Đáp : Quán hơi thở gọi
là Sổ tức quán, là một trong năm thứ thiền quán của thừa Thanh văn, gọi là Ngũ Đình
Tâm quán, ba gồm: Từ bi quán, Nhân duyên quán, Lục thức quán, Bất tịnh quán và
Sổ tức quán, ấy là thiền quán riêng biệt của thừa thanh văn dùng để đình chỉ
cái tâm.
Lại nữa, cách đếm hơi thở gọi là Lục diệu môn, cũng là
của Tiểu thừa, nếu theo đó tu có thể đạt đến diệu cảnh của Niết bàn Tiểu thừa.
Trong cuốn Danh từ Thiền học chú giải của tôi cũng có giải thích những danh
từ đó.
Còn bây giờ thầy hỏi là thiền quán nào? Nếu nói về Tổ
Sư Thiền thì đó là vọng tưởng, nếu nói là Tịnh độ thì không phải, vì trong mười
sáu thứ thiền quán có quán tượng Phật của A Di Đà, chứ không quán trăm phước
trang nghiêm của Đức Phật.
Nếu tham thoại đầu mà quán Phật là vọng tưởng, chớ nói
là quán, ở trong Thiền đường của Tòng lâm Thiền Tông, niệm một tiếng Phật phải
phạt rửa thiền đường ba ngày! Còn Tịnh độ thì phải niệm Phật. Bởi vậy, hễ theo
pháp thiền quán nào phải theo đúng tông chỉ tông phái đó, chứ chẳng phải đều
giống nhau, do đó Đức Phật mới dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn.
Hỏi : Có
một cô Phật tử năm nay sáu mươi lăm tuổi, chồng cô ta mắc bệnh tâm thần hơn bốn
mươi năm nay, chạy đi thầy thuốc chẳng hết bệnh, cũng chẳng chết. Cô ấy muốn lập
đàn sám hối thay chồng, vậy có lợi ích gì cho người chồng không ?
Đáp : nhân quả là ai làm
nấy chịu, chứ chẳng thể người này làm cho người khác được.
Hỏi :
Chồng của cô ấy trước kia cũng làm ra một số tiền, nay cô muốn đem số tiền bố
thí cúng dường hoặc làm một việc gì đó cho chồng được nhẹ bớt bệnh ?
Đáp : Nhưng người chồng
phải biết sự phát tâm đó, vì có biết mới có tâm tạo, hễ tâm tạo một niệm thiện,
có thiện nhân mới được thiện quả.
Hỏi: Vậy ông đó phải
phát tâm mới được ?
Đáp: Phải.
Hỏi : Con
là học Tăng mới, trong quá trình công phu con gặp phải những hiện tượng bức xúc
như cảm thấy thân không còn nữa, hoặc như đứng trước ngã tư đường, bốn phía đều
bị vây chặt, phía trước lại là hố thẳm chẳng thể bước tới, hoặc như đứng trước
một bức tường chẳng thể xuyên qua … vậy đó có phải thiền bệnh chăng?
Đáp : Tất cả thiền đều
có thể trải qua những cảnh giới đó. Theo
Kinh Lăng Nghiêm, những cảnh giới đó nếu không cho là thù thắng thì là
cảnh giới tốt, nếu cho là thù thắng sẽ lọt vào tà ma.
Còn Tổ Sư Thiền đối với tất cả cảnh giới đều không
biết, hễ có biết ấy là vọng, là nghịch với Tổ Sư Thiền, là chướng ngại sự kiến
tánh. Phải dùng nghi tình để quét sạch những cảnh giới đó, dẫu cho Phật Thích
Ca đến rờ đầu thọ ký vẫn là không biết, cứ nhìn và hỏi, những cảnh giới đó tự
nhiên tiêu diệt, vì pháp môn này là dùng cái không biết để tu, đến chừng biết được
rồi thì tất cả đều biết, gọi là Chánh biến tri.
Hỏi : Khi đọc Kinh Pháp Bảo Đàn, con gặp hai bài kệ :
“Ngoại Luân hữu kỹ lưỡng, năng đoạn bá tư
tưởng,
đối cảnh tâm bất khởi, Bồ đề
nhật nhật trưởng”
. Còn ngài Lục Tổ lại nói:
“Huệ Năng một kỹ lưỡng, bất đoạn bá tư tưởng,
đối cảnh tâm số khởi, Bồ đề
tác ma trưởng”.
Ý của hai bài này như thế nào ?
Đáp : Bài kệ của Lục Tổ
là để phá sự chấp thật của Ngoạ Luân, vì Ngoạ Luân có tư tưởng chấp thật, mà
thực tế thì chẳng có cái nào thật. Tại sao? Vì tất cả đang biến hóa, hễ có biến
đổi thì chẳng thật. Ví như mặt mũi của thầy, nhìn vào hình như lúc nào cũng
giống nhau, nhưng sự thật có thay đổi, sát na trước và sát na sau đều khác nhau.
Cũng như khi đốt lên cây đèn nến, thấy ngọn lửa như y hệt, nhưng ngọn đèn sát
na trước và sát na sau đã hoàn toàn khác, chúng sinh không biết, chỉ cho là
giống nhau thôi.
Hỏi : Đức
Phật dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, tùy theo căn cơ của chúng sinh để hành
trì, mục đích là tới thanh tịnh tâm; nhưng tại sao ngài Lục Tổ lại phủ nhận
toàn bộ bài kệ của Ngoạ Luân ?
