Ðề tài chúng tôi nhắc nhở quí vị hôm nay là: "Người tu
Phật là tìm trở về nguồn an lạc giải thoát." Quí vị chú ý
nghe, lãnh hội đầy đủ và ứng dụng tu hành thì mới tốt.
Ðức Phật sau khi thành đạo dưới cội bồ-đề, Ngài tìm những
người bạn đồng tu lúc trước là năm anh em ông Kiều-trần-như để
thuyết pháp. Bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Ðế, trong đó đế thứ
nhất là Khổ đế, nói cái khổ là lẽ thật của cuộc đời này. Ðức
Phật nói khổ, tại sao chúng tôi lại nói người tu là tìm
về nguồn an lạc giải thoát, tức là vui. Như vậy có trái với bản
ý của đức Phật hay không?
Khi mới nhìn qua đạo Phật, người không hiểu thấy đạo Phật
dường như bi quan, yếm thế. Nhưng đi sâu, thấm nhuần giáo lý
của Phật rồi, chúng ta mới thấy ngược lại. Ðức Phật nói khổ là
chỉ trên quả, vì quả dễ thấy, dễ biết. Khi biết được quả rồi,
Ngài liền chỉ đến nhân. Nguyên nhân nào tạo ra quả khổ ấy.
Khi biết được nhân rồi, dẹp hết nhân thì quả không còn.
Ngày nay các nhà khoa học luôn phăng tìm manh mối của vạn
tượng sum la, căn cứ trên quả mà phăng tới nhân, không bao giờ
đi từ nhân tới cái quả. Vì quả là cái dễ thấy, thấy quả rồi
chúng ta tìm ra nhân dễ dàng, còn trước nói nhân sau đó mới chỉ
quả thì khó hơn. Như bây giờ chúng ta có cây cam, được quả
cam ăn, biết quả cam ngọt. Những người thưởng thức mùi vị
quả cam hỏi rằng: Cam này từ đâu có? Tự nhiên chúng ta sẽ giải
thích từ hạt cam ươm lên, nẩy mầm, lên cây, có lá, đơm hoa,
kết quả. Quả là cái hiện thấy, chứng minh được; còn nhân thì đã
cũ, đã xưa rồi, chúng ta không thể nào chỉ cho người khác thấy
tường tận. Cho nên tinh thần Phật dạy rất thích hợp với khoa
học hiện giờ.
Nếu người không hiểu, nghe đức Phật nói cuộc đời là khổ,
mang thân này là khổ thì cho rằng đạo Phật bi quan, đạo Phật
chán đời, v.v... Khổ đó là quả, chúng ta biết rồi thì phải
phăng tìm nguyên nhân của nó. Nếu biết được nhân nào tạo ra quả
khổ, chúng ta liền dẹp bỏ, tự nhiên quả khổ không còn. Nếu
quả khổ không còn, lúc đó được vui. Vui không riêng có mà
chỉ khi nào hết khổ. Ðó là tinh thần của Phật dạy.
Phật nói khổ để chúng ta tìm ra nguyên nhân gây đau khổ,
biết rõ nguyên nhân rồi thì dứt bỏ nó. Dứt bỏ rồi chúng ta mới
hết khổ, tức là được an lạc, giải thoát. Vậy mục đích của đức
Phật dạy là muốn chúng ta hết khổ, được giải thoát, chớ không
phải dạy chúng ta chịu khổ. Phương pháp tu đó không hề bi
quan. Quí vị nhìn những người tu hành hiểu sâu đạo lý, sống
được với đạo, thường lắc đầu, chặc lưỡi, thở dài hay thường
cười hoài? Bao nhiêu đó cũng tự trả lời cho những vấn đề chúng
ta cần hiểu rồi.
Người biết tu luôn phăng tận nguồn gốc nguyên nhân gây ra
đau khổ, dẹp bỏ chúng qua một bên thì đau khổ không còn. Khổ
hết gọi là an vui. Nhưng thật đáng thương cho Phật tử chúng ta
ngày nay, tu mà không tìm nguyên nhân của khổ để dẹp bỏ, lại cứ
cầu Phật cho con hết khổ hoài. Gặp việc buồn, việc khổ liền
vô chùa thắp hương, lạy Phật tha thiết, xin Phật ban cho
con ân huệ để con hết khổ. Việc gì cũng dựa vào quyền lực của
đức Phật chớ không bỏ ra công phu tu hành.
Ðạo Phật là đạo rất thực tế chớ không phải huyền bí, nhưng
Phật tử chúng ta quen bệnh yếu đuối nên xem Phật giống như ông
thần. Gặp việc gì khổ quá chỉ xin với Phật cho bớt khổ, chớ
không biết tu cho bớt khổ. Ðó là điểm yếu đuối, sai lầm của
Phật tử chúng ta. Người tu Phật thì phải tìm về nguồn an lạc
giải thoát. Tôi xin nêu vài điểm căn bản cho quí vị thấy
nguồn gốc của an lạc giải thoát.
