THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG
Thế
giới hôm nay, bên cạnh những tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật,
đang lâm vào tình trạng khủng hoảng, một sự khủng hoảng
dường như đang tiến triển với một mức độ rất nhanh so với những
gì mà sự tiến bộ đó đem lại cho con người trong những thập niên
qua. Tuy nhiên người ta không ý thức được, hoặc giả cố
tình làm ngơ trong việc đề xuất hay hoạch định các chương trình
mới nhằm đem lại sự bình an lâu dài. Có chăng chỉ là sự
đắp đổi mang tính cách nhất thời đáp ứng điều kiện khẩn thiết của một hậu quả mà tác nhân của
nó đôi khi lại chính là đối tượng đang thực thi sự đắp
đổi tạm thời ấy. Một việc làm chỉ có thiên hướng chính trị và
thời sự mà chẳng phải phát xuất từ động cơ thuần túy của tình người, của
lương tri. Vấn đề không phải là tái thiết từ những gì chính con
người đã cố tình hủy diệt, vì đó là công việc mà con
người phải hành động vì danh dự và tập quán tự tôn. Mà điều
đáng nói là tinh thần tự nguyện tạo dựng cái mới hơn trên những
tiến bộ mới, ngày một hoàn thiện hơn. Đó chính là bước tiến
cơ bản vì sự an lạc hạnh phúc chung của loài người. Nó không giới
hạn về địa lý, vượt lên trên thành kiến về chủng tộc, tôn
giáo... Đó cũng là tinh thần quán thân bình đẳng của Phật giáo. Và đấy mới chính là đường hướng để giải quyết thỏa đáng những vấn đề bất ổn cho con người và của con người đương đại, cũng như tạo dựng một viễn cảnh an lạc dài lâu cho thế hệ tương lai.
Mối quan hệ đậm đà tình yêu thương, tình bằng hữu cao đẹp vốn có của
con người ngày nay một phần nào đó được thay thế bằng mối
quan hệ luật pháp và sinh học bởi những tranh đua mưu lợi
hẹp hòi mà các cộng đồng và quốc gia đang theo đuổi.
Nguyên nhân đằng sau những khủng hoảng ấy là gì? Chính là
kiến thủ đưa đến sự đối nghịch về các hệ thống giá trị, khuynh
hướng chủ nghĩa cá nhân tự tôn, hận thù và đố kỵ, hiểu lầm và
mâu thuẫn. Mặt khác, nhiều hình thức nguyên nhân mới của thời
đại dẫn đến tình trạng khủng bố và thống trị lẫn nhau giữa
các phe nhóm, sắc tộc và tôn giáo, khu vực và quốc gia, là
hàng loạt các sự kiện mất tương xứng đằng sau các cuộc thương
thuyết trên lĩnh vực chính trị và xã hội, như sự mất cân đối về
cơ hội và quyền hạn cạnh tranh kinh tế thị trường, quyền được
thừa nhận và kiểm soát các vùng địa hình... Tất cả những
sự kiện mất tương xứng dẫn đến sự khủng hoảng của thế giới,
biểu lộ lòng tham dục và sân hận, sự tham lam quyền lực và mưu
đồ thống trị. Bản chất con người vốn không có những đặc tính của dối trá ích kỷ, mưu đồ hay khiêu khích, cao ngạo và tự tôn... Vì thiên về xu hướng tự tôn và ích kỷ cho nên sự tranh đua của
con người trong thế giới đương đại không phải là sự tranh
đua để đi lên mà lại là để tiến dần đến chỗ tha hóa và khủng
hoảng. Đó là một thực trạng mà chúng ta cần phải suy gẫm.
Con người đang có xu hướng dựa vào các giá trị bề ngoài như tài
sản vật chất, quyền lực và địa vị, sự nghiệp và danh vọng, và
ngay cả đến những lĩnh vực khoa học hiện đại, an ninh, y
tế, giáo dục, thể thao, văn hóa... để ước định giá trị của họ -
ở phạm vi cá nhân và cộng đồng quốc gia. Quả thật là sai lầm
và tai hại khi con người có tư tưởng cho rằng nếu cá nhân hay
quốc gia nào đó giành được quyền ưu tiên vượt trội một hay
nhiều khía cạnh trên của cuộc sống thì được xem là cá nhân
hay quốc gia có giá trị. Chúng ta đã nhầm lẫn giữa hai khái niệm
giá trị và phát triển. Đó là mới chỉ đề cập đến khía
cạnh bề ngoài của khái niệm chứ chưa nói đến khía cạnh thực chất bên trong của khái niệm ấy, có nghĩa rằng đâu là giá trị và mục đích của sự phát triển hay giá trị thực chất của
sự phát triển là gì? Vì không hiểu nên chúng ta đã đánh
đồng chúng với nhau chung cùng một ý nghĩa. Do vậy, chúng ta đã
phạm phải một sai lầm rất lớn khi đánh giá một con người hay một
cộng đồng xã hội, một quốc gia nào đó. Chính sai lầm này
dẫn đến những rạn nứt và làm đổ bể mối quan hệ, gây nên hình
thức khổ đau mới của thời đại mới.