Đáp : Do thầy cũng có tư
tưởng chấp thật nên có câu hỏi này, vì chấp thật mới cho là cái này đúng, cái
kia sai. Nếu không chấp thật tức nghĩa vô trụ, chẳng trụ chỗ nào cả. Hễ vô trụ
thì cái nào cũng như cái nấy, ăn cơm cứ ăn, nói năng tiếp khách cứ nói năng
tiếp khách, vốn chẳng dính dáng gì. Chẳng cho là cơm này ngon cơm kia không
ngon, áo này đẹp áo kia xấu … đủ thứ phân biệt đều do tự tâm mình tạo ra, nên
nói nhất thiết duy tâm tạo.
Hỏi : câu
:“Dục trừ phiền não trùng tăng bệnh, xu hướng Chơn như tổng thị tà”, hai câu
này đối đãi nhau, trong khi con muốn trừ phiền não thì phải làm sao?
Đáp : Tất cả lời nói của
chư Phật chư Tổ đều chẳng thật, chính Đức Phật nói: “Phàm là lời nói đều chẳng
có nghĩa thật”, Kinh Kim Cang nói: “Vô pháp khả thuyết mới gọi là thuyết
pháp”. “Nếu ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, vậy có phải mâu thuẫn
không ? Không, bởi vì lời nói đó chẳng phải, cái phải đó chẳng thể nói. Tất cả
những gì mình hiểu được, nói được đều chẳng phải thực tế, cái thực tế đó phải
ngộ mới được.
Hỏi : Thể
tánh của Phật là thể tánh không, thế thì tại sao bày ra đủ pháp môn này pháp
môn kia như Tổ Sư Thiền chẳng hạn, không khéo lại đem bụi bậm vào thể tánh đó ?
Đáp : Tất cả pháp của
Phật Thích Ca dạy đều là phương tiện, mục đích để đạt đến chỗ hiện ra bản lai
diện mục của tâm mình, tất cả danh từ chỉ là danh từ chứ chẳng có thực tế.
Nói đến cái Không đó, bởi do tâm của mọi người chẳng
hình tướng số lượng, “Không” là để
hiện bày cái dụng, muốn dùng thì phải có cái Không đó. Ví như cái tách này, nếu chẳng có cái không, ấy là tách chết, dùng không
được, cái bàn này, bình này, căn nhà này v.v... cũng vậy. Mà cái Không này là vô sở hữu, vô sở hữu mà
dung nạp tất cả, tất cả đều ở trong vô sở hữu này, và tất cả đều phải nhờ cái
vô sở hữu này mới hiển bày được sự dụng.
Nếu vô sở hữu thì chẳng nghĩa lý, chẳng lời nói chẳng
danh từ nào để nói; bây giờ muốn nói, đặt ra những danh từ là phương tiện cho
mọi người hiểu được cái dụng. Ví như bản thể của tâm khắp hư không chẳng khứ
lai, nên đặt tên Như Lai, là đúng như bản lai; vì khắp thời gian thì chẳng sanh
diệt, nên đặt tên Niết bàn, vì trống rỗng chẳng có gì cả nên đặt tên Tánh Không
v.v...
Hỏi : Nếu
như thế thì đâu cần bàn là giải thoát hay không giải thoát ? Vì thể tánh vốn
như thế !
Đáp : Phải. Cho nên có
người đến với Tổ sư, Tổ sư hỏi: Muốn gì ?
- Muốn cầu giải thoát.
Tổ hỏi: Ai trói buộc ngươi?
Vốn là không trói buộc thì đâu cần giải thoát, phải
không ? (Dạ phải), nhưng chính bây giờ ông bị trói buộc rồi, do tâm ông tự trói
nên mới cầu giải thoát.
Hỏi : Bạch
Hòa thượng, đúng, nhưng nếu con bị trói buộc thì ngay bản thân con phải tự giải
thoát chứ đâu nhờ ai giải thoát cho con được ? Sở dĩ đặt ra những phương pháp
đó chẳng qua chỉ là phương tiện thôi!
Đáp : Nếu không đặt ra
thì ông làm sao biết để đi đến giải thoát ? Cho nên Đức Phật mới đặt ra phương
tiện, mặc dầu đặt ra, nhưng ngài lại sợ người ta chấp vào lời nói của Phật, nên
nói: “Ta bốn mưới chín năm chưa từng thuyết một chữ”, “Ai nói ta có thuyết pháp
là phỉ báng Phật”, vậy ông có hiểu không ?
- Dạ hiểu.
- Thế thì khỏi hỏi nữa.
Hỏi : Mỗi người đều có một viên
minh châu, vậy đâu là viên minh châu của Hòa thượng ?
Đáp : Bây giờ nói chỉ là
lời nói, ví như nói về cái tâm, cũng chỉ là danh từ để nói thôi. Mặc dầu Phật
đặt ra những danh từ, nhưng ngài nói là chẳng có nói. Tại sao ? Vì cái thực tế
nói không được.
Đức Phật đặt ra danh từ rồi bảo chúng ta phải thực hành,
phải đi đến chỗ thực tế của danh từ đó. Muốn đến chỗ thực tế của danh từ đó
phải tu.
Hỏi : Qua
những câu hỏi trên, khiến con nhận thức rằng những tri kiến được tiếp thu qua
vạn pháp ở thế gian đều là những phương tiện, chẳng phải cứu cánh. Những văn tự
ngôn từ diễn đạt tình trạng tâm linh mà người ta thường dùng, vô tình đã gây chướng
ngại cho sự phát triển Minh tâm Kiến tánh. Vậy xin Sư phụ từ bi khai thị
phương pháp độc đáo của Tổ Sư Thiền cho chúng con hầu thấu triệt công phu trên
đường tu tập.
Đáp : Cái độc đáo nhất
ấy là vô sở hữu, tức hư không trống rỗng vô sở hữu. Tất cả chúng sinh, vũ trụ
vạn vật, núi sông đất đai, nhà cửa cây cối, đều phải ở trong vô sở hữu này;
trong cuộc sống hằng ngày, mặc áo ăn cơm, nói năng tiếp khách … đều phải nhờ
cái vô sở hữu này.
Tâm của con người luôn muốn có sở hữu: Tiền này là sở
hữu của tôi, nhà này là sở hữu của tôi, bất cứ tài sản gì đều muốn thuộc về sở
hữu của tôi, từ đó sanh ra đủ thứ phiền não, chướng ngại cái dụng vô sở hữu.
Sự dụng của vô sở hữu vốn khắp không gian thời gian,
chẳng có hạn chế, nay hễ sanh ra một mảy may cầu sở hữu liền bị hạn chế, chướng
ngại cái dụng của tâm vô sở hữu. Nên pháp tham thiền là dùng cái không biết để
tu, vì không biết thì chẳng thể có tâm muốn sở hữu, hễ mống tâm mong cầu là
biết vậy.
Hỏi :
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, có hai đoạn hình như mâu thuẫn nhau: Đoạn trên ngài
Lục Tổ dạy Huệ Minh khi đối cảnh chẳng khởi thiện chẳng khởi ác, đoạn sau lại
dạy cho Ngọa Luân đối cảnh tâm cứ khởi, vậy hai đoạn này có phải mâu thuẫn
không?
Đáp : Lời nói của Lục Tổ
nói với Huệ Minh chẳng phải lời dạy, ấy là câu thoại đầu, thoại đầu là chưa nổi
niệm lên, chẳng khởi niệm thiện cũng chẳng khởi niệm ác mới được gọi là thoại
đầu. Nếu đã khởi lên một niệm, dù là niệm thiện, cũng gọi là thoại vĩ chứ chẳng
phải thoại đầu. Đến thoại đầu là chẳng có niệm nào, chỗ đó gọi là đầu sào trăm
thước, hễ tiến thêm một bước là Kiến tánh. Lục Tổ là muốn Huệ Minh ngay đó Kiến
tánh, chứ chẳng phải là dạy.
Đối với bài kệ để phá chấp thật của Thiền sư Ngọa
Luân, như trên đã nói, chỉ là phá chấp thật thôi, cũng chẳng phải là dạy. Bởi
vì vô sở hữu thì đâu có gì để dạy ! Chư Phật chư Tổ cũng chẳng có gì để dạy,
chẳng có gì cho người; trong Truyền Đăng Lục nói: “Nếu nói tôi có gì cho
ngươi, ấy là lừa gạt ngươi”.
Cho nên, nếu dùng tư tưởng chấp thật để tìm hiểu kinh
điển Đại thừa là sai lầm, vì tất cả kinh Đại thừa đều chỉ là phá chấp thật mà
thôi.
Hỏi
: Trong kinh Phật thường nói đến hai chữ “Chánh niệm”, tức tâm mình ở trong
trạng thái chánh niệm. Theo con hiểu, chánh niệm là vô niệm. Kinh Pháp Bảo Đàn
nói: “Vô niệm là nơi niệm mà lìa niệm”, tức trong tâm chẳng khởi niệm nào thì
tâm được chánh định, phải không ?
Đáp : Phải. Bài Vô
Tướng Tụng trong Kinh Pháp Bảo Đàn: “Vô niệm niệm tức chánh, hữu
niệm niệm thành tà”, chẳng có niệm nào cả là chánh niệm, bất cứ nổi lên niệm
gì, dù là niệm thiện, cũng thành tà. Chữ Tà này chẳng phải tà ác, chỉ là không
đúng với chánh thôi.
Hỏi : Lúc
tâm mình chẳng khởi lên một niệm nào, thì tâm ở vào trạng thái đó gọi là chánh
định, phải không ?
Đáp : Lúc đó sẽ gần đến
bản lai. Câu tiếp theo trong Vô Tướng Tụng là “Tà chánh đều chẳng chấp”
mới là đến chỗ bản lai. Nếu còn chấp vào cái chánh, chỉ là đến thoại đầu, chỗ
đầu sào trăm thước, nên phải từ đầu sào trăm thước tiến thêm một bước, tức
chẳng trụ nơi chánh nữa.
Hỏi : Nếu
tham đến chỗ chỉ còn một niệm, tức nhìn vào câu thoại muốn biết mà biết không
nỗi đó thiền gọi là nhất tâm bất loạn phải không ?
Đáp : Nói nhất tâm bất
loạn là của pháp môn Tịnh độ, còn Thiền Tông thì định với loạn là tương đối, ví
như vô ký, dù lúc đó tâm chẳng có loạn, mà Thiền Tông cho đó cũng là bệnh.
Vì Thiền Tông muốn giữ sự thắc mắc, muốn biết mà không
biết, vẫn còn là không biết. Nhất tâm bất loạn của Tịnh độ có cái nguyện cầu
vãng sanh, còn Thiền Tông thì chẳng có nguyện, vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ,
nên giống mà chẳng phải.
Tổ Sư Thiền là pháp thiền trực tiếp, mục đích là đi
đến chỗ ngộ, chứ không muốn đi đến chỗ nhất tâm bất loạn, thanh thanh tịnh
tịnh. Chẳng có sự mong cầu gì, hễ công phu đến mức tự động sẽ ngộ.
Hỏi : Về
phần lý, đến chỗ nhất tâm bất loạn có phải là định chưa ?
Đáp : Tất cả thiền đều
muồn đạt đến thiền định giải thoát, còn Tổ Sư Thiền thì như ngài Lục Tổ nói với
Pháp sư Ấn Tông trong Kinh Pháp Bảo Đàn: “Thiền định giải thoát chẳng
phải Phật pháp, Phật pháp là pháp bất nhị”. Những gì của Giáo môn coi trọng như
thiền định giải thoát … thì Thiền Tông lại không màng đến, nên Lục Tổ nói thẳng
là chẳng phải Phật pháp.
Vì Thiền Tông là muốn đến chỗ thực tế, thực tế bất
nhị, chẳng tương đối. Thiền định là đối với tán loạn, dẹp bỏ tán loạn rồi mới
nói là định; giải thoát là đối với trói buộc, mở trói rồi mới được giải thoát.
Tự tánh bất nhị, vốn chẳng phải loạn thì làm sao có định; vốn chẳng trói buộc
thì làm sao nói là giải thoát !
Cho nên, có một vị Tăng đến hỏi Tổ sư xin giải thoát,
Tổ nói:
- Ai trói buộc ngươi ?
- Chẳng ai trói.
- Thế thì đâu cần giải thoát !
Thiền Tông khác với các tông phái khác là đối với tất
cả những danh từ đều không màng đến, những gì Giáo môn cho là quí, Thiền môn
cho đó là dây xích bằng vàng, cũng là dây xích trói buộc thôi.
Hỏi : Về
phần hành, khi nghi tình làm mất câu thoại, tiến vào vô thỉ vô minh hoặc đến
thoại đầu, vậy thì thoại đầu với nơi chánh niệm hay chánh định đó có khác nhau
không ?
Đáp : Bây giờ nói chánh
niệm, thoại đầu, vô thỉ vô minh, căn bản vô minh v.v… mặc dầu đủ thứ tên gọi
nhưng không khác, tức chỗ đó là nguồn gốc của ý thức, từ chỗ đó tiến lên một
bước, lìa ý thức là Kiến tánh, phải lìa ý thức rồi mới không có tương đối, còn
ý thức là còn phân biệt tương đối.
Hỏi : Về
phần lý là vô niệm, tức nơi niệm mà lìa niệm, về phần thực hành thì pháp môn
tham thoại đầu đã đưa người ta thực sự tâm chẳng còn dính một niệm nào, vậy
theo con tìm hiểu pháp tham thoại đầu này qua phần lý và phần thực hành rất
tương ưng. Chúng con được pháp này là một điều đại nhân duyên, nay con đã được
Hòa thượng từ bi khai thị rõ ràng, chỉ dẫn con đường sáng tỏ để đến bờ bên kia,
xin thành kính cảm tạ Sư phụ.
Đáp : Đó là bổn phận của
tôi. Bổn phận của người tu sĩ là đi đúng theo nghĩa chữ Phật: Tự giác và Giác
tha, muốn Tự giác Giác tha phải dùng công phu, phải tu, nếu chỉ học hỏi là
không đủ.
Hỏi : Sư
phụ vì lợi ích tất cả mọi người đứng ra hoằng pháp, khổ tâm khổ trí, theo tư
cách của một người tu phải chơn tham, chơn thực tu hành mới mong đạt đến kết
quả giải thoát. Thế mà có những người bắt chước lời Phật lời Tổ, bắt chước cách
làm của Tổ, làm trò cười cho thiên hạ, kinh Phật nói là “Kẻ đáng thương xót”.
Đối với những người đã lâm vào tà kiến như thế, có cách nào giúp cho họ ra khỏi
sự tà kiến đó ?
Đáp : những người không
có sự chơn tu, chỉ bắt chước lời nói cử chỉ của chư Phật chư Tổ, Thiền Tông gọi
là “con chó” chứ chẳng phải con sư tử, tự tạo tội địa ngục mà chẳng hay. Những
người này chẳng cách nào trị nổi, kể cả Phật Thích Ca. Phải đợi họ xuống địa
ngục, chịu đủ khổ rồi ra mới sửa đổi được, còn bây giờ thì vô phương trị.
Hỏi :
Những người xuất gia học Phật pháp đều biết rằng đã xuất gia lìa khỏi gia đình,
đối với tình cảm cha mẹ họ hàng đều không quan tâm đến, gọi là thân sơ bình
đẳng. Nhưng bản thân con chắc do ảnh hưởng tư tưởng thế gian nhiều, cho nên,
tình cảm cha mẹ vẫn ăn sâu vào tâm khảm, nhất là khi về nhà thăm gia đình, thấy
cha mẹ tuổi già vẫn còn phải lao động làm con cảm thấy buồn. Vậy đó là do tâm
trí con quá yếu hèn, phải không ?