Trong kinh Phật thường nói: "Chúng sanh có tám điều khổ:
sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất
đắc khổ, oán tắng hội khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Ðó là bát
khổ." Như vậy khổ nhiều hơn vui. Chúng ta xét kỹ xem, cái khổ
đó là khổ cho tất cả mọi người hay chỉ đối với những ai
không biết đạo lý?
1. Sanh khổ.
Theo nhà Phật thì sanh gồm hai phần. Thứ nhất, sau khi ra
khỏi lòng mẹ đau đớn nhọc nhằn. Thứ hai, trong cuộc sống của
chúng ta, nếu không biết tu, không hiểu đạo thì cả cuộc đời chỉ
toàn là đau khổ, không chút an vui. Như vậy khổ lúc sanh ra và
khổ trong cuộc sống. Khi sanh ra có đứa bé nào cười không, hay
đều khóc oa oa. Ðó là vì ra đời khó khăn đau đớn quá, nên lọt
lòng mẹ là khóc liền. Cái khóc ấy nói lên sanh là khổ.
Rồi từ bé đến già mấy mươi năm, một cuộc đời khổ nhiều vui
ít. Quí vị thử kiểm lại xem trong suốt một đời, những gì chúng
ta mong muốn, đa phần được như ý hay chỉ thiểu phần như ý? Chắc
rằng không ai nói đa phần như ý. Người thì gia đình ấm no có
cơm ăn, áo mặc nhưng con cháu khó dạy. Người thì con cháu
dễ dạy nhưng gia đình lại chật vật thiếu thốn v.v... đủ thứ
thuận nghịch, không khi nào được thỏa mãn như ý của mình. Vì
vậy đa số đều bất như ý.
Con người sanh ra ai cũng mơ ước tràn đầy hạnh phúc, nhưng
trải qua bốn, năm mươi tuổi nhìn lại cuộc đời không có hạnh
phúc mà bất hạnh lại nhiều. Ít hôm nghe tin người thân mất hoặc
phải đi xứ này xứ khác v.v... Hoặc có chuyện này chuyện nọ làm
mình phải buồn, phải khổ. Không ai được hạnh phúc trọn vẹn. Cả
một đời người, ba phần tư là đau khổ, chỉ một phần tư
an vui thôi, thực tế là như vậy.
Chúng ta đã biết sanh là khổ, bây giờ chúng ta phải làm sao
cho hết khổ? Làm sao chúng ta sống trong cõi khổ mà vẫn luôn
được an vui? Ðiều đó không có gì khó hết. Nếu sống trong cuộc
đời này mà biết rõ ràng cuộc đời là tạm bợ, có rồi sẽ mất,
không ai còn mãi. Như vậy ngày nào chúng ta còn sống thì ngày
ấy còn tốt, còn có thì giờ cho chúng ta tự tu, cho chúng ta
làm những điều thiện, giúp ích mọi người. Một ngày sống
là một ngày vàng, chúng ta phải sử dụng hết để lo cho mình, cho
người, làm sao cho mình và người đều được an ổn. Làm một điều
lành là chúng ta được một nguồn vui. Chúng ta chuyển cuộc sống
khổ đau này bằng một cuộc sống tràn đầy hạnh phúc.
Nói như vậy sẽ có vị nghĩ, nếu người giàu có thì giúp đỡ
người này, người kia dễ. Còn như ta nghèo, không có điều kiện
giúp được ai, thì làm sao có niềm vui. Tôi xin nhắc rằng trên
đời có nhiều niềm vui lắm, chỉ sợ chúng ta không chịu làm thôi.
Thí dụ chúng ta không có tiền cho người ăn xin hay đóng góp
cứu trợ nạn lụt v.v..., nhưng đang đi thấy đứa bé bị té, chúng
ta đỡ lên, vỗ về, an ủi khuyên bảo nó, như vậy có vui không?
Chúng ta không làm được việc cứu giúp bằng tiền thì chúng ta
làm việc cứu giúp bằng thân, bằng lời. Dùng thân và lời giúp đỡ
người bớt khổ. Bớt khổ là họ được vui, người vui thì
chúng ta cũng vui. Cái vui đó không tốn gì hết, chỉ tốn một
chút công. Như vậy tìm nguồn vui đâu phải khó. Chỉ cần khi thấy
một con kiến rớt dưới vũng nước, chúng ta vớt nó lên để trên
khô, thấy nó bò mừng rỡ là chúng ta cũng vui rồi.
