng" tức là sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; và cũng tức là
chân không diệu hữu. Ý nghĩa của nó là bên ngoài tuy nói có vật đó, song trong
tâm không có (quan niệm, hình bóng) vật đó.
Tâm là "không".
Nếu trong tâm còn những thứ có sắc có tướng, thì phiền não sẽ từ đó nổi dậy.
Hỏi: Thế nào
là "không"?
Ðáp: Nếu bạn
nhìn xuyên thủng được (mọi sự vật), thì đó là "không".
Tu hành, cần
trong ngoài (tâm tư, hành động) phải nhất trí; không được"khẩu thị tâm phi"
(miệng nói một đằng, tâm nghĩ một nẻo).
Thấy, nghe,
cảm, biết, là tác dụng của Sáu Căn - mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Tự tánh của
mình thì ở đằng sau sáu căn này. Hằng ngày, tự tánh luôn ở ngay với mình.
Làm thế nào
để lòng được an ổn? Bạn cần phải vô tâm (không có tâm). Tâm (chỉ chân-tánh) vốn
không dựa vào đâu, và cũng không thể tìm nó ở đâu. Song tâm này (chân-tánh) vốn
bao trùm hư không, biến khắp Pháp-giới.
Cái tâm ở
hiện tại: không thể nắm bắt được.
Cái tâm ở vị
lai: cũng không thể nắm bắt được.
Cái tâm đã qua
rồi: cũng không sao nắm bắt được.
Khi nổi
phiền não, khi lòng tức giận, bạn chớ chấp chặt, truy cứu, đeo đuổi chúng, hoặc
tìm xem chúng từ đâu lại. Một khi chấp chặt vào chúng thì lòng bạn sẽ không thể
khai mở; rồi vì thế chẳng thể yên lòng tiến tu được.
Bất cứ việc
gì tới, bạn phải nhìn xuyên thủng chúng, đừng chấp trước vào chúng. Quan trọng
nhất vẫn là cột bốn chữ "A-Di-Ðà-Phật" nơi miệng mình!
Hỏi: Con có
đọc sách nói rằng: "Kẻ đã giác ngộ thì đã đoạn dứt những thứ ác tự mình tạo ra;
song y không đoạn trừ tánh ác." Làm sao để thể hội câu này cho đúng đắn?
Ðáp: Phải tu
phước đức. Thí dụ gặp kẻ không có cơm ăn, thì mình cho người ấy chút cơm ăn.
Phải luôn tìm cách giúp đỡ người hoạn nạn, khốn khổ; như vậy mới là phước huệ
đều tu (tức là đoạn dứt mọi thứ ác bằng cách tăng trưởng việc thiện). Và do đó,
mình sẽ không còn làm việc ác nữa (nhờ vậy, tánh ác tự nó tiêu tan, tâm không
khởi ác niệm nữa).
Chương IV:
Pháp Môn Tịnh Ðộ
1. Tây Phương
Có Phật Hiệu A-Di-Ðà
Chúng ta chỉ
biết mình do cha mẹ sanh ra. Song trước khi được cha mẹ sanh ra, mặt mũi mình ra
sao? Sau khi chết đi, mình sẽ về đâu?
Nay do nghe
Phật Pháp, biết có Ðức Phật hiệu A-Di-Ðà là vị đã phát 48 lời nguyện, rằng ai
niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được tiếp dẫn về Tây Phương. Nếu Phật có nguyện
vậy, thì mình cũng phải phát nguyện: nguyện vãng sanh Cực-Lạc.
Mình phải tin
chắc rằng thật có Thế-Giới Cực-Lạc, có Ðức Phật Ðại Từ Ðại Bi A-Di-Ðà; rồi phải
luôn luôn niệm Phật để đến lúc lâm chung mình mới có chánh niệm. Khi hấp hối mà
có khả năng niệm Phật, thì Ðức A-Di-Ðà ắt sẽ đến tiếp dẫn. Song le, nếu bạn vẫn
còn ý nghĩ lưu luyến bất kỳ thứ gì, dù nhỏ như đầu kim, ngọn cỏ ở cõi Ta-Bà này,
bạn sẽ lại rớt vào vòng luân hồi!
Cái nghiệp
của Phật, Bồ-tát chính là lòng lo lắng cho chúng sanh của các Ngài.
Khi cõi
Ta-Bà còn chúng sanh, thì còn Phật, Bồ-tát. Khi chẳng còn chúng sanh, thì Phật,
Bồ-tát cũng không còn.
Mau mau tu
để về Tây Phương, không thì ở đây khổ lắm! Ở đây bạn thấy nóng nảy, chứ ở Tây
Phương thì thanh tịnh, mát mẻ.
Trần gian
đầy dẫy đấu tranh - mình phải tìm một nơi an lạc như Tây Phương của Ðức Phật
A-Di-Ðà.
Mình đã hồ
đồ, mê muội lúc đầu thai. Giờ đây, mình cần phải sáng suốt tìm đường đi lúc chết
- con đường ấy chính là Niệm Phật A-Di-Ðà.
Tứ Sanh (bốn
loại chúng sanh được sinh ra từ trứng, từ thai bào, từ nhiệt độ ẩm thấp, và từ
sự biến hóa) đều ở trong vòng luân hồi, không gián đoạn sanh tử. Nguyên do là
bởi ý niệm tham lam, phiền não, vọng tưởng... khởi lên khi Sáu Căn (mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với Sáu Trần (hình, sắc, âm thanh, hương thơm, mùi
vị, cảm xúc, pháp). Do đó Sáu Căn tác hại lắm.
Ngày nay, bạn
mà có thời gian để tu hành là quý báu, khó được lắm đấy. Ðể xem bạn có tìm đặng
con đường thoát sanh tử hay chăng. Nếu bạn quá chú trọng, chăm lo cái thân xác
này thì bạn chẳng phải tu hành niệm Phật đâu. Quá chăm sóc cái thân xác này, thì
không có cách gì giải thoát nổi!
Kinh A-Di-Ðà
nói tới Phật ở sáu phương - Ðông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới - đều hiển xuất
tướng lưỡi rộng dài (tức là thuyết Pháp), khiến Pháp-âm trùm khắp ba ngàn cõi
Ðại Thiên Thế-Giới - chủ yếu đều quy nạp về Tây Phương.
Tây Phương ở
đâu? Ở trong tâm mình - khi tâm vô sự, không phiền não, thì đó tức là Tây
Phương.
Tuy rằng
thân ta hiện sinh ở cõi Ta-Bà, song nếu mình niệm Phật mà niệm tới lúc tâm tịnh,
thì cõi Phật sẽ tịnh. Nghĩa là khi tâm thanh tịnh, không phiền não, không vọng
tưởng; thì đó là Tịnh-Ðộ - cõi Tịnh-Ðộ ở ngay giữa Ta-Bà - mà tâm tức là Tây
Phương.
Tây Phương
Cực-Lạc ở tâm ta. Mình cần phải niệm Phật cho tới chỗ tâm thanh tịnh; niệm một
cách đầy chú ý, tập trung. Khi niệm Phật, bạn cần phải phát nguyện vãng sanh Tây
Phương, rời bỏ trần gian khổ lụy. Chớ nên quá yêu quý, nâng niu cái thân xác
thịt này.
Mỗi thế giới
cũng như mỗi hạt cát, trong đó có hằng hà sa số chúng sanh mà ai ai cũng có thể
sinh về Tây Phương được cả.
Hễ mình niệm
Phật thì hoa sen (ở Tây Phương ) sẽ nở ra. Do đó nói: "Tâm khai (niệm Phật) thì
hoa nở."
Niệm Phật
thì mới khiến ta thật sự thanh tịnh. Niệm Phật là con đường dẫn tới Tây Phương.
Hễ niệm Phật thì mình sẽ tới đặng Tây Phương mà chẳng cần phải mua vé tàu, ngồi
phi cơ; bởi thuyền Pháp thì không có sắc tướng.
2. Niệm Phật
Niệm Phật,
tụng kinh, xem Kinh và nói chuyện là bốn việc mà bạn chắc chắn làm hằng ngày.
Tốt nhất là ít nói chuyện. Thời gian tụng Kinh và xem kinh sách không nên nhiều
hơn thời gian niệm Phật là tốt nhất. Niệm Phật vẫn là chủ chốt.
Xem kinh
sách không cần phải quá nhiều. Phàm gặp việc gì, cứ một câu "A-Di-Ðà Phật" là
được. Ðể tránh chuyện thị phi, cứ một câu "A-Di-Ðà Phật".
Bạn hãy yên
lặng, lắng lòng mà niệm Phật; niệm tới lúc ngủ thiếp luôn càng tốt. Khi tâm tới
chỗ chuyên nhất - chỉ một niệm - thì bạn có thể siêu xuất Tam Giới, thẳng tới
Tây Phương. Khi tu hành, bạn cần phải tập: mắt nhìn mà giả lờ như không thấy,
tai nghe mà giả đò như không biết; chỉ thành thật niệm Phật.
Không cần
phải xem nhiều sách vở, chỉ cần niệm Phật cho nhiều. Khi trí huệ khai mở, tất cả
Kinh Tạng tự nhiên sẽ ở tại tâm bạn.
Ði, đứng,
nằm, ngồi, đều nên ở trong phạm vi niệm Phật.
Khi định tâm
lại niệm, bạn sẽ giác ngộ rằng chúng ta từ sáng tới tối, tâm luôn nhắm mắt ra
bên ngoài mà không bao giờ quán xét xem tâm mình có hướng về Phật A-Di-Ðà chăng.
Ðừng để cho tâm bạn bị cột vào đám tín đồ, đệ tử, hoặc cảnh giới bên ngoài. Nếu
bạn cột vào chúng thì sẽ bị chúng xoay chuyển, lôi đi mất; đáng sợ lắm!
Hiện tại các
bạn không đủ chánh niệm, mười phần không được một; do đó thật là nguy hiểm. Khi
bạn niệm Phật nhiều thì đó là Thiền sống.
Có kẻ nói là bế
quan, song họ đầy dẫy vọng tưởng, đầu não không chút thanh tịnh. Khi bạn ngồi
tịnh tọa lâu, thấy mệt thì nên đứng dậy đi rảo.
Khi bạn niệm
Phật mà rời được cảnh giới thì đó tức là Thiền. Bạn phải duy trì chánh niệm, bởi
vì trong tâm bạn luôn còn rất nhiều chủng tử xấu xa.
Khi niệm
Phật mà không có chánh niệm thì lòng bạn luôn nghĩ này nghĩ nọ. Miệng niệm mà
tâm hướng ngoại. Nếu bạn thật sự muốn, thì bạn mới làm cho tâm bạn chuyên nhất
đặng. Nếu bạn không có lòng muốn tu, thì làm sao niệm Phật (cho thành công)?
Niệm Phật mà
rời xa được ngoại cảnh, cùng Phật tương ưng, thì mới biết tâm này và Phật giống
nhau.
Việc quan
trọng nhất khi niệm Phật là phải nghe tiếng niệm cho rõ ràng.
Niệm Phật
tức là vào Trung-Ðạo? không có tốt, không có xấu.
Tuy niệm Phật
cũng là một chuyện huyễn hóa, song nó thuộc về chánh niệm. Do đó, mình dùng
huyễn (niệm Phật) để diệt huyễn (vọng tưởng).
Hỏi: Niệm
làm sao mới chuyên nhất?
Ðáp: Ðây cũng
là chấp trước. Chỉ cần bạn đừng để ý gì tới vọng tưởng là được (thì tâm sẽ
chuyên nhất). Bởi vì mình tự nhủ lòng rằng: "Ðừng khởi vọng tưởng"; song vọng
tưởng vẫn cứ tự dấy khởi. Do đó, hễ để ý tới vọng tưởng thì mình lại sanh thêm
một vọng niệm; càng để ý tới nó thì nó càng tăng!
Khi vọng
niệm nổi lên, bạn đừng sợ. Hãy mặc kệ, đừng chú ý tới nó là xong. Cứ một lòng
niệm "A-Di-Ðà Phật". Vọng niệm vốn không có thực thể, từ từ nó sẽ tan biến mất.
Hễ nhớ tới
niệm Phật thì niệm ngay; không nên chấp trước rằng tôi phải làm thế này thế kia.
Niệm Phật là tuy niệm mà không (chấp trước vào) niệm.
Niệm Phật mà
còn thấy rằng mình đang niệm hay không niệm, thì đều là chấp trước.
Niệm Phật
thì phải tùy duyên. Phàm làm chuyện gì, ở đâu, lúc nào cũng nên tùy hoàn cảnh mà
niệm Phật. Không phải nói rằng: "Tôi cần niệm bao nhiêu, bao nhiêu hồng danh",
hoặc "Tôi đang niệm Phật, không thể làm việc được", hoặc "Tôi đang bận rộn, chưa
đi niệm Phật được... "
Mỗi tâm niệm,
mỗi ý nghĩ, bạn chớ xa rời cảnh giới Phật. Ði, đứng, nằm, ngồi - nhất cử nhất
động, làm gì bạn cũng cứ niệm Phật. Khóc cũng niệm Phật; cất chân một bước cũng
niệm Phật. Sức mạnh của việc niệm Phật vĩ đại vô song, có thể khiến bạn đắc Niệm
Phật Tam-Muội - một thứ Ðịnh không phải tầm thường.
Khi sinh ra,
mình đã mang theo trong người đầy dẫy nghiệp chướng. Do đó, chớ tạo thêm nghiệp
mới để chết rồi lại mang đi; chẳng lợi ích chút nào cả!
Hỏi: Niệm
đức Phật hay Bồ-tát nào thì tốt nhất?
Ðáp: Tất cả mọi
đức Phật và Bồ-tát đều tốt như nhau. Không phải niệm vị này thì tốt hơn niệm vị
kia: đó đều là do bạn phân biệt, so sánh mà ra. Chư Phật, Bồ-tát cũng không nhất
định cần bạn niệm tên các Ngài nữa.
Niệm Phật
tới chỗ tâm định, thì tức là Thiền. Nên nói:
"Vừa Thiền, vừa
Tịnh-Ðộ,
Mười người tu,
mười người thành.
Có Thiền, không
có Tịnh-Ðộ,
Mười người tu,
chín kẻ lạc đường!"
Vừa tịnh tọa
vừa niệm Phật, thì tương đối không đi lầm đường hoặc xảy ra nguy hại.
Nếu tâm bạn
còn tham muốn, ham thích, vương vấn chuyện gì, thì khi lâm chung việc đó sẽ hiện
ra. Bấy giờ, nếu bạn thấy cảnh đó rồi nảy lòng yêu thích, sanh tâm truy đuổi nó,
thì kết quả là bạn sẽ lọt thẳng vào vòng luân hồi!
Nếu bạn biết
dọn lòng trong sạch niệm Phật, thì khi lâm chung sẽ có hoa sen, Phật, Bồ-tát và
cảnh giới thù thắng hiện ra. Do đó, lúc còn sống bạn cần phải tu để trừ cho sạch
hết những ham muốn trần tục.
Khai-thị
lúc Phật-thất:
Mục-đích đả
Phật-thất là để độ chúng sanh vãng sinh Thế-giới Cực-Lạc.
Cõi Ta-Bà thì
có sinh có diệt; cõi Tây Phương thì bất sinh bất diệt. Mình đi xuất ngoại thì
cần tiền mua vé máy bay, chớ tới Tây Phương thì chỉ cần niệm Phật đến độ chuyên
nhất, không còn sắc tướng (chấp trước). Ðó chính là "bất sinh bất diệt" vậy.
Phải niệm Phật thì mới có chỗ để mình ký thác thân mạng này.
Niệm Phật thì
phải niệm niệm không xa rời Phật. Niệm cho rõ ràng, nghe cho phân minh, mỗi chữ
mỗi chữ đều phải rõ. Tâm nhớ tưởng, tai lắng nghe, miệng thầm niệm - cứ thế mà
nhiếp tâm chuyên chú nơi Phật hiệu. Hãy buông bỏ mọi chuyện bên ngoài; cứ nương
theo tiếng niệm thì tâm sẽ tập trung, chuyên nhất. Bất kể là "người niệm" hay
"tiếng niệm", bất kể là "tôi niệm" hay "bạn niệm"; đại-chúng ai cũng nương theo
tiếng niệm Phật thì tâm sẽ chuyên nhất. Tây Phương Cực-Lạc lại cũng dựa theo
tiếng niệm Phật này.
Khi đả
Phật-thất, bạn chớ để cho ý niệm trần tục lôi kéo tâm mình. Nếu không chuyên
tâm, thật uổng cơ hội quý báu này.
Do vậy, hãy một
lòng một dạ niệm Phật, chuyên chú vào tiếng niệm.
3. Niệm Phật
Có Thể Thấy Phật Không?
Hỏi: Phải
chăng niệm Phật thì có thể thấy Phật?
Ðáp: Không thể
có!
Hỏi: Nếu vậy
trong chương Ðại-Thế-Chí Niệm Phật Viên-Thông có câu:
"Nếu ai nhớ
Phật, niệm Phật,
thì bây giờ
hoặc mai sau nhất định thấy Phật;
Chẳng cần
phương tiện gì cả, tự mình lòng dạ mở khai."
là ý gì?
Ðáp: Ðúng! Lòng
dạ mở khai tức là thấy Phật, thấy đặng vị Phật của tự-tánh.
Chư Phật và
Bồ-tát đều có nguyện lực mà ta có thể dựa vào đó để tu hành. Vì thế, lúc đi,
đứng, nằm, ngồi, bạn chớ rời tiếng niệm Phật. Khi niệm Phật thì mình mới tương
ưng với Phật; đây là cảnh giới không có hình hài, sắc tướng gì cả.