Chúng
ta không thể lấy hình thức phát triển bề ngoài để làm tác nhân
trong các mối quan hệ, hoặc dùng nó để chi phối, để thuyết phục
hay áp đặt lung lạc giá trị của đối tượng. Chúng ta càng không
nên phán định một cách thiển cận giá trị này tốt hay cao
hơn giá trị khác. Nên ý thức rằng trong cái tốt có thể có cái
xấu và trong cái xấu cũng có thể có một phần của cái tốt đẹp. Đức Phật lưu ý với chúng ta rằng "Có
điều được khéo tin tưởng (khéo tùy hỷ, tùy văn, được khéo cân
nhắc suy tư, được khéo chấp nhận), có thể là trống không, trống
rỗng, hư vọng. Trái lại, có điều không được khéo tin tưởng
(khéo tùy hỷ, tùy văn...), có thể là thật, chân, không
thay đổi" (1). Vì vậy không có lý do gì để
chúng ta chủ quan áp đặt hoàn toàn một giá trị lên một giá trị,
hay ưu đãi một giá trị và bài trừ một giá trị khi chưa
thực sự nắm bắt trọn vẹn ý nghĩa, điều kiện không gian môi
trường tồn tại của nó. Trong mối quan hệ, chúng ta hiểu được
rằng người khác không phải luôn san sẻ cùng một giá trị như
chúng ta là bước quan trọng đầu tiên cho việc tạo ra tình hữu
nghị hoặc giải quyết mâu thuẫn. Thái độ đó sẽ tạo cho mối quan hệ
tiến triển một cách bình thường và tốt đẹp. Chúng ta
nên nhớ rằng trong một thế giới đa sắc tộc - tôn giáo, đa văn
hóa văn minh, tất nhiên các hệ thống giá trị của nó không
thể cùng chung một thang bậc. Điều này nên được tôn trọng triệt
để và áp dụng vào các mối quan hệ trong hiện tình thế giới hôm
nay, khi có sự giao lưu - hội nhập đa phương thuộc mọi lĩnh
vực cuộc sống. Phát biểu như thế không có nghĩa là chúng ta cố
tình quên đi lương tâm trách nhiệm cải hóa cái ác thành
cái thiện, cái xấu thành cái tốt. Nhưng chúng ta hành động trên
tinh thần tôn trọng và hiểu biết, nói đòi hỏi đức tính
kiên nhẫn và hy sinh. Nhìn vào lịch sử hình thành và truyền bá của
Phật giáo để thấy được nền tảng căn bản và tính cách năng
động được sử dụng trong các mối liên hệ và hội nhập. Trong các
kinh điển Phật giáo, chúng ta không hề thấy có một sự kiện
xung đột nào (dù tư tưởng hay hành động) xảy ra, ngay cả những
lúc đối diện với thái độ khiêu khích, bài bác của ngoại đạo (2), khi Đức Phật hay giáo đoàn của Ngài đến truyền giáo tại một địa phương
xa lạ. Nhưng chúng ta lại thấy có rất nhiều cuộc đối thoại
thẳng thắn trong tinh thần ôn hòa, tôn trọng sự thật, trí tuệ
và chuyển hóa thay vì thái độ bài xích, miệt thị và áp lực, như Đức Phật đã dạy:
"Chư Tỷ kheo, nếu ở đây những người khác nhiếc mắng, phỉ báng,
làm cho Như Lai tức giận, này các Tỷ kheo, ở đây Như Lai
không có sân hận, không có bất mãn, tâm không phẫn nộ" (3).
Phật giáo xây dựng và phát triển được tinh thần đó - ấy là vì
Phật giáo biết phát huy tâm từ, bi, hoan hỷ và xả chấp. Vả lại,
có những giá trị luôn mang tính tương đối qua không gian và
thời gian. Chúng có thể tương phản nhau trong cùng một khía cạnh
được đặt định ở những vùng địa lý / văn hóa khác nhau, và
với một điều kiện nào đó bản chất của giá trị có thể thay đổi.
Phật giáo trong thế giới hôm nay không cần phải giới thiệu dông dài về lịch sử và đặc tính tốt đẹp đa phương của
nó, vì Phật giáo đã hiện diện và đi vào cuộc đời
trên hai mươi mấy thế kỷ. Đối với người Á Đông, dù là tín
đồ hay không thì nó vẫn là chất liệu nuôi dưỡng và duy trì đời
sống đạo đức và tâm linh. Đối với những vùng đất khác của
địa cầu, con người đã và đang tiếp cận, đón nhận nó như là một
"ân huệ" lớn lao mà cuộc đời ban tặng. Nhìn chung, Phật
giáo hôm nay không còn xa lạ trong xu hướng tìm tòi một nhu cầu
tâm linh mới trong một thời đại mới; ấy là nguồn tâm linh vô
thần, là nguồn tâm linh thực dụng (nhập thế) nằm ngoài giới hạn của ý niệm giáo điều. Phật giáo có thể được xem là một tôn giáo chỉ đối với những người bắt đầu tiếp cận hình thức của nó. Nhưng đấy chỉ là bước khởi đầu của một tâm thức hiếu kỳ, bị giới hạn bởi ý niệm truyền thống cố hữu xưa nay của nền
văn hóa "Sáng thế" hay "Sáng tạo chủ" vốn dĩ mơ hồ nằm ngoài
thực tại cuộc sống, và sẽ được khai thông bởi những gì sau
đó mà Phật giáo mang đến cho họ. Phật giáo bấy giờ là cách
sống, là mô hình thực tế và gần gũi mà cuộc đời có thể nắm
bắt và tiếp cận. Họ tiếp thu được những nguyên tắc thực hành
mới, những tư tưởng mới làm thay đổi tư duy và hành động
khiến tâm tánh trở nên cao thượng và thánh thiện. Đạo Phật
được chuyển tải vào cuộc đời bằng nhiều phương tiện khác nhau thích ứng với sở trường và mức độ tiếp nhận, với khả năng ứng dụng làm ích lợi cho tự thân, tha nhân và tha loại. Khi được người ta tiếp nhận thành khẩn, hành trì và ứng dụng phương tiện thích hợp
ấy, đạo Phật có công năng giúp con người thức tỉnh bản
tâm, ý thức sâu sắc về mối tương hệ tồn tại giữa bản thân, tha
nhân và cuộc đời. Đấy là ý nghĩa tác dụng đa phương của Phật giáo.
Nội dung của giáo lý Tứ
vô lượng tâm được giới thiệu ở đây có một ý nghĩa rất lớn
đối với thực trạng xã hội hôm nay. Tuy nó là giáo lý truyền thống
của Phật giáo, nhưng không nên có thành kiến máy móc vì nguồn gốc xuất thân của nó. Mà nên có thái độ "thấy" và "biết" giá trị thực chất của nó nếu như được áp dụng vào thực trạng bất ổn của
con người và xã hội. Giáo lý này giới thiệu một mẫu người thánh
thiện, một mô thức ứng dụng tuyệt hảo cho công cuộc kiến thiết
và cải tạo con người theo hướng hoàn thiện, tạo dựng và duy
trì tốt đẹp tình bằng hữu trong các mối liên hệ xã hội, chính
trị trong tinh thần bao dung tương trợ, vượt qua mọi rào cản
chi phối của ý thức hệ và hệ thống giá trị. Mẫu người ấn tượng
mà chúng ta nhận thấy từ giáo lý Tứ vô lượng tâm là hình ảnh một cá
nhân mở rộng vòng tay đón nhận và mong được đón nhận tha
nhân với một từ tâm vô cùng hoan hỷ. Hình ảnh cá nhân ấy cụ thể
chính là Đức Phật - Người đã hành trì và làm tròn hạnh nguyện
độ tha bằng giáo lý này. Nhưng cá nhân ấy cũng có thể là bất cứ
ai trong chúng ta nếu như chúng ta chấp nhận hành trì giáo lý
này vì nó không chỉ để dành riêng cho những người chủ tâm đi
tìm cầu chân lý, mà nó có giá trị thực hành chung cho mọi
người, mọi giới. Và, phương thức tuyệt hảo ấy hàm chứa chủ ý của Đức Phật, rằng khổ đau của tự thân được gắn liền với khổ đau của tha nhân, tha loại. Và vì vậy mà hạnh phúc và giác ngộ của
tự thân không thể tách rời việc cứu độ tha nhân, tha loại. Tinh
thần cao cả ấy yêu cầu chúng ta lấy gì để cứu độ? Chúng
ta cứu độ bằng lòng từ, bằng tâm bi, bằng tâm hoan hỷ và bằng
tâm xả chấp. Đó cũng chính là nội dung của giáo lý Tứ vô lượng tâm hay giáo lý nói về bốn trạng thái tâm cao thượng.
Trên hành trình hóa độ tha nhân và phụng sự cuộc đời, Đức
Phật lấy giáo lý này làm động cơ hành đạo. Ngài không bi
lụy trước cảnh khổ đau của hữu tình vì Tứ vô lượng tâm được tích tập
mỹ mãn. Ở đây, chúng ta có thể tìm thấy được nội dung
giáo lý này qua một số bài kinh được truyền dạy bởi chính Đức
Phật hoặc bởi các đệ tử cùng thời của Ngài (như Xá Lợi Phất, A Na Luật...) trong quá trình hành hóa thường ngày (4).
NGUYÊN NHÂN VÀ HƯỚNG ĐI
Đức Phật nhấn mạnh rằng trong đời sống hàng ngày, con người thường là kẻ nô lệ của những khát khao ham muốn, của những dục vọng không bao giờ thỏa mãn được: "Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái"
(5). Đức Phật cảnh báo cho chúng ta biết rằng khổ đau phát
sinh từ ái dục - tác nhân khiến con người ta tìm cầu sự thỏa
mãn lạc thú, muốn sở hữu và kiểm soát. Và vì thế giới không phải luôn
đáp ứng được tâm ham muốn ấy nên chúng ta thường bị tác
động bởi những gì chưa được thỏa mãn. Từ đó, chúng ta tự
buông lung mình theo những cơn thịnh nộ và sân hận, không còn
tỉnh táo để hành động và ý thức về những gì mà chúng ta
đang thực hiện. Vì bị cuốn hút theo mãnh lực của khát khao
nên càng ngày con người càng lún sâu hơn vào vũng lầy tội lỗi
ảo tưởng. Cơ hội thoát ly thật mong manh nhưng không phải không
có. Cái tự ngã vốn thừa nhận và chấp chứa sự thoái hóa bấy lâu
nay cũng có thể được làm hồi sinh sức sống mới bởi chính
nó nhờ vào tinh thần nỗ lực tinh tấn. Đức Phật nhận ra năng
lực tự chuyển hóa tiềm tàng trong con người nên trong quá trình
tu tập, trong quá trình thực hành phương pháp quán chiếu tự
nội và chuyển hóa tự thân, Ngài đã tự thể nghiệm. Nhờ vậy hạnh
phúc an lạc vững bền được đạt đến. Cho nên chúng ta, con
người đang sống trong một thế giới rất dễ bị cám dỗ bởi nhiều
mãnh lực vật chất và tư tưởng, sắc dục và danh vọng, có niềm
tin vào bản thân, rằng mình vẫn có thể là một cá nhân tốt, vẫn
còn có cơ hội để sống lại với những gì cao đẹp đã đánh
mất mỗi khi mình lâm vào tình trạng tha hóa. Ở một phạm vi rộng
hơn, tất cả những thực trạng bất ổn, khủng hoảng
xã hội cũng có thể được giải quyết đưa đến một trật tự lạc
quan và tin tưởng. Đối với Đức Phật, nguyên lý này được
thể hiện qua sự tu tập tâm và các giác quan nhờ vào Bát Thánh
(Chánh) đạo (Àryà-stànghika-màrga) - giáo lý cốt lõi của
Đức Phật, đó là: chánh kiến (hiểu biết, nhận thức như
thật), chánh tư duy (suy niệm chân chánh), chánh ngữ (lời nói
chân thật, đúng thời), chánh nghiệp (hành động chân chánh),
chánh mạng (phương cách kiếm sống hay kế sinh nhai lương thiện),
chánh tinh tấn (nỗ lực trong các hành động tư duy chân
chánh), chánh niệm (nhớ nghĩ chân chánh), và chánh định (nhất
tâm, chuyên chú vào đối tượng hữu ích đưa đến lợi lạc và mục đích giải
thoát). Nó cốt lõi vì dung chứa cả giới - định - tuệ, tài
sản quý báu dùng để nuôi dưỡng thân và tâm. Sáu chi phần đầu của Bát Thánh đạo, có thể được xem là phương pháp để chuyển hóa tự thân, liên hệ đến giới; hai chi phần còn lại có thể xem là phương pháp để chuyển hóa tự nội, liên hệ đến định và tuệ. Hành giả tu tập theo con đường của Đức Phật được khích
lệ từ giáo lý này sẽ biết phát huy và an trú vào bốn trạng thái
tâm được tán dương là tâm thức cao thượng, gồm có; tâm từ (Maitrì), tâm bi (Karunà), tâm hoan hỷ (Mudità), và tâm xả chấp (Upeksà). Bốn trạng thái tâm này được Đức Phật gọi là Bốn phạm trú,
là con đường đưa đến cộng trú (sinh vào) với thế giới Phạm
Thiên sau khi thân hoại mệnh chung. Nó cũng được gọi là Vô lượng tâm giải thoát (kinh A Na Luật, số 127, Trung Bộ kinh III. Viết tắt; Tr.III).