Người biết tu nhìn lại bản thân mình ngày xưa nhiều nóng
giận, nay đã giảm bớt liền cảm thấy vui. Gặp ai đang có nguy
khốn, mình ra tay cứu vớt, từ con người cho tới loài vật, giúp
được loài nào cũng có nguồn vui. Vậy chúng ta sống để làm lợi
ích cho chúng sanh. Tuy rằng khả năng nhỏ bé, hạn hẹp, nhưng
với lòng chân thành thì cũng có vui rồi.
Nếu chúng ta biết sống, thì dù đời là khổ hay sanh là khổ,
nhưng ngày nào chúng ta cũng lượm cũng mót được nhiều niềm vui.
Ðó là chúng ta khéo tu, khéo hiểu Phật pháp, chớ đừng lạy xin
Phật cho con vui. Phật không cho được đâu, chúng ta phải tự tạo
lấy nguồn vui từ bản thân mình. Tuy sanh khổ, nhưng nếu chúng
ta biết sống thì sanh trở thành vui, chớ không phải khổ.
2. Già khổ.
Tại sao già khổ? Vì già không biết làm gì cứ đi tới đi lui,
nhớ con, nhớ cháu, buồn ủ rũ, hết trách người này tới trách
người kia, thành ra thấy tuổi già lê thê, đen tối. Nên già là
khổ.
Người già nên biết dùng tuổi già trong công việc. Những vị
không có trách nhiệm cứ ở tại nhà, tìm những gì hay, những gì
đẹp dạy con, dạy cháu. Ðem bài kinh hay, đoạn sách tốt để dạy
con cháu, đó là vui rồi, đâu phải làm việc gì nhiều.
Cũng như chúng tôi, một ngày sống là một ngày phải làm được
cái gì cho mình cho người. Lợi ích được cho mình cho người thì
vui chớ đâu có khổ. Như vậy nói già khổ hay vui? Già thế nào
cũng có kinh nghiệm nhiều hơn người trẻ. Tại sao chúng ta không
đem những kinh nghiệm ấy dạy lại cho người sau. Vì vậy tuổi
già không phải là thừa, không phải là bỏ. Mỗi ngày chúng ta
sống đều có giá trị thì cuộc đời già là vui, chớ không
phải khổ.
3. Bệnh khổ.
Ðiều này đa số chấp nhận. Có người nào đau mà không rên đâu?
Rên tức là khổ chớ gì! Nhiều người than sao tôi bệnh hoạn lê
thê, kéo dài năm này qua năm nọ, chán quá! Nên vị đó thấy bệnh
là khổ.
Nhưng với con mắt nhà Phật, bệnh cũng không khổ. Vì sao
không khổ? Vì Phật dạy thân này do nhân duyên hợp, trong đó có
đất, nước, gió, lửa. Kinh Niết-bàn nói tứ đại là bốn con rắn,
con rắn nước, con rắn lửa, con rắn đất, con rắn gió. Tôi xin
nói cụ thể hơn, con rắn nước là rắn hổ ở dưới nước, con rắn lửa
là rắn hổ lửa, con rắn đất là rắn hổ đất, con rắn gió là rắn
hổ mây. Bốn con rắn hổ này nhốt trong một cái giỏ thì
chúng phải cắn nhau, chống chọi nhau thôi. Người nuôi rắn thấy
bốn con cứ chống nhau, làm cho con này con nọ cứ bất an hoài,
thì phải can thiệp cho chúng hòa với nhau mới yên được.
Chúng ta mang thân đất nước gió lửa, bốn chất đó có hòa hợp
với nhau không? Ít hôm thì lửa thắng nước, lúc đó nóng quá phải
kiếm cái gì uống cho mát, đó là điều hòa rắn hổ lửa. Ít hôm
nước thắng lửa thì bị lạnh run rẩy, phải kiếm cái gì uống cho
ấm, đó là điều hòa con rắn nước. Ít hôm rắn đất bị hổ
mây cắn, lúc đó chúng ta kêu trúng gió, phải đánh gió hay tìm
cách này cách kia làm cho gió ra thì thân mới nhẹ, nên nói:
"Gió thổi mạnh thì đất rung rinh." Chúng luôn luôn chống chọi
nhau. Chúng ta phải điều hòa chúng. Như vậy nhàn hạ hay khổ.
Ai cũng có bệnh. Nếu không bệnh nặng thì cũng bệnh nhẹ,
không bệnh nhiều cũng bệnh ít, chớ không ai hoàn toàn không
bệnh. Vì bệnh là khổ chung của tất cả mọi loài! Nhiều vị bệnh
lăn lộn rên. Rên là khổ. Nhưng giờ đây biết tu, khi bệnh chúng
ta phải làm sao? Chúng ta nhìn bốn con rắn này, xem đứa nào
thắng, đứa nào bại. Biết rõ bốn con rắn độc đang chống chọi với
nhau, chúng ta không chấp thân này là thật. Tứ đại tụ họp
nên có thân, nhưng vì tụ họp trong sự chống chọi nên thân
này khổ.