Đáp : Đó là tập khí
phiền não từ lâu đời, người nào cũng vậy. Bây giờ tu là muốn sửa lại tập khí,
phải có công phu mới sửa đổi được. Kỳ thật, cha mẹ vẫn có nhân quả của cha mẹ,
con cái tự có nhân quả của con cái. Đối với cha mẹ kiếp này, nếu mình không
xuất gia thì ở nhà lo cho cha mẹ, còn đã xuất gia, thọ sự cúng dường của mười
phương, phải xem cha mẹ cũng như những Phật tử khác vậy.
Tôi thường nói tu sĩ phải Tự giác Giác tha, cha mẹ
cũng nằm trong đối tượng Giác tha đó, đâu phải ở ngoài ? Như Phật Thích Ca thành
đạo rồi cũng về độ hết cha mẹ vợ con và dòng tộc, nhưng không xem họ là đặc
biệt hơn, cũng như đối với cha mẹ người khác vậy.
Hỏi : Con
theo Sư phụ đã được đôi ba năm, xét về phần tu hành không thấy khả quan lắm,
nhưng vẫn cố gắng học hỏi tu tập giới luật, nếu có thời gian rãnh cũng nghiên
cứu kinh điển, trao đổi thêm giới phẩm của mình.
Thấy gần đây những tu
sĩ phần nhiều chú trọng học thức, không chịu nghiên cứu thêm giới luật, tế
hạnh, để làm mô phạm cho tất cả chúng sinh, làm bậc thầy của trời, người, nên
con thấy đây là vấn đề nan giải và đau lòng nhất. Kính mong Sư phụ ban cho vài
lời cảnh sách.
Đáp : Nói đến Giới luật
rất vi tế. Luật sư Hoằng Nhất ở Trung Quốc thời gần đây nói: Mặc dầu ngài đã
thọ giới Tỳ kheo qua Tam đàn đại giới, nhưng đối với sự vi tế của giới luật Tỳ
kheo cũng chưa đủ, mà chỉ giữ đầy đủ ngũ giới của cư sĩ thôi. Thế mới biết sự
vi tế như thế nào.
Người phạm giới là vì muốn thỏa mãn dục vọng của mình,
nếu có công phu thì tự nhiên không nhớ đến dục vọng và giữ giới được, còn bây giờ
học và ghi nhớ giới luật, nhưng gặp cảnh liền bị cảnh lôi kéo và phạm giới. Cho
nên, những người thông suốt giới luật vẫn phạm giới, do không có tu nên chẳng
có sức lực dẹp tan dục vọng. Ví dụ đối với số tiền ít thì không bị động tâm, hễ
gặp số tiền lớn thì động tâm. Các cái khác cũng vậy, tài, sắc, danh, thực, thùy
(ngủ) … ngủ thì không phải, đó thuộc vấn đề sinh lý, nhưng người tu hành ngủ
vừa vừa thôi, chứ không cho ngủ nhiều.
Nói tóm lại, bất cứ pháp môn nào, phải có sự tu, phải
có công phu mới mong sửa lại dần, nếu không tu mà chỉ nghiên cứu, mặc dầu tất
cả giới luật học thuộc lòng, rốt cuộc đối cảnh cũng bị phạm. Phải đối cảnh
chẳng động tâm mới chắc là giữ được giới.
Hỏi :
Trong Kinh dẫn dụ: Chúng sinh vô lượng vô biên mà ứng thân của Phật tùy theo
căn cơ trình độ của mỗi loài cũng ứng hóa vô lượng vô biên. Thế nhưng trong
thực tế, Phật nói tám mươi bốn ngàn pháp môn chỉ ứng dụng cho loài người, còn
đối với súc sinh lớn như con voi, nhỏ như côn trùng thì Đức Phật hóa độ bằng
cách nào ?
Đáp : Trong lục đạo luân
hồi gồm Trời, Người, A tu la, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục; cõi Trời phước báu
lớn hơn, chỉ thọ vui mà chẳng có khổ, vì không có khổ để kích thích sự ham tu,
nên chỉ hưởng vui, không biết tu. Chỉ có cõi Người có khổ có vui mới biết tu.
Cõi A tu la phước báu bằng cõi Trời, nhưng vì có tánh sân, hay nổi giận, lại cố
ý nghịch với Phật pháp nên cũng không có tu. Súc sinh phải phải trả ác nghiệp,
không thể tu; Ngạ quỷ và Địa ngục cũng vậy, do phải chịu khổ báo, khó tu, cho
nên chỉ có con người mới tu được.
Do đó, trong Phật pháp có câu “Thân người khó được”,
chỉ có thân người mới nghe được Phật pháp tu giải thoát, cũng chỉ có cõi người
mới được thành Phật, ngoài ra năm cõi kia thì chẳng có, còn Súc sinh phải chịu
khổ báo mãn rồi rồi mới có thể đầu thai thành con người và gặp được Phật pháp
mới tu hành thành Phật.
Hỏi :
Người tiểu căn nghe pháp môn Tổ Sư Thiền vì như cây cỏ, cội gốc thì nhỏ, nếu
mưa lớn sẽ bị ngã ngay, chẳng thể nào tăng trưỏng, như chúng con thì thế nào ?
Đáp : Nếu người tiểu căn
nghe pháp môn Tổ Sư Thiền không được thì tu Tiểu thừa, bất quá chậm thôi. Tôi
đã nói hạ căn có thể chuyển thành thượng căn, mạt pháp có thể chuyển thành
chánh pháp, hễ người nào tự cho mình là tiểu căn mà muốn tu pháp Tổ Sư Thiền,
dần dần đủ lòng tin rồi cũng tu được, tức huyển hạ căn thành thượng căn.
Hỏi : Như
Sư phụ mấy ngày nay giảng, tất cả đều là diệu dụng của vô sở hữu. Tu pháp tham
thoại đầu đến đầu sào trăm thước có biết tất cả những sự việc hay không ?
Đáp : Tôi đã nói cái vô
sở hữu đó là bổn lai vốn như vậy, chứ chẳng phải do tu mới thành. Ngài Long Thọ
nói: “Hư không vô sở hữu mới dung nạp tất cả”, hiện tiền trước mắt đây, cũng
như thầy đang hỏi tôi, tôi giải đáp được cũng nhờ cái hư không vô sở hữu này;
thầy thấy được tôi, tôi thấy được thầy cũng là nhờ cái hư không vô sở hữu này;
tất cả vạn vật đều là ở trong cái vô sở hữu này.
Nên bài Đại Trí Độ Luận mà tôi trích dịch ra,
có người hỏi:
- Tại sao nói hư không vô sở hữu dung nạp tất cả vật,
mà chẳng nói hư không quảng đại dung nạp tất cả vật ?
Ngài Long Thọ đáp: vì hiện tiền thấy hư không là vô sở
hữu, nhưng tất cả vũ trụ vạn vật đều ở trong đó, đều phải nhờ cái vô sở hữu mới
được hiển bày.
Hỏi :
Trong Kinh Kim Cang nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, Kinh Pháp Hoa
lại nói: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”, vậy có khác nhau
không ?
Đáp : Kinh Kim Cang
và Kinh Pháp Hoa đều là Đại thừa liễu nghĩa, ý vốn chẳng khác. Kinh
Kim Cang nói “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, vì có sở hữu tức là hư
vọng, hễ có sở hữu một tí cũng là chướng ngại, sở hữu nhiều chừng nào thì
chướng ngại nhiều chừng nấy, nên nói là hư vọng. Chỉ có vô sở hữu mới không bị
hạn chế. Đến chừng hoàn toàn vô sở hữu rồi thì có tên gọi là thật tướng, thật
tướng vô tướng, đó chẳng phải hư vọng, Đại thừa ấn chứng người đã ngộ gọi là
“Ấn thật tướng”.
Hai câu “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường
trụ” của Kinh Pháp Hoa là nghĩa vô sở trụ, cũng là vô sở hữu. Pháp nào
trụ theo ngôi pháp đó, ví như cái dĩa này là trụ theo ngôi pháp dĩa, dĩa này
làm bằng mủ, đem đốt thành tro thì trở thành pháp vị tro, tro đó bị gió thổi
tan thành không thì trụ ngôi pháp vị không. Pháp vị sanh trụ nơi sanh, pháp
diệt trụ nơi diệt, chữ TRỤ ở đây không thể dịch là “còn”, thường trụ không thể
dịch là thường còn, chẳng trụ cũng không có nghĩa là chẳng còn, nếu dịch thành
“còn” là không đúng nghĩa, vì ngôi pháp biến đổi hoài. Vô sở trụ chẳng phải
không còn, chỉ là không trụ thôi, tất cả cũng y như cũ.
Kinh Lăng Nghiêm nói “vốn là Như Lai tạng”, là
tùy theo pháp vị, chẳng thêm vào ý mình cho là đúng hay sai, cho là hợp lý hay
chẳng hợp lý … thì không trụ theo pháp vị.
Nay Phật dạy chúng ta trụ theo pháp vị tức vô sở trụ,
vô sở trụ tức vô sở hữu, thế gian tướng phải trụ như vậy. Nghĩa thế gian tướng
là sanh diệt, nhưng nếu trụ như vậy thì pháp sanh trụ nơi sanh, pháp diệt trụ
nơi diệt, nên thế gian thường trụ; thường trụ như thế là chẳng trụ chỗ nào cả.
Hỏi : Con
tham câu “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì ?” nhưng
tự nhiên lúc đang tham, trong tư tưởng của con phát ra những câu nói: Phật tánh
vốn không sanh diệt, chơn tâm vô sanh bất hoại, vạn vật bất khả trường tồn,
thân ý bất luật như nan, đắc quả chơn vị Bồ đề, không không có có Như Lai thị.
Vậy những câu nói trên do thức nào của con phát sinh ra ?
Đáp : Do vọng tưởng của
cô. Tại cô cứ suy nghĩ hoài, tham thiền là muốn chấm dứt sự suy nghĩ. Nay tôi
nói cho biết: Tất cả vật chất đều tồn tại vĩnh viễn, chưa bao giờ mất, ví như
ly nước tôi đang uống đây, có thể cả tỷ người đã uống qua, nó không có mất, mà
tất cả năng lượng đều tồn tại vĩnh viễn không có mất, Kinh Lăng Nghiêm
nói: Tất cả tánh thấy, tánh nghe của mình chẳng chết cũng chẳng mất, tánh ngửi,
tánh nếm cũng vậy. Dù thân này hư hoại, nhưng những tánh thấy, tánh nghe vẫn
tồn tại, ấy là năng lượng của Tâm.
Hỏi :
Kính bạch Hòa thượng, chúng con cũng rõ chơn tâm của chúng con vốn là thường
trú, thể tánh cũng sẵn là tịch minh, hơn nữa nó là bất sanh bất diệt …
Đáp : Ấy là lời nói, là
hiểu biết theo lời nói. Ví như người mù hỏi người mắt sáng “Mặt trời như thế
nào ?” Người mắt sáng nói “Mặt trời là tròn với nóng”; ấy là lời nói, nhưng nếu
cho tròn với nóng là mặt trời thì sai. Nay dùng lời nói để truy cứu thực tế thì
càng truy cứu càng xa.
Cho nên, Đức Phật khuyên chúng ta tu, khi được tự
chứng phần rồi tự rõ, nếu không tu mà chỉ dùng bộ não để truy cứu, cũng như các
nhà khoa học, nhà triết học muốn nghiên cứu sự bắt đầu của vũ trụ, sự bắt đầu
của sinh mạng, dù nghiên cứu thêm một tỷ năm cũng không được, vì vốn chẳng có
sự bắt đầu.
Đức Phật nói “Vô thỉ vô sanh”, nên người chứng
quả gọi là ngộ pháp vô sanh, chứng vô sanh pháp nhẫn. Pháp đã vô sanh thì làm
gì có nghĩa lý để tranh cãi, để hỏi ? Cái hỏi đó đã có sanh khởi, đã có sự bắt
đầu rồi !
Hỏi : Nếu
nói vốn là vô sở hữu thì chúng con phải dụng công như thế nào ?
Đáp : “Vô sở hữu” cũng
là lời nói, phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.
Hỏi : Con
có những điều nghi vấn, kính xin Sư phụ giảng rõ. Trước đây Sư phụ có nói mượn
hữu hình giảng về vô hình, mượn tất cả nhân duyên “có” mà nói “không”,
mượn nhân duyên “không” mà nói “có”.
Trong tứ thời đi đứng
nằm ngồi lúc nào cũng nhập vào Thiền định thì mắt nhìn vào chỗ hư không, lỗ tai
nghe vào chỗ hư không, mũi cũng ngửi chỗ hư không, thiệt nếm chỗ hư không, thân
và tâm ý cũng ở trong hư không, thế thì con đã nhập được pháp giới tánh của chư
Phật chưa ?
Đáp : Chưa.
Hỏi : Vậy
làm sao để nhập được pháp giới tánh của chư Phật ?
Đáp : Phải hỏi câu thoại
và nhìn vào chỗ không biết. Tại ông biết nhiều quá, mục đích tham thiền là chấm
dứt sự hiểu biết, nay ông chẳng chịu chấm dứt lại phân biệt đủ thứ, cho là tri
kiến cao siêu. Tất cả tri kiến đều phải quét sạch mới là đúng với Tổ Sư Thiền.
Hỏi :
Phẩm “Tùng địa dũng xuất” thứ mười lăm trong Kinh Pháp Hoa nói: Để hộ trì Phật
pháp nơi cõi Ta bà này, vì thế các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên và xin để các
ngài hộ trì, các ngài đó chính là đệ tử của Phật nơi quá khứ. Chính Đức Phật đã
xác nhận rằng các ngài là đệ tử quá khứ, vì ngài đã thành Phật từ nhiều kiếp
trước.
Nhưng theo giáo lý
Đại thừa, có nhiều chỗ nói Đức Phật là Bồ Tát Hộ Minh từ trên cung Trời Đâu
Suất giáng trần, mới thành Phật kiếp này ?
Đáp : Phẩm Như Lai Thọ
Lượng trong Kinh Pháp Hoa dùng danh từ “trần điểm kiếp” để thí dụ, vì
thời đó chưa có Đại số: Vi trần là đơn vị rất nhỏ, Phật đem thí dụ số kiếp
rằng: Đem một đại thiên thế giới mà mài thành mực, rồi cứ đi qua mười đại thiên
thế giới thì chấm một chấm mực, chấm hết tất cả mực. Thử hỏi số mực của một đại
thiên thế giới là bao nhiêu ? Rồi lại cách mười đại thiên thế giới mới chấm một
chấm mực. Sau khi chấm hết tất cả mực, lại đem những đại thiên thế giới có chấm
mực và không chấm mực đều mài thành hạt bụi, vậy số đó đếm làm sao nổi ? Mà Đức
Phật nói “Thọ của ta là hơn số đó !”
Kỳ thật, Phật đã nói trắng ra cho chúng ta biết là vô
thỉ, tức chẳng có sự bắt đầu. Hễ có sự bắt đầu là có con số, dù gọi là trần sa
số kiếp, nhưng đếm lâu ngày, lâu năm, lâu kiếp cũng sẽ đếm hết’ nói “không có
bắt đầu” là vô số, vô số thì chẳng thể đếm, nên vô sanh.
Nay chúng ta nói Phật giáng sinh, nhưng giáo lý của
Phật là vô sanh, nên người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, tức được tự chứng
phần rồi chứng tỏ chẳng có sự sanh khởi. Do đó, nói về số kiếp bắt đầu ấy chỉ
là phương tiện mà thôi.
Trong lịch sử Thiền Tông, có một vị Tăng hỏi Mã Tổ:
- Sao ông nói tức tâm tức Phật?
- Tại muốn gạt con nít khóc.
- Sau khi nín thế nào?
- Chẳng phải tâm chẳng phải Phật.
Cho nên, tất cả lời Phật lời Tổ cũng chỉ là phương tiện thôi.
Hỏi :
Phương pháp chiếu soi và hằng sống với bản giác của mình, đó có phải là bước
đường từ phàm phu đến các đẳng vị Bồ Tát ?
Đáp : Bây giờ nói sống
với bản giác của mình; bản giác của mình đâu có mất ? Ai ai cũng sống với bản
giác, nếu không có bản giác thì chẳng thể sống. Dù không có tu cũng sống với
bản giác, cái bản giác đó vẫn y nguyên. Bản giác tức Phật tánh, do tu mới dứt
các tập khí phiền não, dứt tri kiến rồi bản giác mới hiện ra, nay dù chưa hiện
nhưng không mất. Do đó, nói “sống với bản giác” ấy là thừa.
Hỏi : Con
đọc trong Kinh Dược Sư, nói Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai chỉ đọc một câu
thần chú là chúng sinh hết bệnh khổ, nghĩa đó như thế nào ? Xin Sư phụ giảng
thuyết cho con được rõ.
Đáp : Kinh Dược Sư thuộc
kinh bất liễu nghĩa, theo cách tu nhơn thiên thừa, tức tạm thời chẳng thể tu
đến giải thoát, chỉ xây dựng nền tảng để sau này tiến lên con đường giải thoát.
Hiện nay, pháp Tịnh độ được hoằng dương nơi thế gian
có ba thứ, phổ biến nhất là Di Đà Tịnh độ, cũng gọi là Tây phương Tịnh độ; Tịnh
độ của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai gọi là Dược sư Tịnh độ, cũng gọi là Đông
phương Tịnh độ. Ngoài ra còn có Đâu Suất Tịnh độ của Bồ Tát Di Lặc.
Phương pháp tu theo Tây phương Tịnh độ đối với phước
báo của thế gian đều buông bỏ, tu theo Dược sư Tịnh Độ còn cầu phước báu thế
gian, vẫn còn ở trong luân hồi, nhưng thích hợp với tư tưởng của người đời. Như
hiện nay đa số Phật tử đến chùa là cầu phước báu, ít có cầu tu giải thoát.
Về Đâu Suất Tịnh độ của Bồ Tát Di Lặc: Bồ Tát Di Lặc
hiện đang ở Nội viện cõi Trời Đâu Suất, trong Nội viện là những người tu giải
thoát, còn Ngoại viện là của cõi Trời. Người được sanh vào Nội viện, đợi khi Bồ
Tát Di Lặc giáng sinh nơi cõi Ta bà này nối tiếp Phật pháp của Phật Thích Ca,
những vị này sẽ xuống để trợ giúp Phật Di Lặc hoằng dương Phật pháp.
Người cầu sanh nơi Đâu Suất Tịnh Độ thường là những vị
pháp sư giảng kinh thuyết pháp có trí huệ cao, người tu Dược sư Tịnh Độ phần
nhiều là người chỉ ham đắm phước báu, không có trí huệ, nhưng Đức Phật cũng đặt
ra phương tiện để họ cầu cho đúng, sau này nhờ phước báu đó gặp được thiện tri
thức rồi hướng dẫn tu theo con đường giải thoát.
Hỏi :
Trong kinh Dược Sư có bảo chưng bốn mươi chín ngọn đèn, vậy phải chưng như thế
nào ?
Đáp : Ấy chỉ là hình
thức lễ nghi để cho người ta cầu phước báu; phải làm việc thiện để giúp đỡ cho
người khác, sau này người khác trả ơn nên được phước báu. Nói ngọn đèn chỉ
tượng trưng cho niềm tin, nếu bày đèn để cúng sao thì việc đó là mê tín, chẳng
thuộc pháp môn Dược Sư Tịnh Độ.
Hỏi : Có
một vị Sa di ra đời nhưng sợ thiếu nợ thí chủ, rồi đem tiền đến chùa đã ở trước
kia để cúng dường, như vậy có hết thiếu nợ không ?
Đáp : Cúng dường thì
được phước báu, còn nợ là phải trả riêng, chứ nhân quả chẳng thể bù trừ được.
Tạo nghiệp thiện được thiện quả, gây ác nghiệp phải chịu ác quả, hai cái chẳng
thể bù trừ, nhưng mình tu thì có thể sửa lại được.
Tu đến tâm lực mạnh hơn lúc tạo nghiệp ác đó thì sửa
đổi được. Kỳ thực tâm lực của mọi chúng sinh đều bằng nhau, do bị che khuất nên
nhờ sự tu mới hiện ra. Ví như tâm lực lúc tạo nghiệp ác chỉ có một độ, nay nhờ
sự tu khiến tâm lực đến mười độ, thì quả báo của tâm lực lúc mười độ sẽ đến
trước, điều đó cũng như sự thiếu nợ nơi thế gian, hễ ai có thế lực mạnh sẽ được
trả trước, thế lực kém thì trả sau, nên nhân yếu nơi một độ được kéo về sau.
Nếu như tu đến tâm lực mười độ rồi ngưng không tu tiếp
thì quả báo của mưòi độ trả hết đến chín độ, rồi tám độ … dần dần quả báo của
một độ cũng sẽ đến. Nếu chúng ta không ngừng tu hành và tiến mãi đến hai mươi
độ, ba mươi độ … đến khi kiến tánh thành Phật, thành Phật rồi ác nhân vẫn còn,
nhưng đã thành Phật là Tự giác Giác tha, độ tất cả chúng sinh, kể cả chủ nợ;
bất cứ chủ nợ mạng, chủ nợ thịt đều được ưu tiên độ trước, thì lúc đó nghiệp
nhân mới hết. Điều đó phải tự mình sửa, chứ dùng tiền tài là không thể thay
thế.
Thích Vân Phong biên tập