Trong phẩm  này, kinh văn thuật  rằng vì muốn  cho chư Bồ- tát chưa 
thành  thục liền được thành  thục, chư Bồ-tát đã thành  thục liền được 
thần  thông  và giải thoát  tri kiến, còn bậc đã trụ bất định liền được 
thành tựu cảnh giới nhất thiết trí, mà Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm đã 
bạch với Đức Thế Tôn xin Ngài giãi bày cặn kẽ các pháp môn vô ngại, giải
 thích nhờ phương tiện gì khiến hàng Bồ-tát phát khởi vô lượng pháp môn,
 thành tựu chánh niệm để hàng  phục  ma oán và ngoại đạo mà chẳng bị xô 
phá. Dẫn xuất của lời bạch  này được kinh văn nêu rõ, “Đời mạt pháp 
sau này, trong thời kỳ đấu tranh, chúng sanh nhiều chấp trước làm hại 
lẫn nhau, thêm lớn tham, sân, si, hoại loạn Chánh pháp. Khiến chư Bồ-tát
 ở trong thời kỳ đó, dùng đức đại từ bi chịu đựng mọi sự khổ để lưu hành
 diệu pháp này, không tranh không đấu. Do không tranh đấu nên có thể 
nhiếp thọ đại từ đại bi, và sẽ chứa nhóm những căn lành”.
Có thể thấy, chỉ với một lời tác bạch sở nghi của mình, Bồ-tát Vô 
Biên Trang Nghiêm đã nêu được ba nội dung quan trọng: Bối cảnh và duyên 
sự của đời mạt pháp; hành trạng của chư Bồ-tát; và diệu pháp bất khả tư 
nghì.
1/ Bối cảnh, duyên sự đời mạt pháp
Thời mạt  pháp  là lúc mà giáo pháp  của Đức Thế Tôn chịu đựng nhiều 
sự xuyên tạc, bị giải thích sai lạc, không được “y giáo phụng  hành”. Vị
 Bồ-tát đương  cơ trong pháp hội này gọi đó là thời kỳ đấu tranh. Sự đấu
 tranh diễn ra trên ba lãnh vực: qui mô toàn cầu giữa các chủng tộc, 
chủng loại trong quan điểm để sinh tồn và phát triển; giữa nội bộ trong 
từng quốc gia do lợi ích nhóm, và trong mỗi con người luôn bị dằn vặt 
bởi ân hận, tiếc nuối.
Nguyên nhân dẫn đến thời kỳ đấu tranh xuất phát từ chúng sinh “nhiều chấp trước, thêm lớn tham sân si và hoại loạn Chánh pháp”.
- Vì chấp trước nên bằng mọi cách kể cả gây chiến tranh, tàn sát đồng
 loại để bảo vệ thân mạng, danh vị và quan điểm quản lý xã hội của mình.
- Vì tham  sân si nên quên  mất luật nhân  quả luân hồi, sẵn sàng gây ra khổ đau cho mình, cho người và cho muôn loài.
- Vì hoại loạn Chánh pháp nên mất phương  hướng trong đời sống vật 
chất cũng như đời sống tâm linh, tự mình hủy hoại những giá trị văn hóa 
truyền thống cao đẹp, nhân nghĩa để chạy theo những  chuẩn mực văn hóa “
 hiện sinh”, “vật hóa”, ‘ cuồng vội”.
Hậu quả của chấp trước, nhiều tham sân si và hoại loạn Chánh pháp  là
 một thế giới ta-bà này với nhiều phương  tiện giết hại lẫn nhau  ra đời
 ngày càng tinh vi thiện xảo, con người và muôn loài ngày càng chìm đắm 
 trong  bất  an, lo sợ cho môi trường  sống  ngày càng bị ô nhiễm, một 
hệ thống  quản lý kinh tế xã hội với nhiều lãnh vực lâm vào khủng hoảng 
 trên qui mô toàn cầu mà tần suất ngày càng ngắn hơn. Sự khổ xuất hiện 
ngày càng nhiều hơn.
2/ Hành trạng của chư Bồ-tát
Đối với chư Bồ-tát, chư tôn đức Tăng Ni lại phải chịu đựng mọi sự khổ
 để duy trì và quảng  bá mạng mạch của Như Lai. Ở đây Bồ-tát Vô Biên 
Trang Nghiêm chỉ dùng cụm từ “mọi sự khổ” để diễn tả tình trạng
 trong Tăng đoàn  và trong  tu tập  của chư tôn  đức Tăng Ni vào thời 
mạt pháp. Khổ ở đây là khổ của bậc xuất thế gian trong  thế gian. Nó 
xuất phát  từ trong  cảnh giới đấu tranh, chúng sanh chấp trước, tham sân si ngày càng thêm lớn và hoại loạn Chánh pháp:
- Đấu tranh là nhân gây khổ đau do tâm chúng sanh còn vô minh vọng 
tưởng các pháp thế gian là có thật, tốt,  quí giá, tồn  tại vĩnh viễn, 
không  hư hoại… nên ra sức, bằng  mọi cách thế đế chiếm đoạt, bảo vệ, 
thụ hưởng…  Đối với chư Bồ-tát, các bậc tôn đức Tăng Ni tuy đã rời các 
pháp thế gian nhưng do đại nguyện của lòng từ bi cứu khổ chúng  sanh mà 
phải vào thế gian, vào “nhà lửa” để thực hiện nguyện vọng lớn lao tha 
thiết của mình, nên phải cùng chịu chung số phận cùng với chúng sanh. 