Ðừng nên chấp
trước, tự hỏi tại sao Ðức A-Di-Ðà không hiện hình ra tiếp dẫn!
4. Thầy
Quảng-Hóa Tới Tham Phỏng
Coi thầy
công phu hành trì trình độ tới đâu, (tôi nói để thầy nghe) chớ khi lâm chung
thầy cần không vương vấn, quái ngại bất kỳ việc gì thì mới vãng sanh được.
Nếu thầy còn
tham vọng muốn độ chúng sanh, thì tham muốn ấy cũng là một thứ chấp trước, một
thứ quái ngại!
Hòa-Thượng
hỏi: Tây Phương ở đâu?
Thầy Quảng-Hóa
đáp: Nói theo phương vị, thì nó ở phương Tây; nói theo thực tướng, thì nó ở tại
lòng mình.
Hòa-Thượng
nói: Hễ có Phật có Bồ-tát, thì có Tịnh-Ðộ. Thầy phải giảng dạy sao cho người
nghe có chỗ nương tựa để tu hành.
Ðức Phật dạy
rằng nếu người nào trong một ngày, hai ngày..., cho tới bảy ngày mà có thể niệm
Phật đến chỗ "nhất tâm bất loạn", thì Phật (A-Di-Ðà) sẽ đến tiếp dẫn. Song, nếu
không ăn không ngủ thì chẳng cần tới bảy ngày, chỉ bốn hay năm ngày là đủ rồi!
Thầy
Quảng-Hóa nói: Có lần tôi chứng kiến Ðức Quán-Âm hiện ra với tướng mạo trang
nghiêm đẹp đẽ; cả chuỗi anh lạc của Ngài cũng tuyệt đẹp.
Hòa-Thượng
cười, nói rằng: Thật sao? Ở đâu mà có Bồ-tát như thế?
Khi thầy độ
chúng sanh, thầy cần phát nguyện rồi theo đó mà thực hành, như Ðức Quán-Âm,
Phổ-Hiền vậy. Song, đến khi lâm chung, thầy phải buông bỏ hết mọi thứ. Nếu
nguyện của thầy chưa làm xong, thì thầy sanh trở lại đây để tiếp tục độ sinh;
công đức này càng thù thắng, vĩ đại. Nguyện là thứ thầy ghi tạc ở trong lòng.
Phật và
Bồ-tát tuy đã thị hiện nhập Niết-Bàn, song thật sự các Ngài vẫn còn quanh quẩn,
không rời những kẻ đang tu hành như chúng ta; có điều các Ngài không hiện ra
thôi.
Chỉ cần Kinh,
Luật, Luận tồn tại, chư Phật, Bồ-tát có thể dạy mình.
Ðừng cho rằng
không có ai truyền thọ, rồi không còn (Phật Pháp) gì nữa.
Khi lâm
chung, đừng nên để tâm muốn thấy hình tướng chư Phật, Bồ-tát.
Cầu mà không
thấy là việc tốt.
Nếu cầu mà
thấy, thì những hình tướng đó không đáng tin cậy đâu.
Phải không mong
cầu gì; chỉ tịnh tâm niệm Phật. Phật, Bồ-tát từ trong chân tâm thanh tịnh hiện
ra thì mới thiệt đúng.
Phải buông
bỏ (sự chấp trước vào) tấm thân thối tha này. Tâm là tâm. Mặc kệ cái thân này
biến thành tròn hay méo, đừng để ý lo lắng, chiều chuộng nó. Chẳng cần nói xa
xôi, hễ có chứng đắc, thâu hoạch được cái gì thì vẫn còn chưa đúng.
(Ý Hòa-Thượng muốn chỉ sự
chấp trước của Thầy Quảng-Hóa, rằng Thầy còn chấp vào sự kiện mình đã chứng kiến
Ðức Quán-Âm hiện thân).
Trong cái
này (Hòa-Thượng chỉ vào tâm Ngài), chẳng có vật gì cả. Các vị đó (Hòa-Thượng chỉ
nhóm cư-sĩ tại gia đang ngồi nghe giảng) thì vẫn còn đủ thứ.
Hiện tại, các
bạn đêm ngủ nằm mộng mà sáng ngày ra cũng là ở trong mộng.
Các bạn hệt như
đang đóng phim vậy; cuốn phim này dài lắm - cả đời bạn, song chẳng khác gì giấc
mộng ban đêm!
(Hòa-Thượng
khuyến khích Thầy Quảng-Hóa niệm Phật bằng thực-tướng - hình tướng chân thật thì
không hình hài, không sanh diệt; tức là chân tâm? chứ đừng niệm Phật bằng
sự-tướng - còn chấp trước vào hình hài, sắc tướng, công việc trần gian thế sự ).
Ngày hôm nay
tôi nói bấy nhiêu thôi. Kẻ xuất gia thì sẽ lãnh hội được phần nào, chứ người đời
thì không có ai hiểu.
Xưa kia cổ nhân
chỉ nói một câu là đủ, hôm nay tôi nói quá nhiều! Chờ khi về rồi, các bạn từ từ
lãnh hội thì sẽ giác ngộ, thấu suốt hết.
Chương V: Việc
Làm Ba-La-Mật
1. Thẳng Thắn
Làm việc thế
nào mới tốt?
Mọi người cần
cùng nhau chung sức làm. Không phải bạn nói ngoài miệng, sai khiến kẻ khác làm;
đó là thái độ cần tránh. Hãy từ tốn, ôn hòa giải thích cặn kẽ công việc, cách
làm, cho người nghe hiểu rõ ràng. Ví như giải thích việc trồng hoa mà y không
hiểu, bạn hãy làm cho y thấy; nếu không vậy thì công việc sẽ không thông suốt,
cả bạn và y đều sanh phiền não.
Khi
sư-huynh, sư-đệ làm việc chung, hay khi phân phối công tác, các bạn phải dựa vào
tinh thần Phật Pháp mà làm--phải lịch sự, lễ độ.
Ðừng nên lớn
tiếng ra lệnh, sai cái này, chỉ cái nọ... như là cha sai con, chủ sai tớ; đó là
cách thế tục, không tốt!
Ðừng sợ mích
lòng kẻ khác.
Bạn làm quản lý
thì phải ráng làm cho tốt. Hễ điều gì cần nói thì phải nói; chớ vì tình cảm
riêng tư (việc cần nói mà không nói), để tránh mắc cái lỗi trồng nhân sai lầm.
Làm quản lý
không phải dễ. Do đó hễ Thầy Quản-lý giao phó bạn chuyện gì--bất kể tốt,
xấu--bạn hãy vui vẻ tiếp nhận, đừng nổi nóng. Như vậy, đầu óc mới sáng suốt.
Ðiều tốt thì
lượm về học, điều xấu thì vất một bên. Trong lòng thấu suốt rõ ràng là đủ. Cứ
theo đây để tu hạnh Nhẫn-nhục Ba-la-mật.
Khi tu hành,
bạn đừng hỏi "đúng" hay "sai", cũng đừng quan tâm "có lý" hay "vô lý." Ðó là
điểm khác biệt giữa người xuất gia và tại gia.
Các bạn hãy nỗ
lực tu hành. Có vấn đề khó khăn thì hỏi Sư-Phụ, tôi sẽ giải đáp cho.
Thầy Quản-lý
nói bạn làm sao, bạn cứ làm vậy. Với thái độ này, đầu óc bạn sẽ không nghĩ ngợi
lăng xăng; và như thế, sẽ dễ dàng tu hành.
Nếu Thầy
Quản-lý nói bạn làm việc mà Thầy lại làm sai, thì bạn chớ tranh cãi, cứ thuận
theo ý Thầy mà làm; tự nhiên bạn sẽ thể hội được chân lý chuyện này.
Việc gì
không rành rẽ, bạn nên hỏi Sư-Phụ hay sư-huynh.
Ðừng vì sợ mất
mặt, rồi tự mình đặt bày làm càn.
Mục đích bạn
làm việc là để tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình, không phải làm cho kẻ
khác. Khi nhiều người làm chung, hễ ai không biết, bạn hãy chỉ bảo cho người ấy.
Nếu y làm không giỏi, bạn hãy tận tình giúp đỡ y.
Ðừng nên phân
chia ranh giới giữa mình và người quá rõ rệt (đây là việc "của tôi", kia là việc
"của anh"). Hễ người nào không làm, bạn chớ nổi nóng, bực dọc, mà nên vui vẻ làm
thay cho người ấy. Hãy luôn luôn có lòng từ bi (độ lượng, biết tha thứ)!
Khi làm việc
gì, bạn chớ tính toán lợi hại riêng tư.
Hễ thấy việc gì
làm chưa xong chưa tốt, bạn hãy tới làm. Ðừng nói gì tới kẻ khác (chỉ trích, cật
vấn sao anh không chịu làm...), vì công đức của việc làm là thuộc về bạn. Nếu
bạn cứ nói tới người khác thì chỉ tạo thêm khẩu nghiệp.
Làm việc là
cách để mình tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình, chứ không phải làm giùm ai
khác.
Làm việc gì
mình cũng sẵn lòng tình nguyện (không phải bị bắt buộc mới chịu làm), thì trí
huệ sẽ phát triển.
Việc làm
công quả ở chùa hoàn toàn "vô điều kiện" (không ai bắt ép, không ai yêu cầu, bạn
muốn thì tình nguyện làm); do đó, khi đã làm bạn chớ oán than, trách móc.
Việc của
mình thì mình cố gắng làm; đừng sai kẻ khác, khiến họ bực dọc. Làm cho người ta
bực bội, khó chịu, thì mình sẽ không có công đức gì cả. Trường hợp người ta tự ý
đặc biệt tới giúp mình thì khác.
Ðừng chấp
trước gì cả, chuyện gì cũng tùy duyên.
Khi có Thầy hay
sư-huynh lại giúp bạn, nếu bạn cảm thấy e ngại, sợ rằng tổn phước, hoặc nghĩ là
không xứng đáng để người ta giúp đỡ, hoặc bạn sợ để người ta giúp mình thì họ sẽ
hưởng hết phước đức; những ý tưởng như thế đều là chấp trước.
Muốn kẻ khác có
phước, trước hết, mình phải có phước thì mới nhường cho họ được chứ!
Thầy Quản-lý
vì có lòng quan tâm lo lắng cho mình, nên Thầy mới quở trách mình, vạch rõ lỗi
làm của mình cho mình biết.
Thầy ấy chính
là bậc Thiện-tri-thức--người chỉ đường tu.
Ðừng vì bị mắng
một tiếng mà liền khó chịu, bực dọc, sinh phiền não.
Bạn hãy luôn
vui vẻ tiếp nhận lời chỉ bảo, khuyên lơn, khuyến khích (hay phê bình, chỉ trích)
của người khác. Ðừng bao giờ phản kháng, ương ngạnh, bất phục; rồi kết đảng phân
phái, kình chống, thù hằn nhau.
Ví dụ bạn
lau chùi bàn ghế, Sư-Phụ nói bạn hãy lau chùi lại lần nữa, bạn có thể nghĩ rằng:
"Tôi đã chùi sạch như vầy rồi, sao Thầy còn bắc tôi chùi lại nữa?" Ðó là thứ suy
tư của người đời, thế tục.
Tu hành thì bạn
cần có tâm thẳng thắn: "Dạ! Con sẽ lau lại ngay!" Ðây cũng là một thứ thử thách
lòng bạn, xem bạn có tu tâm hay không. Do đó, tu hành quý ở trực tâm--tâm thẳng
thắn. Ðây chính là cách làm việc của người xuất gia.
Nếu bạn biết
làm việc, thì đi đâu bạn cũng tự tại.
Hãy tận tình
với trách nhiệm.
Nếu cứ ăn no
rồi làm biếng, không tròn bổn phận, thì khi phước báo cạn hết, nghiệp chướng ập
tới, tự nhiên bạn sẽ không thể ở chùa nổi (tức là phải hoàn tục)!
2. Nhẫn Nại
Làm việc lao
tác là để rèn luyện chính mình. Do đó, chỉ cần bạn làm, là biết bạn như thế nào.
Khi làm việc mà bạn biết bạn như thế nào. Khi làm việc mà bạn chuyên tâm, thì
đến lúc học Phật, niệm Phật, bạn cũng chuyên tâm; bạn sẽ tự thấy thấu suốt. Ví
như khi quét dọn, ở đâu chưa sạch, dù là còn chút xíu bụi, bạn cũng tự biết,
chẳng cần ai nói ra. Nhờ tánh chuyên tâm chú ý, nên bất kỳ việc gì, chỉ cần nghe
qua một lần là bạn tự biết cách làm, và làm tốt.
Làm việc lao
tác, bạn cần biết nhẫn nại.
Ví như khi quét
dọn lau chùi, bạn làm thật sạch sẽ; thì đó cũng giống như bạn đã lau chùi tâm
mình sạch sẽ, thanh tịnh vậy.
Hãy vừa làm vừa
niệm Phật, không nên lơ là, phóng dật.
Ðừng để ý thức,
tâm tư, chạy lăng xăng thì thân, miệng, ý mới thanh tịnh.
Khi làm gì,
bạn hãy cẩn thận làm cho chu đáo, hoàn hảo việc ấy. Ðừng nên tham lam, việc gì
cũng làm, rồi kết quả là không việc nào xong cả!
Việc gì cũng
phải nhẫn nại; niệm Phật cũng thế. Cứ từ từ tu thì tâm sẽ hết phiền não; sau này
sẽ không khác gì Ðức Phật A-Di-Ðà; vô cùng tự tại!
Làm gì cũng
chớ có lòng chấp trước, cố chấp.
Có lúc gặp
phải chuyện gì đó, mình muốn làm cho thật hoàn mỹ, thật lý tưởng; rồi quên bẵng
người khác, không để ý tới họ. Ðó là mình quá chấp trước vào công việc, quá truy
cầu (thành công).
Mỗi ngày làm
việc gì, hãy làm cho rõ ràng, với tâm lúc nào cũng hướng về Phật, cũng trên
đường Ðạo. Như vậy thì quét rác bạn cũng có thể ngộ Ðạo, vì tâm bạn lúc ấy chính
là đang quét bụi bặm vô minh!
Các bạn làm
việc biên chép sổ sách giấy tờ (tại văn phòng của chùa) thì kết được thiện-duyên
rất lớn với chúng sanh; khác hẳn với người đời khi họ cũng làm việc ở văn phòng
hay công sở. Công đức của bạn cũng bằng với công đức tụng công-phu buổi chiều
vậy; cho nên bạn chớ so sánh rồi sanh lòng bực bội, phiền não.
Ðừng nên
chấp trước vào hình sắc, tướng trạng; cũng đừng câu nệ chuyện ăn mặc, không vừa
ý cái này, chẳng ưng ý cái kia. Nếu không, rốt cuộc bạn đã chẳng làm được việc
gì giúp chùa mà lại còn bị áo quần, ăn mặc lôi cuốn.
Mình cần xả
thân làm bất kỳ việc gì cho chùa.
Nếu quá lo lắng
gìn giữ cái thân này, thì khó mà tu phước đặng; ngược lại, còn bị cái "túi da"
thối tha này lừa mình nữa.
Cứ theo lời
tôi mà tu hành; vừa làm vừa niệm Phật.
Trừ hết chấp
ngã và chấp pháp, thì trí huệ mới khai mở. Trí huệ thì không có sắc tướng gì cả,
không thể sờ mó, cầm nắm nó đặng. Song, nếu trí huệ khai mở, tuy mình không
biết, nhưng hễ gặp việc gì, nhìn qua là mình thấu triệt, biết phải làm gì ngay.
Ðó là trí huệ thật vậy!
Việc niệm
Phật phải được phối hợp với việc làm. Niệm Phật cho đến lúc tâm yên tĩnh, thì
lúc ấy chính là tự tánh mình niệm, tức là nhất tâm rồi đó. Khi làm việc, cũng cứ
niệm Phật; mà kẻ khác thì không biết là mình đang niệm. Cứ chuyên tâm làm việc,
đừng khởi vọng tưởng hay nghĩ ngợi gì khác, thì đó mới là nhất tâm, cũng là tâm
Phật, hợp với Phật Ðạo vậy.
Chỉ khi có
chánh niệm thì điều gì mình biểu hiện hay làm ra mới mang tánh cách từ bi; quan
điểm mình có cũng tự nhiên là chín chắn, đúng đắn. Ðây cũng là tâm Phật vậy.
3. Khéo Léo
Hỏi: Sư-phụ
nói rằng chúng con không nên chấp trước. Nhưng nếu không chấp trước, thì công
việc làm sao làm tốt đặng?
Ðáp: "Không
chấp trước vào công việc" không có nghĩa là chểnh mãng, lơ là, thiếu trách
nhiệm, bê bối, cẩu thả; cũng không phải là làm thục mạng, cắm đầu cắm cổ làm quá
trớn; mà nghĩa là làm việc gì xong rồi thì coi như không có gì xảy ra cả.
Khi lòng bạn
còn để ý, còn quái ngại, lo nghĩ về công việc, không buông xả được; thì đó là
chấp trước. Khi làm việc với thái độ không chấp trước, thì mới làm tốt đặng. Hễ
chấp trước, việc làm sẽ không tốt được; vì chấp trước thì thiếu trí huệ, mà làm
việc cũng còn cần phải có Ðịnh-lực, cần phải có sự tập trung, chuyên chú nữa!