Trong
cuộc sống, con người thường đối diện với nhiều nỗi khổ đau,
tinh thần và thể xác. Có những nỗi khổ đau rất chung, nhưng cũng
có nỗi khổ đau rất riêng. Khi đối diện với khổ đau, người
ta có thể có khả năng tự mình đi ra được. Tuy nhiên sự tình
không phải luôn là như thế vì ai cũng có những giới hạn và điều
kiện của riêng mình. Những lúc như thế, họ thiết tha cần cầu
một tác lực chân tình ngoại hộ như là một nguồn an ủi, ít ra là
thế, cho cuộc đời trong cơn sóng gió đầy thất vọng. Một
người có ý thức như thế thường để tâm mình giao thoa với toàn bộ
thế giới bằng tư tưởng quán về lòng từ, và nhờ thái độ nhận ra
bản thân mình có mặt trong toàn thể mà hành giả phát huy được
tâm từ và trải rộng ra với thế giới vượt trên mọi khả năng
đo lường. Hình ảnh Đức Phật sống với tâm từ như sau: "Này Sariputta (Xá Lợi Phất),
Ta an trú lòng từ cho đến trong một giọt nước với tâm tư "Mong
rằng Ta không làm hại một chúng sinh nhỏ nào trong những ác
đạo của chúng". Này Sariputta, như vậy là sự yểm ly của Ta" (6). Tâm bi chính là khả năng quán chiếu được khía cạnh khổ đau thể xác, bất an tinh thần của tha nhân dù ở bất cứ cấp độ nào. Phát xuất từ thái độ này của tâm, một tình thương sâu thẳm, một rung cảm chân thật bộc phát hướng về tất cả nỗi khổ đau của
tha nhân mà ngay nơi khoảnh khắc hiện tại này thân tâm mình như
thể đang kinh qua nỗi khổ đau ấy. Đó chính là hoạt động của tâm bi. Nó thể hiện tính cách năng động của lòng cảm thông sâu sắc đối với nỗi khổ đau của
tha nhân không mang tính vị kỷ hay một điều kiện mảy may nào.
Tiền đề để đưa tâm vào một cấp độ cao thượng khác lúc này chỉ
có một thái độ duy nhất đó là ý thức được ta chính là người và người chính là ta.
Bằng chánh kiến, tâm bi làm tan biến đi những rào cản phân
cách, một trong những tác nhân duy trì nỗi khổ đau. Trên
cơ sở đó, tâm hoan hỷ phát sinh - một thái độ tích cực biết chia sẻ và hy sinh; chia sẻ với niềm vui hạnh phúc của tha nhân, hy sinh vì nỗi khổ của
tha nhân, hoặc bằng tinh thần năng động tự giác hoặc bằng tinh
thần đáp ứng điều kiện mong mỏi. Tâm hoan hỷ thể hiện được ý
niệm về sự từ bỏ tính đố kỵ, ganh tỵ và ác tâm, thể hiện được
nguyên tắc tương quan trách nhiệm của con người. Sau cùng, khi
đã chia sẻ và hy sinh những tình cảm với tha nhân, hành giả an
trú tâm vào trạng thái hành xả. Có nghĩa rằng hành giả trở về
với bản tâm thanh tịnh, như như của chính nó. Không để tâm vướng
bận bên này hay lụy phiền bên kia, không cao thượng lên trên
hay nản lòng thủ phận. Tức rằng đối với những gì được đem
lại từ hoạt động của tâm từ - bi - hỷ thì hành giả không sinh
tâm chấp cứ cũng không sinh tâm nhàm chán. Vì chấp cứ hay nhàm
chán sẽ là nguyên nhân gây cản trở cho hành giả tiếp tục con
đường tu tập tâm từ - bi và hỷ. Và đây là hạnh trú xả của Đức Phật khi Ngài còn thực hành pháp tu khổ hạnh: "Này
Sariputta, Ta nằm ngủ trong bãi tha ma, dựa trên một bộ xương.
Này Sariputta, những đứa mục đồng đến gần Ta, đái trên Ta, rắc
bụi trên Ta và lấy que đâm vào lỗ tai. Này Sariputta, và Ta
biết, Ta không khởi ác tâm đối với chúng. Này Sariputta,
như vậy là hạnh trú xả của Ta" (7). Hành giả
chỉ giữ chánh niệm rằng những hành xử trong đời bằng tâm từ
- bi - hỷ, ở mức độ nào đó có thể được xem là những phương tiện để rèn luyện tâm vì mục đích cuối
cùng là giác ngộ. Đó là thể hiện được yếu tố trí tuệ khi
thực hành tâm từ - bi - hỷ. Tư duy được như vậy thì
hành giả sẽ có được niềm hỷ lạc để an trú tâm vào trạng thái
hành xả. Hành giả để tâm mình an trú trong tĩnh lặng, thư thái
để quán sát các sự kiện, hành động đi vào hiện hữu theo
chuỗi nhân quả của chính nó, hình thành nên mô hình biến ảo đa dạng, đa phương của cuộc đời. Như vậy, vấn đề được đặt ra cho mục đích thực hành tâm từ, bi, hỷ là vấn đề chuyển hóa dẫn đến xả ly chứ không phải đưa đến ràng buộc, chấp thủ.