Nếu chư vị xa rời đấu tranh một cách dứt khoát, tâm từ bi rộng lớn, dung
 chứa mọi căn lành thì tuy thân có “nóng” nhưng tâm luôn vô ngại, an 
vui.
- Chấp trước cũng là nhân  gây ra mọi sự khổ đau. Cùng với đấu tranh,
 chấp trước trực tiếp tạo ra sự đối kháng, tranh cãi về các pháp của thế
 gian. Hậu quả của hành  trạng  này là bắt  ép, đánh  đập, giết chóc 
nhau qua xung đột chiến tranh. Khác với đấu tranh là sự đối kháng có sự 
có việc phát sinh mâu thuẫn  diễn ra bên trong tâm do ức chế (stress) 
hoặc thể hiện bên ngoài do lời nói, hành động; còn chấp trước nó vi tế 
hơn, ẩn khuất bên trong, như một màn kính đã bị nhuộm màu, tùy nghiệp 
 lực của từng người mà màu sắc của màn kính này dày mỏng, đậm nhạt, 
trắng, đen, xanh, đỏ… Chấp trước là chủ của đấu tranh. Vì thế bên cạnh 
việc xa rời các pháp đấu tranh của thế gian để được an vui giải thoát, 
các bậc tôn túc trong Tăng đoàn luôn thúc liễm thân tâm mỗi năm vào mùa 
An cư kiết hạ, thực hành chánh niệm để nhận biết các pháp như thật mà xa
 rời sắc tướng hoại diệt của thế gian để an trụ trong Chánh pháp, đạt 
giải thoát tri kiến.
- Tham Sân Si: là nguồn  năng lượng của đấu tranh. Vào thời mạt pháp,
 tham  sân si càng thêm  lớn, cũng đồng  nghĩa với năng  lượng cung cấp 
cho đấu tranh càng thêm lớn, hậu quả là gây ra nhiều khổ đau, chết chóc 
cho muôn loài càng rộng lớn hơn. Các bậc Bồ-tát, chư tôn đức Tăng Ni 
trong thời mạt pháp, do vì có lòng từ bi cứu độ chúng sinh, phát đại 
nguỵện  lớn, nhưng dưới sự quán chiếu của Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm, 
vẫn có ba bậc Bồ-tát còn cần cầu đến lời giảng nói của Đức Như Lai; đó 
là chư Bồ-tát chưa thành  thục được thành  thục, chư Bồ-tát đã thành  
thục mau được thần thông  và giải thoát  tri kiến, và bậc đã trụ bất 
định thì được thành tựu cảnh giới nhứt thiết trí.
- Hoại loạn Chánh pháp:
Chánh pháp bị hủy hoại, báng bổ từ bên ngoài bởi tà ma ngoại đạo; bị 
khinh mạn, cống cao, phá bỏ giới luật, qui môn từ bên trong tứ chúng tu 
Phật. Trong hai loại hoại loạn này, loại thứ hai mới thật là điều mà Bồ-
 tát Vô Biên Trang Nghiêm cần cầu pháp  môn vô ngại và diệu nghĩa quyết 
định của Đức Phật. Cả hai dù từ bên ngoài hay từ bên trong  tứ chúng 
 đều khởi phát từ tín hạnh, chấp trước và ngã mạn, lấy sự làm trọng mà xa rời bổn tánh thường  hằng  thanh  tịnh của các pháp trong cõi ta-bà này, điều mà Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm gọi là “Tịch tịnh chẳng diệt hoại”, có
 được là do thành tựu được chánh niệm, thấy sự vật như chính nó, không 
bị dính mắc bởi nó, không đấu tranh với nó; là một quá trình nhiếp thọ 
lòng đại từ đại bi và trọn nên Phật trí của các bậc Bồ-tát, chư tôn đức 
Tăng Ni.
3/ Diệu pháp bất khả tư nghì.
Đây là diệu pháp, là món thuốc, mà Đức Phật kê đơn
cho các bậc Bồ-tát, cho chúng sinh trong thời mạt pháp vượt thoát  
mọi khổ đau, hàng phục ma oán và ngoại đạo mà chẳng bị xô phá. Pháp môn 
này là phương tiện để Bồ-tát phát khởi vô lượng thiện xảo, tịch tịnh, 
thành tựu chánh  niệm, viên thành  Phật trí. Đạt được công hạnh thù 
thắng vô ngại này, theo Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm, có ba công hạnh lớn
 lao của bậc Bồ-tát trong thời mạt pháp:
3.1/ Mở rộng lòng Từ bi
Đạo của Đức Phật là đạo của Từ bi. Sự hiện diện của Đức Phật Thích-ca
 nơi cõi ta-bà này cũng chỉ vì một bi nguyện  rộng lớn vô biên là cứu độ
 chúng  sinh thoát khỏi mọi khổ đau do sanh tử luân hồi trong lục đạo. 