Làm việc gì
cũng cần dùng trí óc, suy tư cho thấu triệt; chứ không phải ai nói sao thì mình
cứ y lời mà làm theo một cách cứng ngắc (câu nệ, không biết uyển chuyển vận
dụng).
Cần phải có
năng lực phán đoán, biện biệt; đừng như con chó ngu dốt, thấy người ta quăng cục
đá, nó không biết là quăng cái gì mà cũng chạy theo tha về!
Làm gì cũng
phải định trước kế hoạch; chớ có bê bối cẩu thả, làm qua loa lấy lệ rồi thôi!
Phải xử lý
những công việc và những đồ đạc trong chùa thật thích đáng, viên mãn. Như trồng
một khóm cây, nếu bạn không quyết định kịp thời để trồng cho đúng lúc, thì cây
sẽ chết khô; lúc ấy, lỗi lầm là ở bạn.
Bớt dùng trí
óc--nhưng không có nghĩa là đừng suy nghĩ về công việc, mà có nghĩa là việc gì
tới tay, làm xong rồi thì thôi!
Ðừng nên khởi
tâm phân biệt (bàn bạc, khoe khoang, than vãn...), làm sanh ra đủ chuyện thị phi
(tranh chấp, cãi cọ, lý luận...).
Ðối với công
việc thì như vậy; đối với người khác thì cũng lại như thế!
Chương VI:
Hạnh Xuất Gia
1. Xuất Gia Ðể
Làm Gì?
Ðã xuất gia
rồi, bạn phải hiểu ý nghĩa của việc đi tu. Bạn phải tự chủ; chớ để kẻ khác xỏ
mũi lôi đi. Việc cần nghe thì nghe; việc chẳng đáng nghe, đừng nghe; mỉm cười là
đủ.
Hãy thường
nhìn thủng tấm áo nâu sòng, tự sờ đầu trọc, mà cảnh giác chính mình: "Ta là
tăng-sĩ!" Nếu không làm vậy, đôi khi bạn quên phắt, bất giác để tâm chạy rông,
không còn là tâm của kẻ xuất gia nữa.
Sáng vừa
thức dậy, bạn hãy lập tức sờ đầu mình, tự hỏi: "Vì sao tôi đi tu?"
"Vì liễu sanh
thoát tử, vì chấm dứt luân hồi!"
Tu cho có
đức hạnh là điều quan trọng nhất.
Ở chùa để làm
gì? Chính là để tu đức hạnh, tu cái bản lai diện mục.
Bạn cứ xem xét
những thứ chung quanh Sư-Phụ thì sẽ hiểu ngay. Nghe xong việc gì, bạn cũng phải
cố thể hội, chớ để thoáng qua tai.
Những Tăng,
Ni trẻ tuổi thì tình cảm còn nặng nề lắm. Song, thân đi tu thì đầu óc cũng phải
đi tu. Ba nghiệp thân, miệng, ý của người xuất gia thì hoàn toàn khác hẳn của kẻ
tại giạ Bạn phải biết làm sao để liễu sanh thoát tử. Mục đích mình tu, điều mà
mình đeo đuổi, chính là thoát khỏi vòng sanh tử!
2. Con Ðường
Siêu Thoát Của Người Tu
A.
Trước và Sau Khi Thọ Giới
Chưa hiểu
thông Phật Pháp mà đã thọ Giới, thì rất dễ sanh tâm cống cao, ngã mạn.
Bạn chớ mù
mù mờ mờ xuất gia, rồi mù mù mờ mờ thọ Giới. Thọ Giới là vì cầu sám hối, không
phải là lết cái thây đi, lết cái thây về.
Khi ở Giới-đàn,
bạn hãy ít nói, ít cùng người khác trao đổi (hay phan duyên). Hễ có thì giờ thì
hãy lạy Phật, niệm Phật.
Ở Giới-đàn,
người cầu thọ Giới tới từ mọi nơi, nên luôn luôn đông nghẹt. Phải nhớ rằng, mình
đến đây không phải để thi đua với họ xem ai mặc đẹp hơn, ở tốt hơn, hay ăn ngon
hơn!
Khi đi thọ
Giới, nếu bạn chịu khó, nhẫn nại, thì sẽ nhập Ðạo được.
Phàm chuyện gì
(ở Giới-đàn) cũng rất đơn giản; bạn chớ cùng kẻ khác so sánh xem ai ăn ngon, ngủ
tốt, hoặc chuyện này ra sao, chuyện nọ thế nào... Thọ Giới là lúc học oai nghi,
quy củ; chứ không phải là lúc bàn luận, nói chuyện thị phi, tạo khẩu nghiệp.
Sau khi đã
thọ Giới, bạn phải hoàn toàn khác biệt so với lúc chưa thọ Giới--lấy Giới làm
Thầy, làm thêm nhiều khổ-hạnh, quét sạch, sửa đổi hết mọi thói hư tật xấu, dứt
tuyệt mọi ý nghĩ xấu ác.
Bạn phải
luôn thường tụng Giới; như vậy mới không có những thứ ái tình yêu đương lăng
nhăng.
Có Giới Luật
câu thúc, kềm giữ, thì bạn mới không dễ làm điều sai, chuyện quấy.
Thọ Giới là
thọ sự nhẫn nhục. Khi tai bạn nghe người ta chưởi rủa hay khiêu khích, chọc tức
mình, mà bạn chẳng để tâm vào, thì đó chính là Giới.
"Giới" là
giới nội (tự răn chế mình), chứ không phải là giới ngoại (kềm chế kẻ khác).
Ngay lúc lòng
bạn vừa dấy lên một ý niệm xấu ác, bạn hãy dùng Giới Luật để ngăn chận nó lại.
Ðó gọi là lấy Giới làm Thầy.
Cần phải học
thuộc Tỳ-Ni Nhật Dụng và ứng dụng hằng ngày.
B. Vất
Bỏ Danh Lợi
Khi chưa thọ
Giới, vì không biết quy củ, Giới Luật, nên bạn có phạm Giới; đó là không cố ý.
Nay đã thọ Giới; hiểu Giới mà phạm Giới, thì đó là cố ý. Tội này nặng lắm. Thọ
Giới rồi thì phải giữ Giới, hảy y theo Giới Luật mà tu hành.
Thọ Giới
không phải là thọ mấy cái giới-ba (cái dấu đốt trên đầu). Giới là ở tâm. Do đó,
khi biết mình làm điều gì sai quấy, hãy lập tức sám hối. Khi bạn trì Giới đàng
hoàng, thì sẽ không còn tướng (hay quan niệm về) nam nữ nữa.
Thọ Giới rồi
thì phải đem Giới ra thực hành. Không phải thọ Giới xong là lên chức Ðại Ðức,
Ðại Pháp-sư. Giữa người tu với nhau không hề có sự phân chia cao thấp.
Có nhiều kẻ
đi thọ Giới lại học được thêm lòng tham lam. Ðến khi về chùa thì trở nên ham
hưởng thụ, thích ăn ngon, mặc đẹp, ở chỗ tốt; không còn biết gì về dũng mãnh,
tinh tấn nữa.
Trong Giới
Luật có dạy rõ quy củ của mọi việc, đến cả việc của Thầy Chấp-sự. Bạn phải học,
đọc cho thấu đáo, thì mới không dễ phạm sai lầm; và sau này nếu có ra làm
chấp-sự, bạn mới làm việc tốt đặng.
Giới là để
răn chính mình; do đó, cầu sám hối cũng là Giới.
Giữ Giới,
nhưng đừng đi tới chỗ cực đoan, chấp trước. Nếu không, tuy mình có ý giữ Giới mà
kết quả lại là bị Giới đẩy văng đi. Bởi vì, giữ Giới thì không sanh phiền não
(làm cho mình hoặc người khác phiền não, đau khổ) và không xung đột với kẻ khác.
Khi bạn có
tướng mình, tướng người (phân biệt ranh giới giữa tôi và anh, của tôi và của
anh), chắc chắn bạn sẽ dễ gặp tranh chấp. Tới chùa xuất gia, không phải là để
đấu tranh, cãi vã. Xuất gia thì phải "thống lý đại chúng", hòa hợp với mọi
người; được vậy thì ai cũng tốt.
Tới chùa
xuất gia, không phải là để tranh chấp coi ai đúng ai sai. Thái độ đó rặt là thứ
thế tục, lúc nào cũng chia ra mình và người.
Ðã xuất gia
tu hành thì không cạnh tranh, ganh đua, cũng không cãi vã hơn thua, ít nhiều,
đúng sai...; mấy thứ đó toàn là "mùi" danh lợi.
Khi
Hòa-Thượng nói: "Người xuất gia không được tham danh hám lợi. Vì hễ có lợi tất
sẽ có hại, do đó, không được nuôi dưỡng lòng ham muốn danh lợi"; thì có người
hỏi: "Vậy như hiện nay, danh tiếng của Sư-Phụ vang lừng bốn biển thì sao?"
Hòa-Thượng trả
lời: "Ta cũng không hề hay biết gì tới nó, vì chúng đều là huyễn hóa. Không ai
biết gì về mình là hay nhất!"
Người hỏi gật
gù: "Ðó mới chính là công phu chân thật!"
C. Ðiều
Cái Tâm Này!
Bây giờ các
bạn tuy đã xuất gia, song các bạn giống như ở tại biển cả mênh mông, tìm không
ra lối thoát vậy.
Người xuất
gia cần phải vô sở cầu (không có mong cầu gì cả) và vô sở trụ (không để cho tâm
vướng vào bất kỳ chuyện gì, việc gì, hay quan niệm, tâm trạng, tình cảm gì).
Bạn phải tu
tánh; tức là sửa đổi tánh nết, thói quen xấu; cũng tức là tu Phật-tánh. Mỗi
người, ai cũng có Phật-tánh thanh tịnh; Phật-tánh này chính là Ðạo.
Bạn nên tùy
thuận tánh tình của kẻ khác (chớ sinh xung đột), hòa hợp với mọi người.
Xuất gia là
để trị cái tâm lăng xăng như khỉ, sửa cái ý chạy rông như ngựa.
Xuất gia thì
phải dụng công làm việc trong mọi thời mọi lúc, phải niệm Phật để điều phục cái
tâm.
Người xuất
gia nên niệm Phật cho nhiều, không nhất định là cứ phải ngồi Thiền; bởi vì khi
công phu Thiền chưa chín muồi, bạn dễ bị dính vào ma sự.
Người xuất
gia cần phải xả thân--ai chưởi rủa, hạ nhục, chê bai, dằn vặt, xử tệ..., bạn
phải dửng dưng như không. Phải quét sạch sành sanh mọi quan niệm về tự ngã (cái
"tôi", của "tôi") thì mới tu hành nổi.
Ðã xuất gia
rồi, bạn phải dẹp sạch lòng tham lam ăn uống, ngủ nghỉ, ở sướng; như vậy thì bạn
mới tu đặng phước, huệ. Ðừng như kẻ tại gia; đầy thứ tham luyến. Tăng là một
trong ba viên ngọc (Tam Bảo--Phật, Pháp, Tăng). Do vậy, là Tăng (Ni), bạn phải
tu cho giỏi cho tốt; mà duy chỉ có đạm bạc, đơn sơ thì mới có thể tu hành Giới,
Ðịnh và Huệ.
Chùa là đạo
tràng công cộng. Những Tăng, Ni từ các chùa khác lại, nếu họ giữ được quy luật
thì đều có thể ở lại chùa để tu.
Công hạnh
của người xuất gia là tu ở sắc, thọ, tưởng, hành, thức--năm Ấm; tu để khiến
chúng đều "không." Do đó, hãy mặc áo vải thô, ăn cơm đạm bạc. Ðiều này không có
nghĩa là bạn tuyệt thực, mà nghĩa là ăn đủ no, mặc đủ ấm là tốt rồi; không được
tham lam, đua đòi.
Về chuyện ăn
uống; đối với người xuất gia thì ai cho gì, nấu gì, thì ăn nấy. Không được chấp
trước, kén chọn; không được ham ăn, thích ngon. Ðồ ăn ít một tí, hư thiu một
chút cũng vẫn ăn. Nếu cứ ham ăn, thích ngon, thì nghiệp của bạn không dễ tiêu
trừ đâu. Nếu bạn còn khởi lòng tham ăn, thì luân hồi thoát không lọt! Kỳ thật,
thức ăn gì nếu đem thử nghiệm thì cũng có thể tìm ra độc tố. Khi đại-chúng ăn
thức gì thì bạn ăn thức nấy là đủ rồi; đừng sinh bực dọc, khó chịu quái ngại đủ
chuyện.
Người xuất
gia đừng bao giờ sợ chết. Chết thì về Tây phương, càng tốt chớ sao!
Người tu cần
phải có sức mạnh "biến vạn sự thành vô sự" mới được!
Khoác trên
mình tấm cà-sa rồi, bạn phải tu đến chỗ không còn bị việc gì làm quái ngại, bận
tâm. Không quái ngại, bận tâm về chuyện thế sự; không vướng lòng vào việc nhân
tình... Hết thảy mọi sự, hễ quái ngại là thừa.
3. Tự Ðộ
A. Chùa
Thập Phương
Chùa thì ai
cũng có thể tới ở để tu được. Kẻ tới trú phải giữ nội quy do chùa đặt ra. Bạn
không được coi mặt người tốt xấu, rồi tự tiện làm theo ý mình, muốn cho ai trú
thì trú.
Khi có người
tới trú ở chùa, bạn không được có tâm phân biệt, so sánh, chuyên môn kể lể
chuyện xấu, lỗi lầm của người ấy. Làm vậy, bạn sẽ khiến người tu khó tu. Chỉ cần
y tôn trọng, tuân theo nội quy của chùa là đủ rồi.
Ðừng nên so
sánh, phân biệt vị này là đệ tử của ai, vị kia là đệ tử của ai. Hễ người nào
tuân giữ Giới Luật, quy củ, thì đều giống nhau hết. Ai ai cũng là đệ tử của
Phật. Nếu bạn cứ chia ra rành mạch rằng: "Thầy là kẻ ở ngoài tới, tôi là đệ tử
của Sư-phụ ở chùa này..."; thì bạn chẳng phải là thầy tu!
Là người xuất
gia, bạn chỉ cần tu hành cho đúng với giới Luật. Hễ bạn tu đàng hoàng thì đi tới
đâu bạn cũng được mọi người cung kính, đến cả Thiên, Long, Bát Bộ cũng ủng hộ,
bảo vệ bạn, và chùa ở nơi nào cũng đều là nhà của bạn!
B. Chỗ
Lầm Lẫn
Khi bạn tu
hành, nhất định bạn phải tu ở chùa lớn (đại tùng-lâm). Tu ở những nơi có
đại-chúng đông đúc thì mới có thể rèn luyện thành bậc nhân tài.
Khi tu, cần
phải tu ở chùa lớn, đông chúng. Bởi vì chỉ ở chốn nhiều người bạn mới biết và
học được kinh nghiệm từ những điểm xấu. Những kẻ xấu ác trong chùa đều là những
kẻ chỉ đường để bạn biết mà tu tiến bộ hơn. Ða số các Tổ-sư đều xuất thân từ chỗ
làm bếp, trồng rau, chẻ củi... trong chùa. Chính những chỗ không ai thèm chú ý
tới, không ai giành làm, mới là nơi để bạn tu hành!
Khi bạn tu ở
chùa lớn, hãy chịu kham khổ về chuyện ăn, ở, mặc. Mắt bạn hãy làm như chẳng thấy
gì, tai bạn làm như không nghe gì, giống hệt tên khờ. Cứ vậy mà tu thì Ðức Hộ
Pháp Vi-Ðà chắc chắn sẽ bảo vệ bạn. Sau này khi bạn đi đến đâu, ai thấy cũng
kính trọng bạn như Phật vậy. Bấy giờ, bạn muốn xây chùa thì lập tức sẽ có kẻ ủng
hộ ngay.
Ngày nay
chúng ta đã có một ngôi chùa tốt, một đạo-tràng lý tưởng để tu hành; bạn chớ có
vọng tưởng, tính toán coi ở chỗ nào còn có chùa tốt hơn.
Khi lòng bạn
không an định thì không cách gì bạn có thể tu hành được!
Hỏi: Tôi
muốn rời chùa này tới chùa khác tu, hiện nay có ba chỗ; không biết ý Hòa-thượng
thì chỗ nào có nhân duyên với tôi?
Ðáp: Bạn ra đi
là vì tâm bạn không an ổn hay là vì chùa không an ổn?
Nếu tâm bạn
không an thì dù bạn có chạy tới Tây Phương, bạn vẫn không an tâm.
Khi tâm bạn
lăng xăng, bứt rứt, chạy rông, mà bạn chuyển nó ngay tức thời, thì tâm sẽ an
định. Do đó, giữ Giới Luật là việc cực kỳ quan trọng. Hễ bạn giữ Giới thanh tịnh
thì tâm sẽ thanh tịnh. Khi tâm bạn không an ổn, nhìn việc gì bạn cũng có
ngã-tướng (chấp chặt vào quan niệm về mình và của mình); do đó bạn phải nhìn mỗi
một sự việc đều không phải là ta, và cũng không phải là của ta.
Muốn tới Tây
Phương, bạn phải tu tới chỗ tâm không còn loạn, tức là vọng tưởng không ùn ùn
nổi lên nữa. Khi đối diện với bất kỳ chuyện gì, lòng bạn cũng chỉ có một niệm
thanh tịnh, thì đó chính là Tây Phương.
Tâm không an,
thì vọng tưởng cứ lăng xăng mãi. Do vậy, bạn phải lấy tâm để an tâm; nếu không
vậy thì làm sao "an"? Khi tâm bạn muốn chạy rông, hảy tự hỏi rằng nó muốn chạy
đi đâu.
C. Thăm
Viếng Học Hỏi
Ở Ðài-loan
không có chỗ nào để thăm viếng học hỏi, nên bạn hãy tự mình nghiên cứu chính
mình là đủ.
Ðừng nên bồn
chồn, bứt rứt, nóng nảy.
Thiện-tri-thức
ở đâu? Ở lòng mình!
Khi lúa
chín, đầu bông lúa nặng trĩu nên cong oằn xuống; khi lúa chưa chín thì đầu ngọn
đứng thẳng vút. (Kẻ hiểu Ðạo, tu hành thành thục, thì hạ thấp mình xuống; còn kẻ
mới tu Ðạo thì lúc nào cũng tự cao, không biết uốn mình.) Ðối với người tu không
tốt, bạn cũng phải tham phỏng học hỏi; bởi kẻ tu xuất sắc thì hiếm khi tìm thấy,
mà e rằng bạn cũng nhìn không thấu chỗ xuất sắc của người ta là ở đâu. Do đó, đi
thăm viếng học hỏi kẻ xấu cũng đúng; bởi vì thấy được điểm xấu, điều lỗi lầm của
họ, bạn hãy dùng nó để tự cảnh giác, thức tỉnh chính mình; tự hỏi mình có lỗi
làm tương tự hay chăng, và tránh phạm lỗi ấy.
Tham phỏng
học hỏi là phải nghiên cứu điểm xấu, điểm hư của người ta. Họ phạm lỗi ấy ư?
Mình phải tu sao để đừng phạm nó! Họ không tu đúng Giới Pháp; mình phải tu sao
cho đúng Giới Pháp!
Bạn xuất gia
là vì mục đích tu hành, do đó đừng nên ra ngoài học thêm pháp thế gian. Những
điều ở trường Phật-Học-Viện dạy chưa chắc hoàn toàn là Phật Pháp, Phật-học, vì
luôn bị xen tạp bởi những môn như Xã-hội học, Kinh-tế học, v.v... Nếu bạn cứ ở
gần những môi trường như vậy, lâu dần thì tâm bạn sẽ không cách gì thoát ly nổi
thế tục.
Khi các bạn
đến với đạo Phật, cạo đầu đi tu, hãy xem bạn có thể liễu sanh thoát tử hay
không; đó là điều bạn chẳng thể không hiểu. Như đã đi tu lại còn muốn đi học
kiếm bằng cấp, thêm kiến thức; thử hỏi ở trường học có ai dạy bạn mặc áo thô, ăn
cơm đạm, buông xả để tu hành chăng?
Nhiều
Tăng-sĩ đã xuất gia rồi, lại đi học ở Phật-Học-Viện. Sau khi tốt nghiệp, họ chỉ
tăng trưởng lòng ngã mạn, tự cao tự đại, cứ muốn làm Trụ-trì. Song, họ nhờ vào
đâu để "thống lý đại chúng", khiến mọi người hòa hợp, vui vẻ tu hành? Họ không
làm sao có năng lực để cảm hóa tha nhân; cũng không ai chịu nổi họ!
Do đó, bậc
Tăng-sĩ phải thiết thực tu hành khổ-hạnh, niệm Phật cho nhiều, phước huệ song
tu.
D. Quan
Hệ Giữa Kẻ Ðồng Tu
Làm thân đồ
đệ, nếu bạn biết Thầy của mình có lỗi lầm gì, dù lớn đến đâu, bạn cũng chớ nói
với kẻ khác. Bởi, nếu bạn làm như vậy, thì đó cũng là một hành động lỗi lầm!
Sau khi nghe kẻ
khác nói về lỗi lầm của vị Thầy của y, bạn đem những điều đã nghe ấy kể lể với
mọi người, thì bao nhiêu tội của y đều quy vào thân bạn. Bởi vì đó là phạm lỗi
nói điều xấu của các vị đồng tu.
Ðối với các
huynh đệ đồng tu trong chùa, bạn không có gì phải sợ sệt cả. Hãy tôn trọng, cung
kính lẫn nhau.
Khi muốn nhờ ai
làm việc gì, bạn đừng dùng thái độ ra lệnh (như lớn tiếng, ra oai, nói cộc lốc),
sai khiến họ giống như cha sai con, chủ sai tớ; bởi đó là thái độ của kẻ thế
tục.
Mình là người
tu Ðạo, thì phải lấy Phật Pháp làm mô phạm (tức là dùng lời nói nhỏ nhẹ, từ tốn,
cung kính yêu cầu họ làm việc).
Khi anh em
huynh đệ ngồi với nhau, các bạn nên đàm luận về Phật Pháp. Ðừng bàn tới mọi đề
tài khác để tránh loạn tâm. Ðừng nên tham gia tán gẫu, nói những chuyện vô
nghĩa, phí thì giờ.
Khi trong
huynh đệ có người nói chuyện về Phật Pháp, thì đừng nên xen chuyện thế tục vào.
Nếu không, càng nói càng lạc để xa lắc. Hơn nữa, khi đã nói chuyện thế tục, thế
nào bạn cũng đề cập tới chuyện ăn uống, thức này ngon, thức kia dở v.v...
Hai chúng
Tăng và Ni phải phân ra ranh giới cho rõ ràng. Các vị sống tới trăm tuổi cũng
phải phân rành mạch như vậy. Trừ phi bạn đã khai ngộ, chứng quả, có được
Ðịnh-lực sâu dày; bằng không, bạn sẽ rất dễ phạm lỗi lầm, gây ra đủ vấn đề phức
tạp.
Khi Tăng và
Ni nói chuyện với nhau, các vị không được mặt đối mặt, mắt ngó mắt. Khi Tăng và
Ni cần trao đổi, đưa vật gì, thì hai bên cũng không được chạm tay nhau.
Sư-Phụ tu có
Ðịnh-lực; bằng không, Ta cũng không thể để mấy cô tới gần trong tầm một trăm
bước nữa. Các vị bây giờ chưa có được một phần mười chánh niệm; do đó, các vị
vẫn còn ở trong vòng rất nguy hiểm, nên cần phải chú ý cho kỹ.
E. Nhẫn
Nhục
Thọ Giới tức
là nhẫn nhục. Nếu bạn có thể nhẫn nhục chịu đựng hết mọi sự, thì bạn sẽ khó mà
phạm Giới.
Bạn phải tu
nhẫn nhịn vì nhẫn là gốc của việc tu. Nếu không biết nhịn nhục thì chỉ uổng cho
bộ áo nhà tu đang khoác trên mình. Bạn chớ luôn cho rằng hễ việc gì mình làm là
đúng (kẻ khác là sai); thái độ ấy sẽ làm cho bạn khó tu tâm.
Dựa theo
lòng nhẫn nại mà tu hành thì mới là tu căn bản. Kết quả là đi tới đâu bạn cũng
có năng lực cảm hóa người khác. Do đó, tu hạnh Nhẫn-nhục mới có đức hạnh; ai
thấy bạn họ cũng sẽ sanh lòng hoan hỷ, và bạn có thể hóa độ họ.
Sau khi đã
xuất gia, bạn phải xem hạnh Nhẫn-nhục là cao nhất, là số một. Những kẻ nói xấu,
chửi bới, chê bai, phê bình bạn, đều là những kẻ chỉ đường cho bạn. Không có họ,
bạn chẳng thể tiến bộ, chẳng thể thành tựu.
Ðừng cho rằng
những nghịch duyên đó làm khổ bạn rồi sanh lòng ghét chúng, chán chúng, coi cái
gì cũng không vừa lòng mình, thấy cái gì cũng gai mắt, rồi bạn nghĩ: "Thôi, cuốn
gói đi quách! Về nhà cho rồi!" Song, biết đi đâu cho tốt? Cũng không thể đi cưới
vợ, vì bạn biết làm vậy còn khổ hơn kia mà, nào khác gì sống ở địa ngục đâu?
Khi bị ai
công kích, phê bình, bạn nên nhẫn chịu. Dù có bị oan cũng ráng nhịn. Bạn còn
phải cảm ơn người ta vì may mắn lắm mình mới được (phê bình) như vậy.
Khi ai đem
việc xấu ác, lỗi lầm mà đổ thừa, vu oan cho bạn; bạn cần phải nhẫn nại.
Dù bạn có
đúng lý mà kẻ khác vu khống, nói càn rằng bạn sai bạn lỗi, thì bạn vẫn nên sám
hối, xin lỗi kẻ ấy (đừng tranh biện); bởi vì tu hành chính là tu ở chỗ này.
Phải quán sát
như thế nào? Bạn phải quán những lời lẽ ấy như tiền bạc; và khi người kia phun
lời xấu ác thì cũng giống như y đang vung tiền cho bạn vậy. Nếu khi những cảnh
giới ấy tới mà bạn không nhẫn, không biết làm sao tu nhẫn nhục, thì chỉ sanh ra
đủ thứ phiền não, bực bội mà thôi!
Kẻ đả kích,
bài bác chửi rủa bạn, bạn cho rằng y xấu. Song, theo quan điểm tu Ðạo, y quả là
người giúp bạn; bạn phải cảm ơn y. Y đem tiền ở cõi Cực-Lạc tới tặng bạn, bạn
không chịu nhận, lại chạy trốn, khóc lóc om sòm!
Khi chuyện
gì xảy đến với bạn, bạn cũng nhẫn nhịn được, thì tu mới tiến bộ. Dù bạn có đúng
lý cũng đừng cãi cọ tranh biện; cứ sám hối, xin lỗi người ta là đủ. Ðó là bạn
đang tích tập công đức cho chính bạn vậy.
Nhẫn-nhục
Ba-la-mật là hạnh mà khi bạn nhẫn nhục, bạn không cảm thấy và không cho rằng
mình đang làm hạnh Nhẫn-nhục, không rêu rao là mình nhẫn nhục, và cũng không đè
nén, dồn ép nội tâm (không để lộ sự giận dữ bên trong); vì đó toàn là có tướng
trạng.
Khi nhẫn nhục
mà lòng bạn không hề có cảm giác gì, không thấy chuyện gì xảy ra; như khi có ai
chửi rủa bạn, bạn không biết là họ chửi mình; thì mới đúng là hạnh Nhẫn-nhục
Ba-la-mật.
F. Một
Niệm Cách Biệt
Nếu bạn
không chịu thể hội Ðạo, thì tuy là thầy tu, tâm bạn vẫn còn vất vưởng ở ngoại
cảnh, xoay chuyển theo cảnh giới và sự việc bên ngoài; như thế vẫn còn rất nguy
hiểm.
Trong chùa
cũng đầy dẫy chuyện thị phi, trắng đen, đẹp xấu. Kẻ có trình độ thì nghĩ rằng:
"Chờ tôi tu khá khá, tôi sẽ lại độ các vị." Kẻ không hiểu biết thì sẽ làm những
việc hư, kết oán cừu thêm. (Ý là xem bạn có thể chuyển biến ngoại cảnh hay
không.)
Nếu có ai
muốn hại bạn, bạn nên suy nghĩ: "Có lẽ là hồi xưa mình có làm hại hắn ta; bây
giờ mình không nên gây thêm oán cừu, mà phải độ hắn."
Chuyện gì cũng
có nhân quả, dù là việc nhỏ như một cây kim, một sợi chỉ, một lời nói--tất cả
đều có nhân quả.
Ðừng bao giờ
tập thói cố chấp.
Có người
hỏi: Cái bát của tôi bị bể; phải chăng cái bát cơm của tôi cũng mất luôn? (Ý nói
là bát bể, thì phải chăng cũng hết tu.)
Hòa-Thượng đáp:
Ðừng nên chấp trước. Nếu cái bát của cô bị người ta làm bể, rồi có nhân việc đó
mà oán hận, muốn trả thù kẻ kia, thì rõ ràng là chỉ vì cái bát mà cô tạo oán
cừu, gây hận thù với người khác vậy!
Khi nghiệp
chướng ập tới, vô minh, phiền não dấy khởi, nếu bạn không có chánh-niệm thì
tà-niệm sẽ nổi lên. Khi ấy, thấy ai bạn cũng gai mắt, bực dọc; thấy việc gì bạn
cũng không hài lòng. Bạn chỉ muốn cuốn gói đi ở chùa khác; hoặc bạn cảm thấy đời
tu vô vị, không có ý nghĩa gì, chỉ muốn hoàn tục cho xong chuyện.
Bạn biết chăng;
chỉ cần bạn nổi một niệm phiền não lên là bạn đã sai rồi, không cần phải bàn tới
việc bạn có đúng lý hay không!
Ðừng tìm coi
người ta có lỗi lầm hay không. Bạn phải tự thắp sáng cõi lòng, chiếu rọi tâm
mình, hồi quang phản chiếu--xét xem mình đã làm tốt chưa.
Tu là sửa đổi
chính mình dựa theo chân lý, chứ không phải dựa vào người khác. Do đó, bạn phải
cung kính, tôn trọng Tam-Bảo (hiện thân của chân lý).
Hễ là chúng
sanh thì ai cũng có lỗi lầm hư xấu; song hễ ngày nào biết sám hối, biết ăn năn
sửa đổi, thì tốt liền. Dù là loài nở ra từ trứng, hoặc sanh ra từ thai bào, từ
chỗ ẩm thấp hay từ sự biến hóa--tất cả đều có Phật-tánh. Nhiều thứ súc sinh tánh
rất linh thông, hơn cả con người nữa; song, chỉ tội là chúng không biết nói để
chúng ta hiểu mà thôi.
Bạn nhận
thức được điều xấu của mình, đó là một việc rất tốt.
Là người, ai ai
cũng đầy một bụng phiền não; nếu không tự biết lỗi thì làm sao tu? Do đó, tu
chính là từ đây, từ sự nhận thức này mà trừ khử phiền não. Nếu không vậy, mỗi
ngày bạn cứ như cũ, chẳng thay đổi gì--cứ ăn, ngủ, làm việc, không tu để ngộ
Ðạo; thì tới già bạn vẫn hệt như bây giờ, mà đầu óc thì đầy nhóc những phiền
não!
Bạn cả ngày
chỉ đầy dẫy niệm xấu, không có một chút chánh niệm; bạn không nghĩ về sắc (thứ
có hình tướng như sắc đẹp, áo quần, tiền bạc, chùa chiền, cơm canh...), thì cũng
nghĩ tới thứ vo sắc (có tên mà không có hình thể như danh, lợi, sung sướng,
hưởng thụ, ý niệm, tư tưởng...).
Hễ bạn tranh
chấp, đấu tranh, cãi vã, tính toán hơn thua, thì tâm bạn không sao được yên.
Ðừng cho rằng người khác sai, mình đúng. Họ không sai, không lỗi đâu; mà chính
bạn đã không biết tu hành. Chỉ vì lòng bạn có phiền não, tức bực, khó chịu, oán
hờn, nên tâm mới không yên ổn. Cứ để sự việc trôi qua thì nó sẽ tan biến, và bạn
mới có được chánh-niệm.
Người ta chê
bai bạn xấu, bạn hư; bạn chớ nổi nóng, bực dọc, khó chịu. Họ khen bạn hay, bạn
tốt; bạn đừng vui sướng, cao hứng. Trong cái dở luôn có cái hay, trong cái tốt
luôn xen lẫn cái xấu.
Kẻ nào khen
ngợi, ve vuốt, tăng bốc bạn; kẻ đó không phải là vị thầy tốt, không phải là bậc
minh-sư. Những ai nguyền rủa, mắng chửi bạn bất kể bạn đúng hay sai; họ mới
chính là những bậc minh-sư. Lúc họ xử tệ với bạn chính là lúc họ giúp bạn thành
tựu.
Nếu khi bị chèn
ép, xử tệ, mà bạn nghĩ rằng: "Các ngài khinh thường tôi như vậy; song, tôi vẫn
cứ tu để các ngài hiểu"; thì bạn là người có chí khí; và như vậy, ắt có ngày bạn
sẽ thành công!
Bạn đúng lý
mà y sai; cứ để cho y làm gì thì làm, coi như bạn là sai lầm vậy. (Vì bạn có
giải thích, có tranh cãi tới đâu, y cũng không thèm nghe; vậy cãi có ích gì?) Ðó
chính là bạn biết làm chủ chính mình, không bị người ngoài hay sự việc làm lay
chuyển.
Những cảnh
giới mà bạn tiếp xúc bây giờ đều là do những hạt giống bạn trồng xưa kia, bây
giờ chúng hiện ra thôi.
Thấy người tại
gia mặc áo quần đẹp đễ (tức là một thứ cảnh), thì có kẻ tự nghĩ: "Mình đi tu sao
mà khổ thế này? Cái gì cũng không có, chỉ được mặc ba cái áo nâu sồng thô sơ
này..."; có kẻ lại nghĩ khác: "Ôi! Trong cõi Ta-Bà khổ não này chỉ có ăn mặc đẹp
đẽ đến thế mà thôi; có gì là hay, lạ đâu?"
Nhiều nữ tín
đồ khi chưa xuất gia thì nhồi phấn, thoa son, kẻ mắt, vẽ mày...; bây giờ mấy cô
làm Ni-cô ở đây, chẳng ai còn vậy, coi tốt hơn!
Hai người,
một cô xấu xí, một cô đẹp tuyệt. Cô xấu xí thì biết mình xấu nên đánh phấn đánh
son, trang điểm tươm tất lắm. Song, càng trang điểm bao nhiêu, càng xấu bấy
nhiêu; không bằng để tự nhiên!
Tu hành cần
có năng lực chịu đựng--chịu khổ, chịu ăn cơm đạm, chịu mặc áo thô.
Ðời này, thế
giới vật chất phong phú, muốn gì có nấy rất dễ dàng. Nhiều thứ, do kỹ thuật tiến
bộ nên không còn cần dùng tới tay chân nữa, nên vô cùng tiện nghi.
Là kẻ xuất gia
tu hành, các bạn phải quan sát, suy tư về tấm gương tu hành của chư Tổ hồi xưa.
Theo bước chân các ngài mà tu thì mới chấm dứt được sanh tử.
Tôi
(Hòa-Thượng) xuất gia tu hành không phải vì mục đích hưởng thụ; tôi muốn tu sao
cho việc ăn uống, ngủ nghỉ, áo quần thật đơn giản. Tôi thà là bị xã hội coi
thường, cho rằng tất cả mọi thứ ở đây không thể bì được với người đời còn hơn!
Khi được xã hội
trọng vọng, thì giữa họ và mình sẽ sinh ra mối dây tình cảm, yêu mến, và rồi sẽ
đưa tới nỗi khổ phải xa cách nhau; kết quả là tạo thạnh vòng luân hồi luẩn quẩn!
Khi bạn bị xã hội khinh rẻ, coi thường, thì bạn sẽ bớt lòng phan duyên (thích
lấy cái này, sở hữu cái kia, giao kết với người này người nọ để trục lợi), bớt
tâm vọng tưởng (cứ nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, không hết chuyện này đến
chuyện khác, không dứt), và dễ chuyên tâm dụng công hơn!
4. Ðộ Người
A. Biết điều
tốt của thí chủ
Khi thí chủ
quý trọng bạn, họ mới cúng dường. Vì thế, bạn nên có lòng tri ân, cảm kích, mà
tu hành cho đàng hoàng.
Như các bạn
ăn mặc đơn sơ, đạm bạc, lại dám xả thân làm việc công quả cho chùa; người ngoài
nhìn bạn họ sẽ nhận thấy rằng: "Các vị tu sĩ này thật làm tôi cảm động; họ biết
xả thân vì Ðạo, vì chùa..." và tự nhiên họ muốn cúng dường bạn. Như thế, vô hình
trung, bạn đã độ họ, khiến họ trồng căn lành trong ruộng phước đức. Ðây chính là
hoằng Pháp, lợi sinh vậy!
Người tu
phải chịu cực chịu khổ, không được chấp trước vào quan niệm về "tôi" và cái "của
tôi", rồi sanh ra tật thích chải chuốt cho đẹp đẽ, ăn uống cho ngon lành, và
muốn mọi sự phải cho tiện nghi, sung túc. Thân mặc áo nâu sòng cho sạch sẽ,
chỉnh tề là đủ; bởi kẻ xuất gia mà sống quá sướng, quá hưởng thụ thì không người
tại gia nào muốn cúng dường cả! Người tu mà biết chịu cực, sống kham khổ, thì
thí chủ mới khâm phục, mới muốn cúng dường. Ðời sống chỉ cần có cơm ăn no, có áo
mặc ấm là đủ lắm rồi.
Người xuất
gia: chân đạp đất của tín thí, đầu đội trời của tín thí, thân mặc áo thí chủ
cho, miệng ăn cơm thí chủ cúng, ngủ ở phòng thí chủ xây. Cứ tính là mỗi ngày bạn
tu được một trăm đồng tiền công đức. Hễ bạn khởi tâm động niệm khiến thân miệng
ý không thanh tịnh, thì khấu trừ đi ba mươi đồng. Thêm vào là tiền ăn uống đáng
giá ba mươi đồng, tiền trú ngụ là hai mươi đồng, tiền ăn mặc đáng năm mươi đồng;
tổng cộng là một trăm ba mươi đồng tiền công đức. Ðấy, công đức tu hành bạn làm
ra trong ngày không đủ để trả những phí tổn trên; vậy thì bạn còn có công đức gì
nữa? Tín chủ cúng dường khó tiêu lắm!
Muốn
Tăng-đoàn trang nghiêm, bản thân mình phải trang nghiêm. Bất cứ ở chỗ nào, lúc
nào, mình cũng phải trang nghiêm. Thí dụ khi tụng Kinh, nếu người ta thấy chư
Tăng, Ni vô cùng trang nghiêm, thì tự nhiên họ sẽ sanh lòng tín ngưỡng đối với
Ðạo, và không coi Phật giáo là thứ tiêu cực nữa.
B. Tiếp đãi
tín đồ
Bồ-tát là kẻ
độ chúng sanh, do đó mình phải rộng kết duyên lành với chúng sanh. Hiện tại tôi
còn sống, khi người ta tới bái kiến tôi thì các bạn phải ráng kết thiện duyên
với họ. Thấy tín đồ nào, bạn cũng nên tiếp đón, chào hỏi; song không được phan
duyên (dùng thủ đoạn tình cảm để kiếm lợi lộc riêng tư), không được cống cao ngã
mạn, rằng "Tôi là người xuất gia, các vị chỉ là kẻ tại gia!" Bạn phải hiểu rằng
tất cả mọi phí tổn cho sinh hoạt hàng ngày như ăn, ở, mặc của tôi đều là do thí
chủ cúng dường mà ra!
Khi có người
kết duyên xấu với thí chủ, các bạn chớ có bị người ấy ảnh hưởng, khiến mình cũng
kết duyên xấu với thí chủ. Bạn phải có năng lực nhận định phải trái, phải tự làm
chủ chính mình; bởi chúng ta cần rộng kết duyên lành.
Cho nên nói:
"Vị thành Phật, tiên kết nhân duyên"; nghĩa là khi chưa thành Phật, trước hết,
phải kết duyên lành với mọi người.
Khi có tín
đồ lại chùa, bạn hãy khéo dùng lời lành tiếp đãi họ, mời họ lạy Phật, ăn cơm, đi
dạo coi chùa. Ðó chính là kết duyên lành, và cũng là cách tu hành. Ðiều cốt yếu
nhất là đừng bày đặt ra vẻ thanh cao, "ta đây là Thầy". Cái đó không phải là tu
hành gì cả. Tín đồ là kẻ đang tu học, bạn là người tu thì phải hành Ðạo Bồ-tát.
Không nên tu thứ hành vi xấu; phải tập cử chỉ tốt. Khi có kẻ bất lương đến chùa,
bạn đừng để ý tới y là xong. Ðừng nên cằn nhằn, cũng đừng chửi rủa người khác
hoài. Tu hành thì phải tu cho tới lúc có trí huệ; bấy giờ, hễ đụng chuyện gì,
bạn cũng thấu suốt được ngay. Khi đó, nói chuyện gì bạn cũng có thể nói một cách
viên dung. Khi mình đã đứng vững rồi, kẻ khác sẽ do đó mà sanh lòng hoan hỷ tiếp
nhận lời bạn, mà bạn cũng không tạo nghiệp.
Tín đồ mang
vật phẩm đến cúng dường, đó là vì họ muốn cầu phước. Vì vậy, dù vật nhỏ như một
ngọn cỏ, bạn cũng phải vui vẻ tiếp nhận. Nếu khi thấy họ đem những thứ tốt đẹp
lại cúng dường, rồi bạn sanh ra tham lam, thì bạn không thể ngộ Ðạo được. Khi có
người mang thức ăn dở đến, bạn đem nấu lại cho ngon lành, thì đó là bạn tu cả
phước lẫn huệ! Nếu bạn không biết xử lý một cách thích đáng, ngược lại, cứ trách
móc thí chủ đã cúng thức ăn hư thối; thì đó là tự bạn nổi phiền não và tự bạn
tạo khẩu nghiệp mà thôi!
Dù là người
trong gia đình hay bà con của mình tới chùa ăn cơm, mình cũng nên khuyên họ cúng
dường tiền cơm cho chùa để họ có quan niệm đúng đắn (về nhân quả, nghiệp báo.)
Bạn nên lân
mẫn, thương hết mọi chúng sanh; hãy nghĩ rằng họ và mình chỉ là một. Thí chủ lại
tu, lại trồng thiện căn; mình phải lấy tâm Bồ-đề, tâm từ bi đối với họ mới đúng.
Khi ai đang
nói, bạn chớ ngắt lời hoặc nói xen vào. Chờ họ nói xong, mình hãy nói; đó gọi là
lễ phép. Khi ứng tiếp, nói chuyện với thí chủ, bạn chỉ nên nói về Phật-pháp. Khi
họ muốn nói chuyện thế tục, bạn hãy xin lỗi mà nói rằng: "Tôi không có thì giờ,
xin mời bạn lên lễ Phật, hay tản bộ dạo chơi." Khi gặp kẻ xấu, bạn chớ để ý tới
y là tốt nhất; bởi vì hai đồng tiền mà đập vào nhau thì chắc chắn phải kêu lẻng
kẻng!
Quan hệ với
người đời: bất quá họ chỉ xã giao mà thôi. Vì vậy, khi bạn ứng tiếp họ, tâm bạn
phải biết tự chủ, luôn có Phật-pháp (soi sáng). Không nên cùng người thế tục đàm
luận chuyện đời. Hãy đem Phật-pháp lại so sánh.
Nói những
chuyện khôi hài song song đầy ý vị Phật-pháp sẽ làm người nghe đỡ phiền não.
Kẻ tu hành
mà không nói Phật-pháp, lại đi đàm luận thế sự; đó nào phải là bổn phận của
người xuất gia? Khi người tu mà còn nói chuyện trần tục của người đời, tức là y
chưa đoạn được tục khí (thói quen trần tục); thế thì làm sao y đủ tư cách bàn
tới hai chữ "tu hành"?
C. Sự nghiệp
của Bồ-tát
Mỗi vị Thầy
đều có một phương pháp độ sinh khác nhau; do vậy, bạn chớ tùy tiện chê bai, phê
bình. Bởi nếu làm vậy, bạn sẽ tạo ảnh hưởng không tốt đối với lòng tin Phật-pháp
của kẻ khác. Việc này có nhân quả đấy!
Vì muốn độ
chúng sanh nên mình phải hằng thuận, phải chiều theo chúng sinh, cũng giống như
mình đánh lừa đứa nhỏ (vì muốn cứu mạng nó) vậy; mà phần lớn là để chúng sinh
trồng căn lành trong ruộng phước.
Tôi không đòi
hỏi gì cả. Chúng sanh thấy tôi thì sinh lòng hoan hỷ; song, bản thân tôi, tôi
không hề biết đến.
Làm việc gì
mình cũng phải rõ suốt chân lý của việc ấy thì mới lãnh đạo, dẫn dắt được người
ta. Nếu mình không thông suốt chân lý, làm sao dẫn dắt kẻ khác?
Hiện tại, người tu cần dùng Phật-pháp và sự thật để chỉ đạo, giáo hóa chúng
sanh. Không vậy thì mọi việc đều biến thành thế tục; mình chẳng những không thể
tùy thuận ai được mà lại còn mất đi lòng độ lượng nữa!
Hoằng Pháp,
lợi sinh: đây không phải là việc nói suông. Chỉ cần bạn tu trì cho tốt, thì tự
nhiên khi nhìn bạn, ai cũng sanh lòng hoan hỷ, cung kính.
(Ví như Hòa-thượng Quảng Khâm: Ngài không hề xuống núi song kẻ ngưỡng mộ và quy
y Ngài thì nhiều không xiết.)
Hoằng Pháp,
lợi sinh tức là cần mình hy sinh thân xác này.
Bạn phải làm
một vị Bồ-tát. Không thể cho mình tốt là đủ, rồi mặc kệ kẻ khác. Phải coi kẻ
khác là trọng yếu, còn mình thì sao cũng được. Phải làm lợi ích tha nhân. Khi
bạn chỉ làm lợi ích cho riêng mình thì vô minh, phiền não của bạn sẽ đầy dẫy.
Người xuất gia
lấy lòng nhân từ làm gốc, lấy phương tiện làm dụng, lấy lòng đại bi làm thể. Tất
cả (mọi căn lành, mọi pháp môn...) đều từ lòng từ bi mà phát sinh.
Gia, ví như
tập khí, thói quen, vô minh, phiền não, những chủng tử xấu của mình. Quốc, ví
như đại chúng. Mình phải trị gia trước, rồi mới trị quốc sau. Nghĩa là trước
hết, bạn hãy trừ sạch mọi thói hư tật xấu, vô minh phiền não của mình; rồi sau
đó đem đức hạnh ra cảm hóa kẻ khác, "thống lý đại chúng."
5. Ðiểm tốt
của việc tu
Xuất gia là
việc đại hiếu. Bạn cần phải báo đáp bốn ân lớn (ơn cha mẹ, ơn thí chủ, ơn chư
Phật, ơn Thầy), và cứu độ ba đường khổ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Bạn sẽ độ
thoát cha mẹ mình trong muôn vàn kiếp, không phải chỉ có cha mẹ đời này mà thôi.
Bộ áo người
tu không phải ai ai cũng mặc được. Chỉ có kẻ phước-khí mới mặc đặng.
Một kẻ xuất
gia, dù y không tu hành gì lắm, chỉ biết ăn chay trường, không sát sinh, không
có tội lỗi lớn, thì kiếp sau y có thể đầu thai làm người lại và tu hành tiếp. Y
sẽ không bị rớt vào ba đường khổ hay bốn loại sanh (sanh ra từ trứng, từ thai,
từ nơi ẩm ướt, hay từ sự biến hóa).
Hỏi:
Khi một kẻ xuất gia phá Giới, phạm tội ác vô biên, bị rớt vào địa ngục, phải
chăng y còn tệ hơn kẻ tại gia? Như vậy, chi bằng tu tại gia tốt hơn?
Ðáp:
Xuất gia tu vẫn tốt hơn! Tuy y (kẻ xuất gia) bị đọa lạc, song khi y chịu hết quả
báo, y có thể trở lại tu hành. Chắc chắn rồi y cũng xuất gia, bởi y đã trồng ít
nhiều căn lành rồi. (Một kẻ ngoại đạo, nếu đem so sánh, còn kém hơn một người
xuất gia phá giới).
Kẻ có căn
cơ, thì sau khi đi tu, y hiểu rõ mọi chuyện, thể hội được điểm tốt cũng như điểm
xấu giữa người xuất gia và người tại gia. Có kẻ chẳng bao giờ thể hội được điều
ấy.
Sở dĩ bạn
không thể nhìn thấy, không thể biết được điểm tốt của việc xuất gia, là vì bạn
còn nghiệp chướng. Nếu nghiệp chướng ấy không tiêu trừ, thì khi bạn lâm chung,
chúng sẽ hiện ra.
Nhìn hời hợt
thì kẻ xuất gia chỉ biết ăn ngày ba bữa, làm vài chuyện này nọ. Kỳ thật, xuất
gia là vì muốn trừ khử lòng tham lam,sân giận, si mê và tiêu trừ nghiệp chướng.
Có người
nói: Mấy Thầy ăn chay nên nói luận điệu của kẻ ăn chay; nếu ai cũng đi tu thì xã
hội sẽ ra sao?
Hòa-thượng đáp:
Ai ai cũng đi tu thì chúng ta cùng nhau vãng sinh Thế-giới Cực-lạc ở Tây-phương;
như thế không phải là càng tốt hay sao?
6. Ðạo Cao Một
Tấc, Ma Cao Một Thước
Nghiệp ác
mình tạo ra từ nhiều kiếp thì cao ngất như núi. Ðời này, khi mình đi tu, những
ác nghiệp ấy có thể xuất hiện. Do đó, có lúc mình cảm thấy cái nghiệp sau khi
xuất gia lại nhiều hơn lúc còn tại gia. Bấy giờ, mình cần có sức lực mạnh mẽ để
vượt qua. Nếu mình không hàng phục được phiền não, lại khởi tâm động niệm, thì
sẽ tạo thêm nghiệp mới!
Xuất gia tu
hành là việc không tầm thường.
Việc xuất
gia thì nhiều lắm. Khi những kẻ oán, thân, chủ nợ (ở kiếp trước) đến đòi nợ, thì
mình sanh bệnh hoặc gặp đủ thứ chuyện rắc rối kéo tới. Nếu mình chẳng vượt qua
được thì không cách gì an lòng tu Ðạo đặng. Do đó, khi bạn bệnh khổ, hãy tự
khuyến khích, sách tấn chính mình. Lạy Phật, niệm Phật nhiều hơn thì nghiệp
chướng sẽ tiêu tan.
Kẻ tại gia
nhìn (sinh hoạt người tu) nhưng không hiểu, nên cho là người tu khổ sở lắm. Ðối
với kẻ có Ðạo-tâm không kiên cố, thì y coi đời tu như là cuộc sống ở địa ngục
trần gian; y luôn cảm thấy việc gì cũng không tốt và không tự tại, lại sanh
phiền não nhiều. Có nhiều vị tuy Ðạo-tâm kiên cố hơn, song do hạt giống xấu gieo
trồng từ nhiều kiếp trước, nên tuy nghe Sư-phụ giảng dạy mà không để vào lòng gì
cả. Ảnh hưởng của trần gian thế tục đối với họ thì còn nặng nề, sâu đậm lắm.
Ở chùa mình,
các bạn còn thấy người tới từ mọi nơi: nào là tướng mạo thế này, hình sắc thế
kia... đủ cả. Những Tăng, Ni trẻ tuổi thì ý niệm về tình cảm yêu đương còn nặng
nề lắm. Khi thấy những cặp trai gái đến, nếu các vị bị cảnh tượng ấy làm tâm dao
động, rồi sanh lòng ước muốn, ưa thích, thì các vị sẽ dứt mất Ðạo-tâm (tâm tu
hành). Nếu các vị nhận định tâm trạng ưa thích của mình là tội lỗi, thì mới có
Ðạo-tâm.
Kẻ xuất gia
trẻ tuổi thời nay thật rất nguy hiểm. Họ rất dễ bị ngoại cảnh làm thay đổi chí
hướng. Những kẻ nửa đời xuất gia (tức là đã kết hôn rồi), thì đã nếm hết mùi
đời, nên đối với ngoại cảnh, họ có phần nào tự chủ hơn. Song le, nếu người trẻ
tuổi xuất gia mà chịu tu hành đàng hoàng, thì trí huệ sẽ khai mở, rất dễ thành
tựu.
7. Ni Chúng
Người nữ
thiếu tu hành 500 đời. Nếu biết tu, các cô có thể ngay thân này, đời này được
giải thoát. Song các cô đừng quá coi trọng tấm thân: ăn no là tốt rồi, mặc ấm là
đủ thôi, không cần ngủ thì chớ ngủ. Không làm như vậy thì chỉ có tham lam, tán
loạn, mất Ðạo-tâm mà thôi!
Sanh làm
thân người nữ song được xuất gia, được gặp bậc đại Thiện-tri-thức, lại được ở
nơi đạo tràng mà yên ổn tu hành; các cô phải cảm nhận là mình vạn phần may mắn!
Các cô nên mau mau tu trì, sửa đổi bản tánh nóng nảy, trừ bỏ ý nghĩ xấu ác, thay
đôi quan niệm sai lầm xưa kia.
Ðài Loan vẫn
còn tốt là vì các cô còn có thể xuất gia. Nếu không, e rằng người nữ trong xã
hội chỉ đọa lạc mà thôi. Nay các cô xuất gia rồi, nếu còn không chịu tu, thì
biết kiếp sau các cô có còn được thân người để tu hành nữa không?
Ðừng cho
rằng các cô tu như vậy là cực khổ lắm, rồi sanh lòng ghét cái này, bực cái kia,
thấy việc gì cũng sai cũng trật; lại nghĩ: "Thôi, đi phứt cho rồi!" Song, các cô
đi, mà biết đi đâu? Cũng không thể đi lấy chồng, bởi như vậy, rốt cuộc chỉ thêm
đau khổ như sống ở địa ngục mà thôi!1
Nhiều cô đã
mắc phải căn bịnh trần trọng - bệnh nhiều tình cảm. Các cô không được tái phạm
cái trò tình cảm dây dưa ấy, như là thích ngủ chung với nhau. (Nếu cô này không
chịu ngủ chung với cô kia, thì bị cô kia nói cô này không tốt với cô). Các cô
phải ngủ riêng, tách rời một chút. Nếu các cô cứ cố chấp hoài thì chính là tà
đó!
Người nữ mà
xuất gia được là chuyện khó rồi; sao các cô còn đòi hỏi đi đây đi đó để tham
phỏng, học hỏi này nọ? Chỉ cần các cô học hỏi chính mình (lúc khởi tâm động
niệm, lúc có tham, sân, si, ngạo mạn, tà kiến). Các thầy thì mới nên đi tham
phỏng học hỏi!
Các cô phải
hết sức tránh nói chuyện với người nam giới, với các Thầy.
1 Khi Hòa-thượng Quảng Khâm
(83 tuổi) muốn nhập niết bàn, Ngài có nói: "Các ni cô ở Ðài Loan không thể chịu
khổ - khổ ở đây ám chỉ mọi thứ khổ, ví như làm các thứ khổ hạnh, tu nhẫn nhục,
hay lúc tinh tấn niệm Phật, lạy Phật... mà thân thể bệnh khổ, sức - các cô không
chịu nổi khổ cực, thì không cách gì chứng đắc được cả!"
Chương VII:
Xuất gia và Tại gia
1. Tại gia:
Tham lam,
quyến luyến mọi thứ ở trần gian thì bạn sẽ mãi luân hồi trong bốn loài (sanh ra
từ trứng, từ bào trai, từ nơi ẩm ướt, từ sự biến hóa).
Mọi thứ
trong xã hội đều là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Khi chưa xuất gia, ai cũng gieo
trồng đủ thứ hạt giống của cõi trần gian tục lụy.
Người đời ai
cũng mong cầu hưởng thụ vật chất, ai cũng yêu thích đẹp đẽ; ăn mặc tươm tất.
Người giàu thì có năng lực truy đuổi những thứ ấy; kẻ không tiền thì cũng vì
những thứ ấy mà lặn lội truy cầu.
Hễ ai tham
những thứ thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì sẽ có phần luân hồi trong bốn loài.
Người đời bị
ngũ dục làm mê mờ. Chỉ vì muốn ăn ngon nên sát sanh để nuôi dưỡng thân mạng. Họ
không biết rằng ăn thịt chúng sanh tức là ăn thịt chính họ. Bởi, ăn một cân
thịt, bạn nhất định phải trả 16 lượng; đây là việc bạn không thể trốn tránh
đặng. Do đó, cả một đời, người đời cứ phải trả nợ, đòi nợ; đời đời kiếp kiếp
không thể thoát khỏi luân hồi. Huống chi những miếng thịt họ ăn có khi là thịt
của chúng sinh mà xưa kia đã từng là cha mẹ của họ. Làm sao tâm mình có thể bất
nhẫn đến như vậy?
Kẻ tại gia
sát sanh để ăn thịt; chúng sinh bị giết đều là họ hàng quyến thuộc của họ trong
nhiều kiếp trước. "Mày giết tao, tao sẽ giết mày;" cứ vậy mà có luân hồi sinh
tử. Những người tại gia không hiểu biết, thiếu nhận thức, cho rằng nếu họ không
sinh con đẻ cái thì mạng họ khổ lắm; tự than thở rằng mình không được như gia
đình kẻ khác, con cái đầy nhà. Họ nào ngờ rằng, không con cái tức là ít oan gia,
nợ nần!
2. Xuất gia:
Báo đền bốn ân lớn
Hiếu thảo
với chư Phật, chư Tổ, thì mới là có hiếu với cha mẹ.
Bạn hãy khéo
léo dùng mọi cách cho cha mẹ bạn hiểu Ðạo. Nếu có lòng thành, tối thiểu họ sẽ
được sanh lên cõi trời.
Là kẻ xuất
gia, mình phải độ thoát bà con họ hàng của mình. Tối thiểu, hãy làm cho họ tin
Phật, ăn chay trường, không sát sinh; như thế mới viên mãn bổn phận của mình.
Ân cha mẹ
sinh thành dưỡng dục lớn lắm, nếu không xuất gia tu hành thì khó đền đáp công ơn
này. Ðó là vì giữa cha mẹ và con cái vốn có thứ ân oán lẫn thân tình đan kết từ
nhiều đời.
Xuất gia
muốn báo đáp bốn ân lớn thì bạn phải độ thoát cha mẹ bạn, khiến họ liễu sanh tử.
Song cha mẹ nào phải chỉ có ở đời này thôi đâu; mà cha mẹ có từ nhiều đời trước
nữa, bất quá mình không biết đó thôi. Không tu thì làm sao hiểu đặng kiếp trước
mình có nhiều cha mẹ như vậy? Song bạn chớ khởi lòng thương nhớ cha mẹ; hồi
tưởng những kỷ niệm ấy đều là thứ sanh tử!
Làm cha mẹ,
ai cũng muốn con mình lấy vợ, sinh con, hệt như họ vậy - một cuộc đời đầy dẫy
thương yêu, khổ, não. Nếu bạn, kẻ tu hành, mà ham thích những việc ấy, thì sau
này bạn sẽ tha hồ đóng vở tuồng ấy. Ðây là những "màn kịch" mà bạn có thể diễn
vô cùng tự nhiên, không cần phải học cách lễ, nghĩa, liêm, sĩ gì cả. Khi đọa lạc
làm súc sinh, bạn sẽ diễn những tấn tuồng ấy tự nhiên hơn nữa!
Cha mẹ càng
tốt với bạn bao nhiêu, là họ càng có ân oán nhân duyên với bạn bấy nhiêu.
Quan điểm
của người tu thật khác xa so với quan điểm của người đời: Cha mẹ càng thương yêu
bạn, thì khi lâm chung, họ sẽ bịn rịn, không buông bỏ bạn được. Song le, bạn chớ
vì thế mà sanh phiền não, trách móc cha mẹ bạn.
Hãy chuyên
tâm tu Ðạo. Nếu không, bạn sẽ rơi vào vòng tình cảm yêu ghét, chịu cái khổ xa
cách người mình thương mến; rồi do đó bị cuốn hút vào chuỗi luân hồi sanh tử.
Thật nguy hiểm lắm!
Bạn chớ chấp
trước (quyến luyến) cha mẹ, bà con, anh em trong đời này. Họ đều là những chủ
nợ, những kẻ có ân oán với bạn từ nhiều kiếp trước cả.
Mỗi người
đều do nhân quả nên sinh ra; rồi vì nhân quả nên chết đi. Cha mẹ, bà con của
mình đều ở trong vòng luân hồi; do đó, mình phải mau mau tu hành để độ thoát họ.
Mình vì
nghiệp nên sinh ra, song chớ vì nghiệp mà chết đi.
Phải tu -
trên đền bốn ân lớn, dưới độ ba đường khổ. Tự mình phải tu cho đặng giải thoát
thì mới có chỗ thành tựu.
3. Ở Ðời Và Ði
Tu
Cha mẹ sinh
ra ta song họ không biết ta từ đâu lại. Bây giờ mình phải tìm cho ra con đường
sanh tử mà mình đã từ đó tới; có nghĩa là mình phải liễu thoát sanh tử.
Ở đời thì bất
quá mình chỉ ăn ngày ba bữa rồi trôi theo dòng sinh tử mà thôi.
Người đời cả
ngày bận rộn làm việc là chỉ vì truy cầu danh lợi, địa vị, vì muốn hưởng thụ vật
dục, ăn ngon, mặc đẹp, ở sướng.
Người tu có làm
việc thì cũng là để huấn luyện nội tâm. Do đó, công việc không cần quá nhiều,
không nên gấp gáp; cũng không cần ai khen ngợi mình; không truy cầu, ước muốn
bất cứ thứ gì. Chỉ mặc bộ áo của Tây-phương Cực-lạc mà thôi.
Ðối với
người tu, cảnh giới hoặc ngoại cảnh càng xấu thì càng tốt. Người tu càng trải
nhiều gian khổ càng tốt. Ðó là điểm khác biệt giữa người tu và người đời.
Người tại
gia có nỗi khổ mà người xuất gia cũng có nỗi khổ. Người đời khổ là vì họ không
có được cái nhìn sáng suốt; người xuất gia khổ là vì muốn liễu sanh tử, muốn ra
khỏi luân hồi.
Người đời
ngày ngày đều quay đi quay lại đeo đuổi mấy thứ tài, sắc, danh, thực, thùy (tiền
của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, hưởng thụ hoặc ngủ nghỉ), và luôn bị ngoại
cảnh làm ô nhiễm tâm tánh; hoàn toàn không làm chủ chính mình.
Người tu thì
cần rửa sạch những thứ cấu bẩn ấy. Kẻ tu dù đời sống có chật vật, song tâm an
ổn, sáng suốt là đủ.
Khi còn ở đời,
ai cũng chạy theo thứ hoa hòe bề ngoài. Có tiền thì sung sướng, không tiền thì
khổ sở. Thế nên tính toán mọi cách để kiếm tiền. Rồi khi lòng truy cầu ham muốn
nổi dậy thì tâm tánh sẽ hôn ám mê muội, hệt như kẻ say rượu vậy. Mọi việc ở đời
đều không ra ngoài sự truy cầu, ham muốn; ai ai cũng vì kiếm ăn để sống cả.
Do đó, người
xuất gia phải luôn phát khởi chánh niệm, suy tư đúng với chân lý; phải nói Pháp
của Phật " như vậy mới giải thoát được.
Người tu
chúng ta đừng nên tham lam thì mới trừ được phiền não, sân giận, si mê. Không
nên có phong cách như người đời: ăn thì phải ăn ngon, ngủ thì phải ngủ đủ.
Người tu tự gọi
mình là "bần tăng" (sư nghèo), là vì nếu cuộc sống càng giản dị bao nhiêu thì sự
tu hành càng có tương ưng bấy nhiêu, chứ chẳng phải là càng giàu có sung túc hơn
đâu! Nếu không như thế, cứ để lòng tham lam tồn tại, không chịu trừ khử; thì dù
bạn nói mình tu hành, song vọng tưởng, phiền não từ lòng tham ấy vẫn ùn ùn kéo
tới.
Người xuất
gia và người đời khác nhau xa lắm. Người tu chẳng nói "đúng" hay "không đúng";
bởi "đúng" họ cũng nhận, mà "không đúng" họ cũng nhận. Cứ như vậy mà bạn tu hạnh
Nhẫn-nhục, thì từ từ bạn sẽ trừ được ngã tướng.
Ở ngay giữa
xã hội mà tu (ám chỉ kẻ tại gia), thì không dễ tu. Bởi vì áp lực của kẻ chung
quanh sẽ làm bạn phải đồng ý theo họ; nếu không, họ sẽ công kích bạn. Do đó,
người xuất gia thì tu có dễ dàng hơn.
Khi đã từng
trải qua sóng gió trên trường đời, rồi mới vô chùa tiến tới một bước tu hành,
làm hạnh Nhẫn-nhục, thì bạn dễ hòa đồng với kẻ khác lắm.
Hãy phát lòng
tin, rằng: "Tôi nhất định phải thành Phật!" Nói ra như thế tức là có chí hướng
thành Phật, thì bạn mới có động cơ khiến mình tinh tấn tu trì.
Ðừng luôn khoe
khoang, nói về chính mình, vì cái bản ngã sẽ làm chướng ngại việc tu.
Ngoài đời, bạn
thích mặc áo quần đẹp đẽ, song vô chùa thì những thứ ấy không còn thích hợp nữa.
Ở chùa, bạn mặc thứ y phục mà không người đời nào muốn mặc. Thói quen nóng nảy,
giận dữ của bạn cũng phải sửa đổi một chút mới được. Cứ tu, thì bạn sẽ cảm biết
thấu suốt mọi sự.
Xuất gia: có
chánh niệm. Ngoài đời: chẳng có chánh niệm.
Ði tu và ở
đời khác nhau.
Sinh hoạt của
người đời giống hệt như ban ngày nằm mộng, mà ban đêm cũng là mộng " chiêm bao
giấc mộng sanh tử luân hồi.
Người đời có
thể hưởng thụ khoái lạc, đi chơi đâu đó, xem ra như là sung sướng lắm. Song khi
cơn vui qua rồi thì đầu óc lại quay cuồng với đủ thứ vọng tưởng, phiền não; tâm
không thanh tịnh đặng.
Người tu tuy áo
quần, ăn uống, chỗ ở đều chẳng sung sướng gì, nhưng hễ khi làm xong việc gì mình
cũng có thể ngồi xuống xếp bằng tĩnh tọa, niệm Phật, tu trì " tâm thần thanh
tịnh, không phiền não, tức là có thể đưa tới chánh niệm.
Áo quần, chỗ
ở, ăn uống tuy không sung túc, song mình tu hành thì có sự thanh tịnh. Khi tâm
mình không có vấn vương mọi thứ, mọi việc gì; cứ mỗi ngày đều đều như vậy; thì
đó là chốn thanh tịnh. Người đời chỉ có thể ở trong chốn Ngũ-trược, xấu ác mà
thôi.
Nhiều người
đời hy vọng con cái mình có nhiều bạn bè trai gái, thì họ mới vui. Song con cái
đối với cha mẹ thì không chút lễ nghĩa gì, mà cha mẹ cũng thì cũng rất dễ dãi
với con cái. Nếu người xuất gia mà còn thói quen thế tục, thích kết nhiều bè
bạn, thì sau này sẽ còn nhiều "màn kịch" để họ diễn nữa!
Ở đời đa số
con cái ai cũng ỷ lại cha mẹ, nên không biết trời đất to lớn ra sao. Khi xuất
gia thì xung quanh toàn là sư huynh sư đệ; người nào lo làm tròn bổn phận người
nấy, mà mình cũng phải lo làm công việc được giao phó. Do đó, ai cũng có tánh tự
lập.
Làm người mà
chịu đi tu thì mới đáng giá. Bởi vì nếu không vậy, mình cứ ở xã hội, lập gia
đình, sinh con đẻ cái, đến chết vẫn không buông xả được, và cũng không thanh
thản ra đi đặng!
Người đời
lấy khổ làm vui; đến lúc già rồi thì sợ chết, không buông xả đặng con cháu.
Người xuất gia
chúng ta tuy tu Khổ-hạnh, song nếu vừa làm, vừa niệm Phật, thì lâu ngày chày
tháng, mình sẽ thể hội được mọi chuyện trong sáu nẻo luân hồi. Khi ấy, mình sẽ
sung sướng là đã may mắn được xuất gia.
Niệm Phật
nhiều, đủ, thì trí huệ sẽ khai phát, sẽ giác ngộ; đến khi già mình sẽ không sợ
chết vì mình đã có một Thế-giới Cực-lạc ở Tây-phương để tới
Nghiệp
chướng của các bạn chồng chất như núi cao; không xuất gia thì bạn nào có cảm
giác tới nó. Nhữ kẻ thiếu hiểu biết ngoài đời thì luôn luôn đi trên con đường
tạo nghiệp. Người xuất gia thì đi con đường hết nghiệp, tiến thẳng tới Thế-giới
Cực-lạc.
Cổ nhân dạy:
"Một tấc Ðạo, chín tấc ma" (tức là Ðạo thì ít mà ma hay nghiệp chướng thì
nhiều). Do đó, người tu càng tiến bước thì bao thứ ác niệm, thói hư tật xấu, từ
nhiều đời trước sẽ nổi lên. Lúc ấy, bạn phải càng chịu khó chịu khổ hơn nữa thì
mới từ từ làm nghiệp chướng tiêu tan. Ðến khi lâm chung, sen vàng sẽ hiện ra
rước bạn về Tây Phương.
Người đời thì
làm sao hiểu đặng, do đó họ cứ ngày ngày đeo đuổi sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp - ngày ngày tạo nghiệp. Ðến khi lâm chung, quỷ La-sát hiện ra bắt họ, thì
họ không đi cũng chẳng đặng!
Bây giờ mình
không xuất gia tu hành, thì khi già mình cũng như cha mẹ mình: đầy dẫy phiền
não, rồi rớt vào vòng luân hồi. Do đó, xuất gia là phải rồi! Các bạn không nên
chấp trước, chẳng chịu học tấm gương của kẻ đi trước!
Chương VIII:
Cảnh Giới Của Chúng Sanh
1. Tâm Chúng
Sanh
Vọng tưởng
không có chủ tể. Phật (mới là bậc) có chủ tể.
Tu làm sao
mà về già càng tu càng không quái ngại. Hễ muốn vãng sanh thì chỉ nhắm mắt như
ngủ là đi ngay. Chúng ta đêm nào ngủ cũng tựa như cái xác chết, chẳng biết
chuyện gì xảy ra xung quanh. Sáng tỉnh dậy, mở mắt ra là lập tức bắt đầu tiến
trình chấp trước; nhìn cái này là 'của ta', thấy cái kia là 'của mình'...
Các bạn
không thể thấy được những thứ vô hình hài, vô sắc tướng; do đó không có hứng
thú, không thích chúng. Vì vậy, các bạn chỉ ham thích truy cầu thứ có sắc tướng
mà thôi.
Lúc cha mẹ
sinh bạn, bạn nào hay biết gì. Khi lớn lên một chút thì bạn bị 'dính bụi trần',
chấp chặt quan niệm về cái ngã liền. Hễ chấp trước quan niệm về cái ngã thì sẽ
có phiền não ngay. Song le,
'Xưa nay không
một vật,
Làm sao dính
bụi trần?'
Những vị ở
cõi trời thấy chúng ta giống hệt như mấy con giòi đen, thứ giòi ở trong cầu
tiêu. Ðức Phật A-Di-Ðà phát 48 đại nguyện là để tiếp độ mình tới Thế-giới
Cực-Lạc; song mình cứ một mực tham luyến cõi Ta-Bà, cho khổ là vui, hệt như mấy
con giòi đen (cho cầu tiêu ô uế là nơi đầy thú vị)!
Mình thấy cầu
tiêu hôi hám không chịu nổi nên muốn vớt mấy con giòi ra, thả chúng vào chỗ nước
trong trẻo. Song lũ giòi ấy lại tham luyến cái cầu tiêu ô uế hơn mọi thứ, thà
chết chứ không chịu đi đâu cả!
Con người ta
học làm điều xấu thì rất dễ; còn học làm chuyện tốt thì khó lắm!
Bốn loài
chúng sanh hễ ăn no rồi thì ngủ, tâm lúc nào cũng tán loạn.
2. Thói Quen,
Tập Khí
Kẻ thẳng thắn dễ khai mở trí huệ.
Cá tánh của mỗi người rất quan trọng.
Tánh tình tốt,
hiền hòa, thì đi tới đâu cũng hòa đồng được với mọi người, tùy thuận được người
khác. Song tùy thuận cũng có hạn lượng; bởi vì đối với kẻ làm việc xấu thì mình
không thể tùy thuận làm theo, mà phải kiên định lập trường, nguyên tắc hành
động.
Bản thân con người thì không xấu ác gì; chỉ có
thói quen, tập khí là hư xấu. Ai cũng có thói hư tật xấu, chỉ khác là kẻ ít
người nhiều mà thôi. Chỉ cần bạn hướng tâm tu Ðạo là đủ. Hễ bạn có thể tha thứ
cho ai, thì hãy tha thứ ngay. Ðừng bao giờ cho người ta là hư xấu.
Anh A có thói hút thuốc, đi đâu cũng phì phà
khói thuốc. Anh B thì có thói đa nghi, lúc nào cũng nghi ngờ này nọ. Có lần A
hút trước mặt B. Anh B tức giận, nghi rằng anh A khinh khi mình; thế là hai đàng
sanh ra cãi vã, xung đột. May có anh C biết thói quen của hai người, nên đến
giải hòa; khiến đôi bên từ đó sửa đổi, bỏ thói hút thuốc, bỏ tánh đa nghi.
Bởi vậy, thói
xấu mà mình không tự nhận biết để sửa đổi, thì chỉ gây phiền não cho kẻ khác.
Tâm đa nghi chỉ hại mình, chướng ngại việc tu. Khi thấy ai bất hòa, xung khắc,
thì bạn chớ đổ dầu vào lửa khiến sự tình thêm rắc rối; mà phải luôn tìm cách
giải hòa!
Có kẻ hay phê bình, chỉ trích, hoặc nói xấu
người khác. Thật ra, y không tự hiểu việc làm của y là sai, mà y cũng không cố ý
muốn chỉ trích, nói này nói nọ. Chẳng qua là do thói quen xấu mà y đã huân tập
từ vô lượng kiếp về trước thúc đảy, khiến y bất giác làm vậy.
Trước kia có
một người, khi nói chuyện với ai anh ta cũng luôn nhìn ngang liếc dọc, làm ra vẻ
thần bí; khiến người khác khi nhìn anh ta thì họ có cảm giác như anh ta đang nói
xấu ai đó. Kỳ thực, nào phải vậy! Ðó chỉ là thói quen xấu mà thôi.
Do đó, làm việc
gì bạn cũng phải tự tại, tự nhiên; nếu không, bạn có thể rước đủ thứ phiền hà vô
ích vào thân!
3. Danh lợi và
Chậm Chạp
Mỗi người, ai cũng đầy một bụng phiền não.
Xưa kia ở Ðại
Lục (Trung Hoa), hễ người nào càng cố công tu hành, càng có căn cơ, thì càng bị
thử thách nhiều lắm. Có kẻ cố ý dùng đủ thái độ vô lý lại chèn ép, khiêu khích
người ấy. Hoặc có kẻ thấy người ấy gần hoàn thành một công trình gì đó thì tới
phá hoại cho sụp đổ tan tành. Tuy nhiên, phải xem căn cơ của người ấy thế nào
rồi mới thử thách đặng. Nếu thử thách kẻ không có căn cơ, bản lãnh, thì y sẽ
sanh phiền não.
Ở Ðài Loan thì
khó mà thử thách ai. Bởi vì hầu hết các Ni-cô đều xuất thân từ mái nhà ấm cúng
của cha mẹ, quen thói nhõng nhẽo; cho nên đối với họ, chỉ phải dùng toàn phương
pháp thế gian mà thôi.
Ðời xưa, có vị Sư Phụ muốn thử coi công phu tu
hành của đệ tử. Ngài bảo đệ tử mang ngược dép lại.
Kẻ có căn cơ,
trí huệ, liền quỳ xuống; thì Sư-Phụ từ bi chỉ dạy. Kẻ ngu si thì quả thật mang
dép ngược lại ngay. Còn kẻ không có căn cơ thì lập tức nổi đóa, sinh phiền não;
cho rằng Sư-Phụ sai lầm, cố ý làm cho y phiền não.
Khi kẻ có căn cơ nghe bạn nói về y (phê bình,
chỉ trích, mắng nhiếc), thì y biết rằng đó chính là lời Sư-Phụ y đang dạy dỗ; do
đó, y biết cầu sám hối.
Khi kẻ thiếu
căn cơ nghe bạn nói về y, thì y lập tức đấu khẩu, hỏi gặng vì sao bạn dám nói
động đến y; và rồi y sanh lòng tức tối, phiền não. Y sẽ nghĩ tới mái nhà ấm cúng
của cha mẹ y, nào là được ăn ngon, mặc đẹp, lại được đi học..., những tấn tuồng
cũ kỹ khiến y sẽ đọa lạc mãi trong luân hồi.
Hễ việc gì tới mà mình tỉnh ngộ, thấu triệt,
thì mình là kẻ có căn cơ. Kẻ không có căn cơ thì việc gì (trái ý muốn, trái sở
thích) đến với y, y đều sanh phiền não, bực bội.
Kẻ không có căn cơ thì phiền não cả đống. Dù
bạn cố ý giải thích, y cũng không thể hiểu.
Không trừ phiền
não thì chánh niệm (sự suy tư đúng với chân lý hay Phật lý) không thể hiện tiền.
Chương IX:
Nhân Quả và Sám Hối
1. Nhân Quả
Chỉ biết ăn
uống mà không biết tu hành, thì ăn nhiều vào, khó mà tiêu (nghiệp) đặng.
Vì sao con
người luân hồi? Bởi vì Thất Tình (bảy thứ tình cảm hay trạng thái tâm lý), Ngũ
dục quá nặng nề.
Khi bị Thất
tình và Ngũ dục làm mê hoặc, thì cả ngày người ta chỉ biết truy đuổi tiền tài,
sắc đẹp, danh vọng, quyền vị, ăn uống, hưởng thụ và ngủ nghỉ. Phiền não cũng
theo đây mà sinh, rồi từ đó tạo đủ thứ nghiệp.
Ðừng cho
rằng không có luân hồi. Có! Rất khổ!
Khi xưa, hai
ngài Hàn Sơn và Thập Ðắc (hóa thân của Bồ-tát Văn Thù và Phổ Hiền) thấy người ta
đang làm lễ cưới thì vỗ tay cười lớn, nói rằng: 'Bạn thấy chàng rể cưới bà ngoại
của anh ta không? Xem kìa, tụi nó ăn thịt cô, dì của chúng đấy!'
Mấy người kia
nghe vậy liền mắng hai Ngài rằng: 'Hòa Thượng điên cuồng! Nói bậy!'
Nhưng khi Ngài
Hàn Sơn kêu tên một con heo, thì con heo ấy chạy tới phía Ngài liền: xác nhận là
có luân hồi rồi!
Những ai
thích đẹp đẽ, đi giày cao gót, thì sau này (quả báo của tập khí đó) y tự nhiên
sẽ đầu thai làm ngựa, không cần phải mang giày gì cả!
Một người cứ
ăn cho thật no thì đầu óc hôn trầm, cứ muốn ngủ. Hễ ngủ nhiều quá thì sau này
(quả báo) làm thân rắn.
Con trâu tuy
làm việc cực nhọc mà nó lại không biết làm sao để thoát khổ. Làm thân trâu là
nghiệp báo do kiếp trước làm quan (công chức, nhân viên nhà nước) không thanh
bạch, không liêm khiết (ăn hối lộ), nên kiếp này phải trả nợ.
Có một người
làm quan, rồi đem tiền của (kiếm được do làm việc bất chánh) trốn ra ngoại quốc.
Cuối cùng y phải trả quả báo, đầu thai làm trâu ở Ðài Loan này.
'Một đời làm
quan xấu,
Chín kiếp làm
trâu đền nợ'.
Con trâu thì có
hai sừng, mà cọp cũng phải kiêng sợ. Dần dần một ngày kia con trâu cũng sẽ hiểu
biết. Như trâu cày ruộng bây giờ, cũng là giúp đỡ mình vậy.
Khi ai làm
điều gì tốt, thì bạn đồng ý, tán thành với y. Song khi làm không tốt mà bạn cũng
tánh thành, thì tội bạn sẽ tăng lên gấp bội.
Phải biết
trân quý giấy trắng (có thể viết chữ). Hễ tờ giấy nào có viết chữ kinh điển thì
đừng vất trong thùng rác; nên đốt nó đi. Ðây cũng là một thứ đức hạnh.
Hãy giữ gìn
những chữ viết trên giấy hay trên áo; dù là một chữ nhỏ cũng phải quí giữ nó.
Chữ thêu trên áo thì nên cắt ra rồi đốt đi, đừng vất vào thùng rác. Biết quý
trọng chữ như vậy thì (quả báo) mới biết đọc chữ. Ðó cũng là một đức hạnh vậy!
Xưa kia, cổ
nhân dạy trung, hiếu, lễ, nghĩa, liêm, sỉ; do đó sản sinh ra rất nhiều bậc
Thánh. Ngày nay, không ai dạy về những đạo đức nhân nghĩa ấy nữa, nên thời đại
trở nên hỗn loạn. Do đó, đối với các sách kinh, luận dạy về đạo đức cổ xưa ấy,
mình phải biết quý trọng.
Ðồ vật tốt
mà bạn không biết sử dụng cho đúng đắn, đàng hoàng (không biết giữ gìn, bảo
trì), rồi làm nó hư đi; thì đó là lỗi bạn. Bạn phải gánh chịu hậu quả hoặc quả
báo.
Khi xử lý,
quyết định thi hành, hoặc tiến hành bất kỳ công việc gì, bạn phải hết sức cẩn
thận, bởi vì cái gì cũng có nhân quả. Ví như những thức còn ăn được mà bạn lại
vất đi hoặc để cho thiu thối, thì bạn phải chịu quả báo của việc làm ấy. Nhân
quả thì không sai chạy mảy may, và không ai có thể chịu dùm quả báo của bạn:
Việc sanh tử
của người nào thì người nấy lo; Cơm, ai ăn thì người đó no!
Có đồ vật
tốt thì chớ làm cho nó hư hỏng. (Ðừng cố ý làm hư; đừng lơ là, thiếu cẩn thận,
thiếu tinh thần trách nhiệm; hoặc không chịu học hỏi phương cách đúng đắn để sử
dụng hay bảo trì; cũng đừng chểnh mảng, bê bối, coi rẻ, chẳng quý trọng tài
vật.)
Phật, Bồ
Tát, La Hán, Trời, Người, A-Tu-La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, đều là do người
mà ra. Hễ ai tu hành đàng hoàng thì sanh vào đường tốt; tu bê bối, phạm Ngũ
Giới, thì đọa lạc đường ác.
2. Sám Hối
Khó được
thân người; khó được nghe Phật Pháp. Nay được thân người, phải gắng tu hành cho
đàng hoàng.
Những vị ở Trời
tuy hưởng phước đức, song hễ họ khởi một ý niệm xấu thì sẽ bị đọa lạc. Ðối với
chúng ta, nếu mình có phạm tội lỗi, chỉ cần thành tâm sám hối thì cũng sẽ được
trong sạch như người vô tội vậy. Cõi Người là cõi tu hành tốt nhất: được nghe
Phật Pháp, được biết cách làm sao để tu.
Khi ý niệm
xấu khởi lên, nếu bạn chưa nói ra và chưa làm theo nó, thì bạn có thể sám hối
trong lòng, quyết không tái phạm.
Hỏi: Khó mà
giữ ý nghiệp cho thanh tịnh, vì thói hư tật xấu tiêm nhiễm, tích tập từ kiếp vô
thủy, nay gặp duyên xấu nên tự nhiên hiện khởi. Lúc ý niệm xấu ấy khởi lên, mình
tức khắc sám hối, thì có phải chịu quả báo xấu không?
Ðáp: Ý niệm ác
chỉ mới nghĩ trong tâm, nếu sám hối liền thì không có quả báo xấu lại. Nếu ý
niệm xấu đã thể hiện ra nơi miệng (khẩu nghiệp), hoặc mình đã thực hành nó rồi
(thân nghiệp), thì sẽ phải chịu quả báo. Mỗi giây mỗi phút mình phải có tâm sám
hối; có tâm sám hối thì ý niệm lành mới khởi lên đặng.
Nói với
người tu thì phải xem căn cơ của họ ra sao rồi mới nói.
Ví như đối với
kẻ có căn cơ thì mình nói: 'Phạm tội lỗi rồi, bạn có thể sám hối. Tội do tâm tạo
ra, vì vậy hãy thành tâm mà sám hối.' Như thế thì người kia tuy có tội lỗi, song
y có thể sám hối rồi trở lại thanh tịnh: không còn tái phạm, dụng tâm tu Chánh
Ðạo.
Ðối với những
kẻ không có căn cơ, mình nói thế không ổn. Bởi vì dạy họ như vậy, họ cho rằng cứ
việc mặc tình tạo tội lỗi, rồi tâm sám hối là xong ngay! Vì thế họ vĩnh viễn
không cách gì thành tâm sửa đổi lỗi lầm được, dù cho họ có sám hối mãi hoài!
Giới luật có
đặt ra trường hợp ngoại lệ, không phải phạm nguyên tắc. Bạn phải học cho kỹ để
tránh hiểu lầm.
Nếu bạn vô ý
phạm lỗi thì có thể sám hối. Cố ý phạm lỗi thì không thể sám hối (Vô ý phạm lỗi
là chỉ lúc chưa xuất gia, chưa biết Giới Luật. Cố ý phạm lỗi là chỉ sau khi đã
xuất gia rồi). Sám hối một thứ tội gì đó không được vượt quá ba lần (nghĩa là
không được tái phạm quá ba lần).
Ðối với
ý-nghiệp thì mình không sợ niệm ác khởi lên: chỉ sợ là mình thức tỉnh, nhận biết
nó chậm mà thôi. Do đó, hễ vừa khởi ác niệm thì phải lập tức sám hối ngay.
Một khi đã
phạm lỗi, mình phải luôn nhận rằng: 'Tôi làm lỗi'; rằng 'Tôi xin sám hối'; rằng
'Xin bạn hãy dạy tôi.' Ðừng sanh phiền não thì mới hết ngã tướng, và không có ý
niệm xấu ác dấy khởi.
Một kẻ càng
tu hành bao nhiêu, càng luôn có cảm giác là y cần phải sám hối bấy nhiêu.
Cá lớn ăn cá
nhỏ. Con người cũng như cá lớn: cái gì cũng ăn, dù là thịt cọp cũng ăn luôn; vì
thế nên nghiệp chướng sâu dày. Nếu không khéo thành tâm sám hối, lạy Phật cho
nhiều, thì đến lúc Ðức Di Lặc hạ sinh ở cõi này (ý nói là trải qua một thời gian
lâu lắm), mình cũng không có chút căn lành gì đâu.
Nếu biết tu
hành, lạy Phật nhiều nhiều, cầu nguyện sám hối, rộng trồng căn lành, thì biết
đâu tới lúc Ðức Di Lặc hạ sinh, mình có thể được làm đệ tử của Ngài!
Chương X: Lời
Cuối
1. Thời Ðại Ðã
Thay Ðổi Rồi!
Thầy giáo
ngày nay và ngày xưa khác nhau xa lắm.
Thời Hán, thầy
giáo thì kính trọng đạo đức, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Thời nay, thầy giáo bản thân
không làm xong (không đủ đức độ). Phật học ngày nay cũng kém xa ngày xưa.
Hồi xưa ai
cũng coi trọng lễ, nghĩa, liêm, sỉ; do đó mới có bậc Thánh Nhân xuất hiện.
Ðời nay không
ai những điều ấy là giá trị, vì vậy xã hội ngày càng hỗn loạn. Do đó mình phải
có thái độ cung kính đối với kinh điển.
Ngày xưa có
người họa sĩ có thể vẽ hình mặt trời hệt như thật, đến độ người ta có thể đem
lúa ra phơi dưới bức tranh! Có kẻ vẽ con chim vô cùng sống động, đến độ nó có
thể bay thật sự! Sở dĩ họ làm như thế được là do tu luyện mà ra.
Người thời nay
ai mà vẽ được con chim biết bay thực sự? Ai ai cũng ỷ lại vào kỹ thuật máy móc
hoặc hóa học chế biến cả!
Hiện nay,
Phật-giáo trên toàn thế giới đại thể thì có hoằng Pháp, truyền bá. Song le, tuy
đạo Phật phổ biến như vậy, nhưng lại rất khó tìm được kẻ chân chánh tu hành.
Cũng có kẻ sớm đến với Ðạo, thiện căn khá tốt; song, kẻ xuất gia thì vẫn ít.
Xưa kia, ở
chùa bên Ðại Lục (Trung Quốc), việc xuất gia không có dễ dàng đâu. Hễ vừa đi tu
là bạn phải làm việc lao động tay chân ở chùa một thời gian (khổ công như cày
ruộng, cuốc đất..), rồi sau đó mới được phép làm những việc nhẹ trong chùa.
Ở Ðài Loan
(Trung Hoa), việc xuất gia rất phổ biến, rất bình thường; và phần lớn là căn cứ
theo học vấn mà xét việc xuất gia.
Ở Ðại Lục
xưa kia, xuất gia là để liễu thoát sanh tử: do đó, tu hành cực khổ, học cái khổ
hạnh của Phật, Bồ Tát để tu luyện bản thân. Tại Ðại Lục, kẻ xuất gia phải chịu
làm việc lao tác cực khổ (khổ hạnh) trong ba năm; có chịu cực khổ thì mới giải
thoát được!
Người nay và
người xưa khác nhau xa: cổ nhân, Ðạo-tâm có mười phần; người đời nay, Ðạo-tâm
chỉ có một phần.
Người tại
gia hay xuất gia đời nay sinh hoạt sung sướng, tốt lắm. Khi cuộc sống quá sung
sướng thì sẽ sinh ra nhiều tai nạn. Chấp trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp, thì bịnh hoạn cũng sẽ nhiều hơn.
Ăn cơm đạm,
mặc áo thô: tu hành là cứ ở đây mà dụng công. Song hiện tại, ai ai cũng nghiên
cứu việc ăn ngon, mặc đẹp. Cả ngày bận rộn vì mấy chuyện ấy. Mình nguyện muốn
tiêu nghiệp chướng, nay biến thành tiêu hao mất phước huệ; rồi thì nghiệp chướng
cũng theo đó mà ùa tới thôi.
Xưa kia cơm,
canh, rau cải, thật giản dị - cứ việc bỏ hết vào luộc là xong (gọi là La-hán
thái). Giờ đây, ai cũng chú ý, kén chọn việc ăn uống đến độ người xuất gia ăn
còn ngon hơn cả kẻ thế tục nữa!
Hồi xưa, ở
Ðại Lục, các thầy tu ở chùa mặc thì mặc áo vải bố (thứ vải mặc làm đám tang)
nhuộm thành màu xám; ăn thì ăn cháo lỏng như nước lã (do đó chén bát không cần
phải rửa kỹ), cộng thêm một chút đồ ăn giản dị; chứ không phải như các bạn bây
giờ được ăn cơm trắng, lại có đủ món, nhiều món ăn như vậy.
Chùa chiền ở
Trung Hoa xưa kia, hễ ai để đồ đạc bừa bãi thì chùa đều gom góp, tịch thâu lại,
bất kể là của ai. Nếu bạn muốn tìm đồ mình mất thì phải đi hỏi Thầy Quản-lý.
Ở chùa bên
Trung Hoa khi xưa, khi có ai phạm lỗi lầm, Thầy Quản-lý không cần phải nói dông
dài gì cả, mà chỉ việc viết tên người ấy lên bảng bố cáo; người ấy đọc được là
tự động rời chùa ngay.
Thời nay, Thầy
Quản-lý có tới nói lỗi lầm của bạn (để mời bạn cuốn gói), bạn (chẳng những không
thèm nghe) lại còn tranh chấp cãi vã với thầy ấy nữa; thật là sai lệch quá xa!
2. Khai Thị
Ngộ Nhập
Tự mình sanh
phiền não, tự mình phải giải mở. Hãy đem lời Sư-Phụ khai thị ra áp dụng.
Sư-Phụ khai
thị nhiều như vậy, giờ đây xem bạn thọ trì ra sao.
Kẻ biết
nghe, khai thị mới có ích. Kẻ không biết nghe, khai thị cũng vô dụng.
Nghe giảng
khai thị, không luận là nghe nhiều hay nghe ít, mà là coi xem nghe vào hay không
vào (tâm). Nghe vào tâm rồi thì phải biết áp dụng.
Bạn nghe lời
khai thị của Sư-Phụ hay quá. Song hay là Sư-Phụ hay (chứ không phải bạn hay).
Vẫn phải cần bạn đem thực hành.
Các bạn lạy
tôi làm Thầy; tôi dạy các bạn Phật Pháp. Khi tôi không còn ở đời, các bạn phải
theo thứ Pháp này mà tu hành thì Ðạo-tâm mới kiên cố, con đường xuất gia mới
viên mãn.
Khi học Phật
Pháp, bạn nghe Sư-Phụ khai thị cho một câu thì tự mình phải làm sao giác ngộ,
lãnh hội được câu ấy. Không phải cần nhiều lời. Khi lời nhiều thì các bạn vẫn
còn bị xoay chuyển.
Hỏi: Sau khi
Sư-Phụ viên tịch, nếu chúng con tưởng nhớ Sư-Phụ thì phải làm sao?
Một thầy (Thầy
Truyền Vân) phát biểu: 'Chính Phật-tánh của Sư-Phụ nói Pháp, khai thị cho chúng
ta; chứ không phải là cái thân giả hợp của Ngài. Có nhớ tưởng tới Ngài thì mình
hãy phát tâm dũng mãnh, tinh tấn tu hành!'
Lời tôi
giảng là nhắm thẳng vào các bạn. Ðừng nghĩ rằng tôi nói lỗi xấu của riêng bạn
hay của người nào đó, rồi sinh ra phiền não, bực bội.
Nếu bạn có lỗi
thì hãy tự thừa nhận, sám hối, phản tỉnh, sửa đổi tánh nết, hành vi.
Cứ thường chấp
trước thì dễ sinh phiền não. Bạn có phiền não, rồi lại ảnh hưởng, làm kẻ khác
cũng bực bội, rồi cả đại chúng đều sinh loạn. Thế thì làm sao 'thống lý đại
chúng' làm cho mọi người hoà hợp? Phải sửa mình, tề gia trước, rồi sau mới trị
quốc, sửa người được.
Kẻ có tánh
thẳng thắn thì tuy lời nói không êm tai, không dễ nghe cho cho lắm, song bạn chớ
cho là lời xấu ác. Có kẻ ăn nói hay ho lắm, song tâm thì không tốt gì cả. Do đó,
bạn phải chú ý, phải hiểu suốt tâm lý nhân tình.
Nhiều khi kẻ
trực tâm lời nói không có ý xấu gì cả, song người nghe thì cong vạy, khúc mắc,
xuyên tạc; thậm chí còn cho rằng anh ta suy nghĩ phức tạp lắm nữa!
Ðừng nên
nghe người bừa bãi. Ðừng nghe bên này nghe bên nọ rồi không biết ai đúng ai sai.
Khi tâm bạn không tự làm chủ thì dễ thành tán loạn, dấy vọng tưởng, sinh phiền
não.
Nghe cũng
phải biết cách: cần nghe Phật Pháp, chớ nghe chuyện thế tục.
Nghe Phật háp
thì được giải thoát, không còn ngã tướng, không còn cái 'tôi'. Nghe chuyện trần
tục tức là có chuyện thị phi, phát sinh ra tướng ngã (có 'tôi', có 'anh'; có
'đúng', có 'sai'). Ðó là chủng tử xấu, về sau khó tẩy trừ.
Lời nói đúng
sự thật thì bạn mới nên nghe. Lời không đúng chân lý mà bạn nghe vào, thì có thể
gieo ảnh hưởng xấu cho kẻ khác, mà tự mình phải gánh chịu quả báo.
Kẻ biết
nghe, thì chỉ một hai lời nói là y hiểu ngay; không cần phải kể lể rườm rà.
Khi xưa mấy
thầy giảng kinh, họ đều dành lại một phần để người nghe tự tìm hiểu và thể hội.
Họ không giảng hết, cũng không kể chuyện cổ tích dài dòng.
Kẻ có căn
cơ, thì bạn nói gì là y nghe ngay. Kẻ không có căn cơ thì khi nghe bạn nói, y
liền tán dóc, lép nhép không ngừng.
Tự mình phải
giác ngộ bản lai diện mục của mình. Nghe (giảng khai thị) chỉ là cảnh giới của
Lục trần mà thôi.
3. Pháp Ngữ
Hỏi: Mỗi
ngày trì Chú, lạy Phật, lại tu thêm Pháp-Hoa Tam-Muội, song tâm vẫn còn lăng
xăng, tạp nhạp là vì sao?
Ðáp: Mình không
tự chủ thì không xong. Chuyên tâm niệm Phật, trì Giới, lạy Phật là đủ!
Hễ công việc,
sự tình càng nhiều thì bạn càng chấp trước, tâm càng không an định. Ðừng chấp
trước vào cái hay cái tốt của kẻ khác. Kẻ có căn cơ thì khi nhìn điều xấu xa của
người, y biết vận dụng (tránh phạm cùng lỗi) để tu tiến bộ hơn. Kẻ không có khả
năng thì chỉ sinh thêm phiền não.
Muốn định tâm,
rất khó. Do đó phải tìm cái tâm bất sanh bất diệt, đừng tìm những thứ sanh diệt
bên ngoài. Cần tìm cái mà xưa nay tự-tánh sẵn có. Tất cả mọi thứ nghe được, thấy
được, ở bên ngoài, đều không dính dấp gì tới mình (chân-tánh) cả.
Hình tướng
người Tỳ-Khưu là hình tướng Phật. Hễ thấy thầy Tỳ-Khưu tới, bạn nên lập tức chắp
tay đón chào, lễ lậy. Không cần phải phân biệt, đánh giá thầy này có tu hành,
thầy kia không tu hành.
Biết tụng
niệm, gõ khánh, đánh chuông là việc rất tự nhiên; không cần để tâm học tập. Khi
trí huệ khai mở thì tự nhiên bạn biết làm ngay.
Trong Tam
Giáo (Nho, Lão, Phật), thì Nho-giáo dạy đạo đức, lễ, nghĩa, trung, hiếu. Lão
giáo tuy cũng dạy tu Ðạo, song không dạy Phật-lý (chân lý cứu cánh), nên không
giải thoát. Cuối cùng chỉ có quy nạp về Phật-môn Tịnh-Ðộ (của Phật-giáo), cầu
vãng sanh, thì mới liễu thoát sanh tử.
Phật-giáo và
Lão-giáo (Ðạo-giáo) rất khác biệt nhau. Tu đạo Phật là vì liễu sanh tử. Tu đạo
Lão là để trường sanh bất lão. Song, dù sống tới trăm ngàn tuổi vẫn không phải
cứu cánh, vì không thoát được sanh tử.
Trong đạo Lão
cũng có nhiều người tu rất tinh tấn, chứng được thân La-hán (như Lã-Ðông-Tân,
Hán-Chung-Ly); song, thân La-Hánh của họ không phải cứu cánh. Các vị La-hán bên
Phật giáo thì đã đoạn được hai thứ kiến-hoặc và tư-hoặc (Kiến và Tư hoặc là hai
thứ si mê của cái nhìn và của tâm tư khiến mình không thấy được Phật-tánh. Hai
thứ si mê này rất thâm sâu vì được hình thành và nuôi dưỡng từ nhiều đời nhiều
kiếp bởi thói quen và chủng tử ô nhiễm lầm lẫn rằng thật có cái 'ta' và vạn
pháp), siêu thoát luân hồi. Bên Ðạo-giáo, nhiều vị được thân La-hán cũng không
phải chết, có khi họ sống trong núi đến hàng trăm năm.
Chúng ta cốt
yếu cần tu để giải thoát sanh tử. Do đó, mình cần phải xả thân, đừng sợ cái thân
này cực khổ. Phải nhớ rằng, tu đạo Phật là tu để ba nghiệp (thân, khẩu, ý - hành
động, lời nói, ý nghĩ) được thanh tịnh, sáu căn được trong sạch, thoát khỏi cái
khổ cả sanh, già, bệnh, chết.
4. Lời Của
Thầy Truyền Văn
Ðừng chấp
trước tốt, xấu. Ðừng rớt vào cực đoan (nhị biên: vui-buồn, hay-dở, đúng-sai...),
Nếu chấp trước vào chuyện xấu, thì vĩnh viễn bạn sẽ bị tắc nghẽn ở chỗ ấy, không
thể tiến bộ. Ví như bạn có làm lỗi lầm gì, trong tâm cảm thấy rất thống khổ, hối
hận; rồi cứ âu sầu mãi, không thể mở rộng tấm lòng. Nếu bạn cứ mãi ôm chặt
chuyện dĩ vãng, thì không thể nào an tâm tu Ðạo được.
Mọi việc đều là
huyễn hóa (như hình ảnh, cảnh tượng hiện ra trong bọt xà-bông), đều là không
thật. Việc đã qua rồi thì thôi. Cứ chấp chặt, ôm ấp mãi thì chỉ phiền não.
Nguyện thì
phát ở trong lòng: không phải đem ra nói. Lòng cần nghị lực, theo nguyện mà làm.
Gặp cảnh tốt
hay xấu, chớ có phản ứng ra ngoài mặt: trong lòng biết là đủ.
Sư-Phụ dạy
rằng Ngài giống như một cây cầu. Ngài đã đi trước, dựng lên cái cầu để mình đi
qua. Ngài không dám tự cho rằng Ngài dạy ai cả. Ngài nói Ngài chỉ kể lại những
kinh nghiệm trong quá trình tu hành cho mình nghe, để mình nghiên cứu, học hỏi
mà thôi!
Tám Quy Luật
của Viện Phiên Dịch Kinh Ðiển
1. Dịch giả
phải thoát mình ra khỏi động cơ tự truy cầu danh lợi.
2. Dịch giả
phải tu tâm dưỡng tánh, dứt bỏ đi thói cao ngạo.
3. Dịch giả
phải tự chế, không được tự khen rồi chê bai kẻ khác.
4. Dịch giả
không được tự cho mình là tiêu chuẩn, là thước đo, rồi hạ thấp kẻ khác bằng cách
tìm lỗi lầm nơi tác phẩm của họ.
5. Dịch giả
phải lấy tâm Phật làm tâm mình.
6. Dịch giả
phải dùng Trạch Pháp Nhãn để phán xét đâu là chân lý.
7. Dịch giả
phải cung kính cầu thỉnh Cao Tăng, Ðại Ðức ở mười phương chứng minh cho bản dịch
của mình.
8. Dịch giả
phải hoan hỷ truyền bá giáo nghĩa nhà Phật bằng cách in Kinh, Luật, Luận một khi
phần phiên dịch của mình được chứng minh là đúng đắn