Thành quả từ kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng, dốc tâm hành trì giáo lý Tứ vô lượng tâm truy nguyên được khả năng tăng trưởng của
Bồ đề tâm, có nghĩa là khai mở khả năng thánh thiện, bản chất
cao thượng tiềm ẩn trong con người bình thường. Điều này chứng
tỏ rằng dù con người có bị chìm sâu vào bóng đêm tội
lỗi, có bị tha hóa trong dục vọng thế gian, thì vẫn có thể chuyển hóa
được, hoặc tự bản thân hoặc nhờ ngoại hộ. Đức Phật là
hình ảnh biểu trưng cho người tự chuyển hóa và hiền giả Vô Não (Angulimàla) là hình ảnh của
kẻ được chuyển hóa. Chúng ta biết rằng trong mỗi con người dung
chứa hai thuộc tính bản chất; thuộc tính bản chất cấp thấp và
thuộc tính bản chất cấp cao. Thuộc tính bản chất thấp kém dung
chứa những cá tính mà chúng ta thường hành động theo thói quen
trực giác hay phản xạ. Nó được gọi là bản chất di truyền cố
hữu. Bản chất ấy biểu lộ khả năng giới hạn của chúng ta khi đánh giá về một sự kiện hay muốn am tường một kinh nghiệm nào đó. Hay nói khác, thuộc tính của bản chất này, theo cách nói của
ngôn ngữ hiện đại, chính là bản năng mà con người tiếp nhận
được trong quá tình tiến hóa tự nhiên hoặc huân tập nên qua
quá trình tồn tại. Nó có thể được gọi là bản chất hệ thuộc hay
huân tập. Bản chất này, như đề cập ở trên, một phần được
hình thành bởi các điều kiện ràng buộc trong quá trình
tồn tại, và theo nội dung Phật học, một phần do bởi sự chi phối của nghiệp lực. Thuộc tính của
bản chất cấp cao được gọi là bản chất căn bản. Đây là bản
chất thuần túy cao thượng và thánh thiện - bản chất nguyên thủy của
con người. Nó nằm ngoài phạm vi chi phối, ràng buộc bởi các
điều kiện, vượt lên trên bản năng di truyền hay những cá
tính huân tập. Bản chất khởi thủy của con người, Phật giáo gọi
là "bản lai diện mục", vốn tự nó thanh tịnh và trong sáng. Lục
Tổ Huệ Năng khi ngộ đạo đã thốt lên rằng "không ngờ bản
tính xưa nay vốn tự thanh tịnh...". Vì vậy, tất cả nguyên tắc
đạo đức, nguyên lý sống, thuộc tôn giáo hay xã hội, được đặt
định ra cho con người đều không ngoài mục đích giúp con người khơi dậy và sống theo bản chất căn bản này; mọi nỗ lực tích
cực được thực hiện bởi cá nhân, hội đoàn, để tái tạo con người
trở nên hoàn thiện, xã hội công bằng, văn minh và công
lý chính là nỗ lực trên hành trình xây dựng bản chất cao thượng trở
thành thói quen trong cuộc sống.
Tái
tạo được thuộc tính bản chất căn bản giúp ta tạo lập được đức
tính tự tại, tự tin mà không bi quan, tự ti mặc cảm để rồi tự
buông lung tha hóa thành chủ nghĩa cực đoan. Ấy là năng
lực chuyển hóa nên được nhận thức và áp dụng khách quan bởi mọi
giới, mọi địa vức và mọi ý thức hệ tư tưởng. Thuộc tính của bản chất căn bản là từ, bi, hỷ, xả - những tác nhân tích cực giúp ta biết cân nhắc trong thái độ và hành động, là chất liệu chuyển hóa đi từ tàn dư quan niệm ích kỷ
hẹp hòi đến ý niệm sống bao dung rộng lượng được y cứ
trên nền tảng lòng vị tha và mối tương hệ tồn tại. Tác dụng ảnh
hưởng của tâm từ, bi, hỷ, xả có thể được trải rộng đến với chúng sinh vô cùng vô tận của
không gian và thời gian. Đây là lý do vì sao trong truyền thống
Phật giáo, bốn trạng thái tâm này được tán dương là cao
thượng không thể đo lường được (vô lượng).