Nơi nào trong cõi ta-bà này còn khổ đau thì nơi đó vẫn còn cần lưu hành 
diệu pháp của Đức Phật. Do đó, chư Bồ-tát, chư tôn đức Tăng Ni là đệ tử,
 là sứ giả của Như Lai, cũng vì lòng Từ bi này mà chịu đựng, vượt thoát 
mọi khổ đau, tiếp nối mạng mạch, lưu truyền diệu pháp này.
3.2/ Hành thâm Chánh niệm
Chánh niệm là thấy biết một cách chân thật  và rõ ràng  sự hoại diệt 
 của tất  cả các pháp  để dứt  khoát, nhanh chóng, xa rời chấp trước, 
đoạn diệt mọi khổ đau. Do sống trong chánh niệm nên chư Bồ-tát, chư tôn 
đức Tăng Ni luôn tỉnh thức trước mọi sự đấu tranh, là gốc khởi phát của 
cố chấp, của tham sân si. Do không tranh, không đấu nên tâm luôn nhiếp 
thọ lòng từ bi vô lượng của chư Phật, thường hằng thanh tịnh, bao dung; 
mang đến an vui giải thoát cho tất cả mọi loài chúng sinh.
3.3/ Chứa nhóm mọi căn lành
Do thấy biết rõ bổn tánh của các pháp nên các bậc Bồ-tát luôn dùng 
 năng lực diệu dụng  của hạnh từ bi để vượt thoát mọi khổ đau trong thời
 mạt pháp, đồng thời miên mật lưu hành diệu pháp không tranh, không đấu;
 dung  chứa mọi căn lành, lánh xa tất cả việc ác, nhờ đó hàng  phục  
được ma oán, tăng  trưởng  thiện nghiệp, thành tựu cảnh giới nhứt thiết 
trí.
Hiện tại chúng ta đang ở thời kỳ mạt pháp. Những gì Bồ-tát Vô Biên 
Trang Nghiêm tác bạch với Đức Phật về sở nghi của mình cũng đang diễn ra
 ở một mức độ rộng và khá phổ biến trong đời sống của chúng ta. Tuy thời
 của Đức Phật còn tại thế và thời đại của chúng ta cách xa nhau nhưng sự
 và lý mà vị Bồ-tát đương cơ nêu trong Pháp hội vẫn còn có một giá trị 
vô cùng lớn lao cho những người con Phật trên bước đường tu học của 
mình. Những chướng duyên do chúng sanh trong thời mạt pháp tự gây đau 
khổ cho nhau cũng như do chính chúng ta trong quá trình tu tập còn chấp 
trước, cống cao ngã mạn, xa lìa giới hạnh, lấy giả làm chân, đều là nhân
 của hoại loạn Chánh pháp.
Ba sở hành của hạng Bồ-tát được Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm nêu lên 
trong lời tác bạch trước Đức Phật và đại chúng cho Phật tử chúng ta một 
phương  tiện đầy lòng từ bi, trí tuệ vượt thoát  mọi khổ đau trong  thời
 mạt pháp này. Bồ-tát tác bạch là vì sở nghi của chúng sanh trong  ba 
cõi, về phương  tiện vượt thoát  những chướng duyên trong thời mạt pháp.
 Chúng ta cảm kích biết bao khi giữa Pháp hội thanh  tịnh, uy nghi, 
Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm, chứ không phải vị Bồ-tát nào khác, đã nêu 
tình trạng  của thời mạt pháp  để mong cầu Đức Phật truyền dạy diệu pháp
 vượt thoát cho chư vị Bồ-tát và chúng sinh tin Phật. Phải chăng danh 
hiệu Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm là sự khởi đầu cũng  là câu kết đầy ý 
nghĩa cho chúng  ta về diệu pháp  vượt thoát  mọi khổ đau, mọi xô phá  
của ma oán, là thực hành hạnh nguyện Vô Biên Trang Nghiêm của 
ngài. Nếu tất cả người con Phật, tự mỗi người do thấy biết nhân quả của 
khổ đau mà xa lìa đấu tranh, rộng lòng từ bi, bao  dung  nhiếp  thọ  mọi
 ma oán, chúng  sinh; dung chứa, gieo mầm những căn lành tức là chúng ta
 trang nghiêm  thân  tâm của chúng  ta một cách vô biên vô tận. Vô biên 
trang nghiêm Thân Khẩu Ý, Vô biên trang nghiêm Đạo tràng, Trú xứ tức là 
chúng ta vô biên trang nghiêm  Quốc độ, hàng phục ma oán, vượt thoát  
mọi khổ đau, thành tựu viên mãn những thệ nguyện hoằng pháp độ sanh một 
cách vi diệu, thiện xảo.
Tham  khảo: Kinh Đại Bảo Tích, tập  I,  Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch.