Nhiều nữa nền văn minh đã là sự
nuối tiếc khôn nguôi của nhân loại. Suy cho cùng, văn minh do con người trong
tiến trình can dự vào thiên nhiên [được sắp đặt sẵn] mà tạo nên. Một thế giới
muốn yên bình và trường tồn chỉ có thể nương tựa vào thiên nhiên. Từ sông núi
biển hồ đến những tòa thành hay đền tháp nhất định phải được tôn trọng, phải
được giữ ở mức độ nguyên trạng nhất. Nhưng sự phát triển của khoa học kỹ thuật
hiện đang hành xử ngược lại, thực sự đã rút ngắn tuổi thọ của hành tinh xanh
này.
Ảnh minh họa
Người tu là người biết dựa vào tất
cả những gì tạo hóa ban, biết tập đi trên con đường hàng ngàn năm trước Phật đã
vạch (mà nay ít nhiều bị xâm thực bởi sản phẩm công nghiệp kể cả rác do người
máy thải ra). Chính vậy họ xem như ngược chiều với dòng đời cuồn cuộn như một
cơn lốc mang bộ mặt giận dữ của nước.
Người tu không nuối tiếc những
thành phố cực thịnh bão cát vùi lấp, không tiếc nuối những con thuyền đầy lụa
là châu báu chìm nghỉm dưới đại dương nay vẫn chưa dấu vết. Người tu không muốn
gặp tứ đại mỹ nhân đã hóa thành cát bụi, thành một dạng vật chất vi quan vô xứ.
Người tu cảm phục những ai từng vạch đường cho nhân loại trở về với bản chất
trống rỗng của mình để không còn bám vào vòng quay luân hồi trước lúc bị hất
xuống tầng sâu địa ngục.
Địa ngục, được hình thành lúc
người nô lệ bị đối xử hơn loài súc vật bệnh hoạn cần ruồng rẫy; địa ngục tồn
tại trong xã hội thời Trung cổ; địa ngục vẫn còn tồn tại đâu đó trên mặt đất
lúc chúng ta đang ca hát nhảy múa, đang sung sướng đến điên rồ mà cạnh bên vẫn
có người tột cùng đau đớn! Niềm hạnh phúc và nỗi thống khổ là hai mặt khác biệt
đối với người thường. Với những ai ngộ đạo, nó là một. Một đại đức, sự cho là
niềm ân phước dành cho bản thân; gã keo kiệt phải chia phần của cải thì dằn vặt
khổ sở.
Nguyên nhân ở tâm chưa sáng, chưa
tịnh. Tâm điều khiển chứ không phải trí não. Một bộ óc uyên bác cũng có thể
sinh ra hành động thấp hèn, nhưng tuyệt không niệm độc nào sai khiến được tâm
đã triệt ngộ. Càng sử dụng bộ não ta càng lệch tần số thế giới tâm linh.
Sự vô minh là lớp màn che mờ tầm
mắt nhận diện chân tướng sự thật vũ trụ. Khoa học thời nay thừa nhận trái đất
chỉ là một hạt cát của vũ trụ, vậy mà thật nhiều bộ óc vĩ đại vẫn lấy con người
làm trung tâm. Sự ngạo mạn khiến nhà này nhà nọ dùng kính thiên văn khuếch đại
nhìn bốn phương rồi kết luận: Không hề thấy Thượng đế đâu cả! Ở Tây Tạng, những
nhà tu hành chân chính không hề dám vung tay quá trán, vì họ biết trên đầu mình
là ai. Đoàn các nhà khoa học hàng đầu của Hoàng gia Anh từng thị sát miền đất
Thánh trong chuyến Hành trình về phương Đông. Những gì họ tai nghe mắt
thấy làm chấn động châu Âu một thời. Nhưng dường như ai từng thấm nhuần pháp
nhũ vẫn thật mau quên những gì khoa học chưa và không chứng minh được. Một số
cao đăng đại đức mỏi miệng giảng giải tận cùng lý lẽ: Chúng ta bật kênh Hà Nội
thì kênh Huế “biến mất”, và còn hàng trăm kênh khác nữa; như vậy không có nghĩa
kênh Huế không tồn lại. Cũng vậy, chúng ta hiện chỉ bật “kênh cõi dương”; những
kênh khác thì chập chờn nhiễu sóng, có chăng chúng ta sẽ tiếp nhập những cảnh
giới ấy ở kiếp sau!
Một ngày nào đó, có thể, khoa học
sẽ chế tạo ra một loại kính đeo vào liền nhìn thấy linh hồn, thấy được thế giới
bên kia đang tồn tại trong không gian này cùng chúng ta; dĩ nhiên những cảnh
giới thâm sâu vi diệu khác luôn nằm ngoài khả năng của loài người. Nhiều vị đắc
đạo có thần thông song họ chẳng màng tới; cũng giống như một người thường luôn
có súng bên mình mà chẳng bao giờ dùng đến. Điều đó trả lời câu hỏi vì sao Mục
Kiền Liên - đệ tử thần thông số một của Phật Thích Ca lại chịu bị đánh đến
chết; Đạt Ma sơ tổ mấy lần bị đầu độc; Chúa Giêsu dang tay nhận đóng đinh trên
cây thập tự; Đức Phật thì “hòa mình” vào quy luật sinh tử dạy bài học cuối
cùng: ngay cả xác thân cũng chẳng nghĩa lý để mang theo.
Người trần hết thảy đều là những
con nợ. Nếu ai sống dài sống dai quá lắm chỉ vài trăm năm, bằng cái nháy mắt
nơi thượng giới. Ngắn vậy mà nhiều người khất món nợ mình chưa trả, trong lúc
lại muốn chắp cánh bay vào cõi thuần tịnh hơn. Những lỗi lầm từ quá khứ riêng
kiếp này đã quá lớn, nói gì đến kiếp trước, hàng ức kiếp người trần mắt thịt
không thể minh giải. Tôi từng tâm niệm kiếp này đội lốt người đã quá may mắn.
“Thượng đế” cấp cho thân người để tịnh hóa, trở về với uyên nguyên tự tánh.
Trần ai là cõi tạm. Ngộ ra điều này chắc đã muốn tu. Tu, thử hỏi mấy ai… xuống
núi.
Sống là nháp, tu là viết lại đời
mình. Tu là chỗ dựa duy nhất của đời người. Ngôi nhà có cao sang đến mấy cũng
chỉ là chỗ che mưa nắng; chỉ quan trọng ở chỗ: có một nơi thanh tịnh để học
Phật và đọc sách thánh hiền giá rẻ nằm lăn lóc ở những quầy sách cũ.
Tu là một quá trình rũ bỏ. Rượu
bia nhậu nhẹt dễ trở thành thứ ma túy mà những ai buộc phải chọn lựa giữa sự
sống và cái chết mới chịu từ bỏ. Rồi đến sơn hào hải vị, của ngon vật lạ trần
thế; mà người tu đơn thuần ăn rau cỏ để góp phần cứu vớt bao mạng vật. Loài
người chỉ cao phước hơn loài vật chút xíu thôi. Mấy năm trước tổ chức Peta bày
4 chiếc khay lớn đựng 4 người trần truồng nằm gọn, bọc ni-lông như đồ món trong
tủ lạnh siêu thị, đề “human meat”. Đấy là hình ảnh gây sốc bởi dám nhắc nhở:
con người cũng là động vật! Càng giết chóc càng ăn thịt, nghiệp lực càng chồng
chất, càng chiêu mộ thêm oan gia trái chủ quanh mình. Một công trình khoa học
uy tín chứng minh, răng và bộ phận tiêu hóa của người rất gần với thỏ, chỉ nên
ăn rau cỏ. Giữ mạng cho loài vật là giữ trọn bổn phận làm người. Lời Đức
Phật lúc được chép lại có 500 vị La-hán làm chứng. Kinh Không gì
chuyển hướng (Kinh Trung bộ, số 60): “Vì rằng có đời sau, nếu có
quan điểm nào nói không có đời sau, thời đó là một cái thấy sai
lầm. Vì rằng có đời sau, nếu ai có suy tư rằng không có đời sau,
thời đó là suy nghĩ sai lầm. Vì rằng có đời sau, nếu có ai nói
không có đời sau thì tự mâu thuẫn đối nghịch với các vị A-la-hán đã
biết được có đời sau”.
Không ai muốn kéo dài đời mình
trong sự khổ não, cũng chẳng ai rút ngắn cuộc đời trong giàu sang. Nhưng, ví
như tôi muốn tiêu hủy sự sống thông qua chu trình tận hưởng và gọi đó là thiên
đường, thì tạm hiểu mình đã chết lâu lắm rồi.
Địa ngục hiển nhiên tồn tại trên
trái đất này, thiên đường cũng vậy. Thiên đường của người trần tục là một cuộc
sống tràn đầy hoa thơm cỏ lạ, mỗi bước chân đều có bàn tay khác nâng đỡ, là
cuộc phiêu du trên cánh đồng dục vọng vô biên, là niềm khát khao những nấc
thang danh vọng tưởng sẽ thấu trời nếu tuổi thọ nối thêm vài kiếp. Với người
tu, thiên đường vụt hiện khi đài nước tự tâm phun trào trong giờ khắc nhập
định. Thiên đường bung nở trong mỗi hình hài bất động với khuôn mặt thuần
khiết. Thiên đường theo bước chân hành thiền và lúc người tu cúi xuống hòa vào
bể khổ.
Không thể so sánh, song mạn phép
nhắc lại. Xưa kia xứ Ấn có một hoàng tử đã che mắt không nhìn ngai vàng chói
lóa, lần theo đường đạo đầy bi đát rồi chứng Vô thượng Bồ-đề. Ở Việt Nam hơn
ngàn năm sau cũng có vị vua nhường lại cuộc sống không thiếu thứ gì, lên núi
nương mình dưới ánh hào quang Đức Phật. Hiếm ai từng bước qua hai thiên đường
như vậy và nhận ra thiên đường nào thật thiên đường nào là ảo. Mỗi thời mỗi
khác, xã hội nhân loại đang biến ảo càng ngày càng ly viễn với chân lý của vũ
trụ (chứ không phải chân lý của trái đất này).
Cục vàng nằm ở đâu cũng bị moi
móc, đôi khi người ta còn xới tung mồ mả tìm cho ra; Phật pháp ở trước mắt là
châu ngọc lại không nhiều người để mắt. Nói người nhìn thấy pháp là người có
duyên, tại những kiếp trước từng huân tập. Tu là một khái niệm chung cho tất cả
người muốn trở lại nơi tự mình lưu đày rồi lạc lối. Ngay những người tu, ai bảo
không lẫn lộn lối về? Nếu năm mươi người cùng hướng về Tây Trúc thì con đường
đó vẫn là sự độc hành của một trăm dấu chân không trùng khớp. Và nếu ai đó vén
được bức màn vô minh, cũng xem như đã nhìn thấy miền Cực lạc dẫu còn xa vời
giữa mây khói mong manh.