XÂY DỰNG MỐI LIÊN HÊ TRÊN TINH THẦN GIÁO LÝ TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Thực tế chúng ta không thể phủ nhận được sự phát triển vượt bậc về mọi mặt của xã hội, đáp ứng được nhu cầu về đời sống vật chất và phương tiện giải trí của
con người hôm nay. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải thừa nhận
rằng con người đang thiếu đi những thành phần hết sức quan
trọng trong đời sống, đó là tinh thần nhân bản trong xã
hội và tinh thần tâm linh chân chính trong tôn giáo. Con người
thiếu những yếu tố này không phải do nguồn cung cấp không đáp
ứng được, vì thế giới ngày nay là một thế giới mở chứ không
phải là thế giới khép kín, mà do con người không chịu tiếp thu
hay sử dụng nó. Bởi vì tác nhân gây nên thực trạng khổ đau rất
thời đại cho con người hầu hết đều phát xuất từ các quốc gia,
cộng đồng có một bề dày lịch sử văn minh. Chúng ta không thể
nói rằng những thành viên của các nhóm khủng bố quốc tế Al
Qai'da ở Afghanistan và Saudi Arabia, các nhóm khủng bố Hồi
giáo ở Philippines, ở Indonesia, cho đến những cuộc bạo động vũ
lực giữa các nhóm tôn giáo (Hồi giáo và Ấn giáo) ở Ấn Độ (bang Gujarat) gần đây là những công dân của
một quốc gia không có nền tảng tâm linh tôn giáo. Chúng ta cũng
phải thừa nhận rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến các
cuộc đánh bom liều chết và bạo động ở Palestine và Israel
(Hồi giáo và Do Thái giáo), hay các cuộc xung đột thường xảy
ra giữa các phe nhóm tại Cộng hòa Bắc Ireland (Tin Lành và
Thiên Chúa giáo) là bắt nguồn từ mâu thuẫn tôn giáo. Ở một cấp
độ nào đó, chúng ta có thể tin tưởng rằng bản chất chung của
tôn giáo là làm gia tăng giá trị cao thượng con người và phát
huy sự hòa hợp, tình huynh đệ. Tuy nhiên, không phải không có
những ngoại lệ đáng lên án của những thành phần tôn giáo
hoặc tổ chức nhân danh tôn giáo để hình thành các hoạt
động phi nhân nghĩa. Đấy là chưa kể đến những nguyên nhân do
đối nghịch quan điểm, con người không có quyền bày tỏ các
giá trị, tư tưởng cá nhân, cộng đồng quốc gia của họ, hay do vì tranh giành quyền lực chính trị, phe cánh mà đã tạo ra cái chết, dưới nhiều hình thức khác nhau, của
hàng trăm ngàn sinh mạng con người. Nói chung, tất cả những sự
kiện lịch sử đau buồn đó đều phát xuất từ thái độ bảo thủ
mà Phật giáo gọi là kiến thủ, không nhận ra được và không tôn
trọng sự khác biệt về các giá trị của một tự thể tồn tại trong một thế giới đa dạng. Căn bản là thiếu các phẩm chất tích cực của
lòng từ, bi, hoan hỷ (bao dung) và xả - nguồn trợ giúp hữu hiệu
nhất để khỏa lấp đi mọi cách biệt. Chúng ta nên hiểu rằng thế
giới là một phản ánh của tư duy và hành động của con người. Và, vì tư duy và hành động không được hướng dẫn bởi các yếu tố tích cực của tâm nên kết quả luôn cho thấy một sự giới hạn của
nó. Vấn đề không phải là thái độ áp đặt hay thống trị, mà
phải nhận ra khả năng có thể chuyển hóa nơi con người
mới là sách lược hữu ích hầu đạt được kết quả tốt. Hành động hy sinh vì một mục đích lý
tưởng là điều đáng được tôn trọng. Tuy nhiên đáng tiếc
thay, hành động hy sinh đó lại không chứa đựng các đặc
tính của tâm từ, bi, hỷ và xả; và một lý tưởng chỉ có thiên hướng lợi mình
và hại người, cho nên tinh thần hy sinh và lý tưởng đó trở
thành cực đoan, bạo động, phi nhân bản. Đối với Đức Phật,
việc tôn thờ và bảo vệ một lý tưởng hay chân lý đúng nghĩa phải
là thái độ ly kiến thủ, ly biên kiến. Khi liên hệ đến
vấn đề này, chúng ta thấy được chủ trương của Ngài rất rõ ràng: "Này Bharadvaja, nếu có người có lòng tin và nói: "đây là lòng tin của
tôi", người ấy hộ trì chân lý, nhưng người ấy không đi đến kết
luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm".
Cho đến như vậy, này Bharadvaja, là sự hộ trì chân lý". (8)
Phật giáo dạy con người thực hành thái độ sống không ích kỷ. Khi chúng ta thực hiện một hành động không ích kỷ tức là ta đánh mất cái "tự ngã" huân tập của mình. Một tình thương yêu chân thật không thể đưa đến toan tính được - mất, đặc tính của
tâm thức nô lệ. Khi tâm từ bi hiện diện thì hành động trở nên
trong sáng và hỷ lạc. Trái lại khi tâm từ bi vắng mặt thì hành
động trở nên vô vị, đôi khi nó trở nên manh động cho
một toan tính nguy hại. Một tấm lòng hỷ xả không thể có vị kỷ
và lo âu, đối phó và sợ hãi, cao ngạo và tự tôn - chất liệu của nỗi bất an, tính tự ti và bạc nhược. Trong các mối quan hệ với mọi người, giáo lý Tứ vô lượng tâm thể hiện được mối quan tâm đến nỗi bất an của người khác; một tinh thần biết chia sẻ và hy sinh với nỗi khổ đau của họ. Tuy nhiên, trên quan điểm thực hành thì việc hành trì giáo lý Tứ
vô lượng tâm không thể bị giới hạn chỉ bằng sự cảm thông, lòng
thương xót thiên về tình cảm hay lòng khoan dung hạ mình bạc nhược.
Điều ấy chỉ có thể có ý nghĩa năng động khi bày tỏ một
thái độ cảm thông cấp thời đối với những người đang trong tình
cảnh khổ đau cùng cực hay mất hết niềm hy vọng. Nó chỉ biểu
hiện được khía cạnh làm sống dậy một mức độ nào đó của lòng vị tha.
Điều
quan trọng để có được một mối liên hệ tốt đẹp là tinh thần biết
tôn trọng sự khác biệt, tinh thần sẵn sàng tham gia đối
thoại và thừa nhận sự sai trái của nhau để đánh giá sự cách biệt bằng hiểu biết mà không để nó làm thoái hóa đi bản chất của mối liên hệ. Đức Phật, trong quá trình chuyển hóa tha nhân, khi gặp phải những quan điểm bất đồng, Ngài thường thể hiện tinh thần tôn trọng và đối thoại "Ta chủ trương phân tích; Ta không chủ trương nói một chiều" (Kinh Subha,
số 99, Tr.II). Đó là lập trường để tạo ra sự hiểu biết tốt
đẹp cho một mối quan hệ. Chúng ta nên vô tư trước các vấn
đề sắc tộc và tôn giáo, ý thức hệ và nền văn hóa vì đó
thực sự không phải là mục đích khi chúng ta muốn có một mối liên hệ tốt đẹp và khách quan. Thay vào đó, những yếu tố tích
cực nên được khai thác để tạo dựng và duy trì mối liên hệ
tốt đẹp đó. Chúng ta nên vượt qua khái niệm "chúng ta" đối
nghịch với "họ", mà phải ý thức rằng "họ" là "chúng ta" và ngược
lại. Trong cuộc sống, chúng ta cần có thái độ nhận thức
về mối tương hệ (inter-relationship) mật thiết của hiện hữu
(đồng loại, tha loại và môi trường sinh thái). Thừa nhận mối
tương hệ ấy là chúng ta có nguyên tắc và lý lẽ chỉ đạo cho
cuộc sống; chúng ta không thể lấn át hay đàn áp kẻ khác về khía
cạnh bản chất xã hội và văn hóa (chủng tộc và tôn giáo,
giới tính, ngôn ngữ và phong tục tập quán). Vì rằng nó sẽ gây phương hại đến bản thân và triển vọng tương lai của
chúng ta và lớp thế hệ kế thừa; và vì rằng hành động gây nguy
hại và triệt hạ kẻ khác lại chính là nỗ lực để hủy diệt lấy
chính mình.
Nền tảng của việc thực hành tâm hoan hỷ được tìm thấy qua lời dạy của Đức Phật bằng những bài kệ trong kinh Pháp Cú. Đức Phật tán thán hạnh hoan hỷ như vậy: "Sung sướng thay chúng ta sống không thù oán giữa những người thù oán; giữa những người thù oán ta sống không thù oán"
(Kệ 197). Đối với Đức Phật, sự bằng lòng hay vui thú không
phải cốt ở chỗ lấy tâm sân hận để giải quyết thù oán, mà cốt ở
thái độ biết tránh né, biết chế ngự hay hóa giải thù oán
để tâm không bị làm ô nhiễm bởi hành động và ý nghĩa tiêu cực.
Lấy tâm sân hận, căm phẫn để xúc tiến một hành động trả
đũa, theo Phật giáo, không phải là giải pháp tích cực để giải quyết vấn đề khủng hoảng. Ngược lại nó càng duy trì nỗi bất an,
lo sợ và gieo rắc thêm nhiều thảm họa cho con người. Đây là
một kinh nghiệm rất thực đang diễn ra trong hiện tình thế
giới. Dưới cái nhìn tâm lý tinh tường của Đức Phật, tâm hỷ lạc không phải phát sinh từ ý hướng đeo đuổi mục đích bị ràng buộc bởi kết quả của mục đích,
mà bằng thái độ thoát ly mình ra khỏi sự ràng buộc ấy.
Như vậy, con người hỷ lạc đúng nghĩa không phải là kẻ tìm cầu,
mà phải là người "thấy" và "biết". Và thái độ thấy - biết của người Phật tử là để hình thành nên một mối tương hệ đa phương với thế giới hiện hữu trong khi phụng sự.
Trong
tiến trình chuyển hóa bằng chất liệu từ - bi - hỷ - xả, hành giả
không nên vội vàng mà phải trải qua từng cấp độ một cách
vững chãi. Thực hành đạo đức là một nỗ lực có chủ đích trong việc tu tập tự thân, nó cần có sự an định, tỉnh táo để quán xét những nỗ lực và thành quả của
mình. Sự chuyển hóa luôn đối nghịch và bị cản trở bởi tâm tính
di truyền hay bản năng cố hữu. Nhưng chúng ta phải nỗ lực
phát huy khả năng tích cực của Tứ vô lượng tâm. Chính nhờ những nỗ lực tích cực và kiên định này mà những khả năng tiềm tàng của con người được phát hiện. Điều này lý giải tại sao hành giả tu tập giáo lý Tứ
vô lượng tâm luôn đưa đến một đời sống lành mạnh, tự tin
khi đối diện với những vấn đề khó khăn và tình thế nan giải.
Phật
giáo Đại thừa thể hiện phong cách quan tâm đến người khác qua
hình thức Bồ tát hành trì hạnh nguyện độ tha trên lộ trình
đi đến quả vị Phật. Bồ tát hành xử với lòng từ bi bình đẳng và
trí tuệ. Vì tâm từ bi và hạnh nguyện cứu độ chúng sinh
đến chỗ hoàn thiện của Bồ tát quá vĩ đại nên Ngài thường trì hoãn mục đích giác ngộ sau cùng của mình. Và cũng vì tâm mê mờ của chúng sinh quá nặng nên Bồ tát vẫn còn hiện hữu trên thế gian này. Bồ tát thực hành hạnh nguyện độ tha bằng phương
pháp hành trì Lục độ Ba la mật; thực hành mỹ mãn hạnh bố
thí (vật chất và tinh thần), giữ gìn giới luật, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định và trí tuệ. Lộ trình hành đạo độ tha của Bồ tát dường như là khó khăn đối với con người bình thường của chúng ta, nhưng đấy là phương thuốc hữu hiệu để đối trị thái độ yếm thế, thụ động, thờ ơ và nhụt chí của cái bản chất cố hữu thấp kém. Tuy nhiên khi chúng ta lập nguyện hành trì một phần nào đó của Bồ tát hạnh thì khả năng hữu ích tiềm tàng trong chúng ta có thể được khai mở, làm nền tảng cho một sự phát triển xa hơn theo lộ trình của Bồ tát.
Hành trì, thể nghiệm và sống với tinh thần giáo lý Tứ
vô lượng tâm giúp con người thoát ly khỏi tâm trạng lo sợ và
đối phó. Chúng ta không bị dao động trước những biến đổi của cuộc đời, của
kinh nghiệm tự thân vì chúng ta được trang bị bởi tâm từ, bi, hỷ
và xả. Như vậy, giáo lý này giúp cho người Phật tử giữ
được tâm bình thản, nuôi dưỡng được niềm hỷ lạc, khả năng sáng
tạo và nhạy bén khi phải đối diện với những khổ đau bởi
những biến động hãi hùng của cuộc thế.
Chúng ta cần phát huy tính năng động hai mặt của giáo lý Tứ vô lượng tâm. Một mặt là công việc hành trì cá nhân nhằm trau dồi các đức tính tích cực của tâm. Mặt khác là trách nhiệm chuyển dịch thành quả thực hành của cá nhân thành đối tượng thực hành chung cho cộng đồng. Lộ trình đi từ sự tinh tế của ý thức cá nhân đến việc chia sẻ nó trong phạm vi của
mối tương hệ, là một hành động nên được áp dụng vào các
hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội, mà không nên đóng
khung nó trong phạm vi sinh hoạt tôn giáo. Vì bản chất tăng
trưởng của Bồ đề tâm chính là sự biểu hiện khuynh hướng phóng khoáng, giải phóng cá tính vị kỷ hẹp hòi của
cá nhân, giúp cá nhân hội nhập vào môi trường đại chúng. Chứng
tỏ rằng, Bồ đề tâm là sức mạnh phá bỏ mọi cấu trúc tư duy giới
hạn trong các mối quan hệ về chính trị, các thể thức tổ chức xã
hội và các ấn định giá trị văn hóa khác.
Đứng
trước những khủng hoảng có tính thời đại, những mâu thuẫn và đối
nghịch về tư tưởng, xung đột, khủng bố và chiến tranh vũ lực,
hơn bao giờ hết, vấn đề suy nghiệm và áp dụng việc thực hành
giáo lý Tứ vô lượng tâm quả là điều cần thiết,
cấp bách và căn bản. Suy nghĩ cởi mở và tiến bộ này không chỉ
giúp con người giải quyết kịp thời thực trạng hiện tại, mà còn
xây dựng một viễn cảnh tương lai lâu dài vì sự bình an của nhân loại. Thành quả của
việc hành trì Tứ vô lượng tâm sẽ trở thành nếp hành xử tốt đẹp,
khẳng định tình đoàn kết và tương trợ. Xa hơn, giáo lý Tứ vô lượng tâm thể hiện được khía cạnh năng động của tinh thần bất bạo động đầy tính nhân bản của Phật giáo. Nó tiêu biểu cho giá trị đạo đức áp dụng vào đời sống để khai mở khả năng tích cực của tự thân lòng thương yêu đối với tha nhân hữu tình. Phương châm này cũng có thể giúp chúng ta hiểu theo một hàm ý rộng hơn của việc hành trì giáo lý Tứ vô lượng tâm. Ý thức được tầm quan trọng về sự liên đới trong tồn tại và phát triển, hành trì giáo lý Tứ vô lượng tâm là nền tảng căn bản giúp con người khả năng đối kháng hữu hiệu những vấn đề bất ổn trong các thỏa hiệp và nỗ lực ngoại giao chính trị. Giáo lý Tứ vô lượng tâm là một phương thức định hướng tốt đẹp cho mọi hoạt động của
con người, vì nó thể hiện được tầm quan trọng đặc biệt trong
việc rèn luyện ý thức con người thấu hiểu được ý nghĩa
sâu xa về một sự tồn tại phụ thuộc tất yếu. Nhưng thực hành nó
không giống như vai trò của một chính khách thông thường đang thực thi một phương
sách chính trị - xã hội, mà là một thử thách tâm linh - vô ngã
và vị tha. Thử thách ấy nhằm rèn luyện các trạng thái tích cực của tâm để phát huy bản chất cao thượng đang khi đối diện với tình thế đầy khả năng oán giận và thịnh nộ.
Hành trì giáo lý Tứ
vô lượng tâm giúp chúng ta đánh giá các vấn đề và sự kiện một
cách sáng suốt và khách quan. Chúng ta không còn bị vướng mắc
vào thành kiến tiêu cực để chỉ trích hay qui kết thành
thù hận. Bởi vì chúng ta ý thức được rằng trong các cộng đồng
xã hội, con người luôn có những khác biệt về quan điểm và quyền lợi.
Vì vậy, chúng ta không thể dùng thành kiến bảo thủ cá nhân như
là một giá trị chuẩn để hành xử trong các mối quan hệ. Bài
học mà chúng ta rút ra được từ giáo lý Tứ vô lượng tâm là con người phải vượt qua những cá tính hẹp hòi của bản chất thấp kém để nhận ra được bản chất chung lớn lao hơn của cuộc đời, đó là tìm cầu hạnh phúc và né tránh khổ đau. Chúng ta nên suy ngẫm lời dạy rất căn bản và hợp thời của Đức Tenzin Gyatso, rằng
"Trên tất cả, chúng ta cần phải chấm dứt lối suy nghĩ về bản
thân chúng ta là người Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, Nga, hay Mỹ,
hoặc bản thân chúng ta là người thuộc về Do Thái giáo, Phật
giáo, Ấn giáo hoặc Hồi giáo. Mà, chúng ta cần phải nhận ra rằng
diện mạo đầu tiên của chúng ta là con người và sự trung thành trước tiên của chúng ta là chủ nghĩa nhân đạo (humanitarianism)". (Sunday Times of India, 24-11-02).
Chú thích:
(1) Kinh Cankì số 95, Trung Bộ II (Viết tắt Tr.II).
(2) Xem kinh Maghandya số 75 và kinh Subha số 99, Tr.II.
(3) Kinh Ví Dụ Con Rắn số 22, Trung Bô kinh I (Viết tắt Tr.I).
(4) Kinh Bát Thành số 52, Đại kinh Giáo Giới La Hầu La số 61, Makhadeva số 83, Dhànanjàni số 97, tr.II; kinh A Na Luật số 127, Tr.III.
(5) Kinh Rathapàla số 82, Tr.I.
(6) Kinh Đại kinh Sư Tử Hống số 12, Tr.II.
(7) Sđd.
(8) Kinh Cankì số 95, Tr.II.
Trích: Nguyệt san Giác Ngộ, số 88-89, 2003