Chúng ta biết rõ nó không chắc, không bền, không có gì quan
trọng nên bớt khổ. Thường bệnh đau, chúng ta thấy khổ vì thấy
thân là hơn hết, vì sợ chết. Nếu biết rõ nó là tướng duyên hợp
thì hợp cũng tốt, mà tan cũng vui. Nếu nó còn thì chúng ta dùng
vào việc hữu ích, nó mất thì chúng ta ra đi một cách thảnh
thơi, có gì đâu mà sợ. Nếu không sợ chết thì đau mặc đau, nó
đâu có thiệt.
Ngày xưa có một vị Thiền sư bị bệnh, thầy Tri sự lên thưa:
"Bạch Hòa thượng, Hòa thượng bệnh có cái không bệnh chăng?"
Ngài đáp: "Ôi da, ôi da!" Cái biết rên đó nó không có hình
tướng nên không bị bệnh, còn bệnh là thân này bệnh. Như vậy
chúng ta biết ngay nơi thân này là duyên hợp tạm bợ. Có hợp
thì phải có tan, không có gì quan trọng. Không quan trọng
thì bớt khổ.
Ðồng thời chúng ta cũng biết ngay trong thân này có cái chân
thật, không hình tướng, nó chính là chủ trì của thân. Biết rõ
cái đó thì thân có đau, có nhức là chuyện của thân, nhìn được
cái đau tức là chúng ta không đau.
4. Chết khổ.
Ai cũng thấy người sắp chết thở hổn hển, trăn trở bứt rứt hết sức khổ nhọc, nên nói chết là khổ.
Người nếu khéo tu, nhất là tu thiền sẽ thấy khác. Khi ngồi
thiền từ một giờ, lần lần tới một giờ rưỡi, hai giờ, càng tiến
lên chân đau vô kể. Nhưng ráng chịu đựng, thắng được nó rồi thì
sẽ qua luôn, không còn đau nữa. Thắng được là có gan dạ. Vì
có gan dạ nên mới thắng được.
Khi chúng ta chết, thân tứ đại rã rời tan nát, làm sao không
đau đớn. Trong khi đau đớn chúng ta nhìn nó biết nó là bại
hoại. Còn cái "biết" bại hoại đó không bại hoại, không đau đớn.
Biết rõ như vậy thì chết không phải khổ nữa. Cho nên ngày xưa
Thiền sư Từ Minh ở Trung Hoa có nói câu kệ: Sanh như đắp chăn
đông, tử như cởi áo hạ. Mùa đông lạnh lẽo được đắp chăn
ấm là vui. Mùa hè nóng bức, mồ hôi tươm ướt áo, được cởi áo đi
chơi là khỏe. Với người biết tu thì sanh tử như trò chơi,
không có gì quan trọng nên không có gì khổ hết.
Chỉ người không biết tu, sống lo bảo vệ, săn sóc, cung dưỡng
thân này, nên khi thân này bại hoại, chới với không biết nương
tựa vào đâu. Vì vậy mà khổ. Khổ hay vui là tại người biết tu
hay không biết tu mà thôi. Thân này tuy có hợp có tan nhưng ông
chủ không mất thì còn gì khổ. Vì vậy chết cũng không phải là
khổ.
5. Ái biệt ly khổ.
Tức là người mình thương yêu mà phải xa lìa nên khổ. Nếu
chúng ta biết thương yêu là gốc của đau khổ nên bớt thương yêu
đi thì bớt khổ.
Nói hết thương yêu, người ta lầm tưởng đạo Phật khô khan
quá, không biết thương ai hết. Tôi thường thí dụ, như một dòng
suối nhỏ, nước từ đầu nguồn tuôn chảy rất mạnh, vì dòng suối
nhỏ mà nước nhiều nên nó chảy xiết. Còn biển cả mênh mông, thấy
như không chảy mà thật ra nó chảy ngầm. Nếu không thì làm
sao có nước ròng, nước lớn.
Cũng vậy, thế gian cột trói mình trong tình thân thuộc, tình
bè bạn, nên khi xa cách phải đau khổ. Còn người tu thì mở rộng
lòng thương hết chúng sanh, nên ai chúng ta cũng thương. Vì
thương tất cả nên như biển, không chảy xiết nên không khổ. Tình
thương có cột trói là khổ, còn lòng từ thương hết mọi người
thì không khổ. Người này đi vắng thì còn bao nhiêu người khác
chúng ta phải lo cho, có rảnh đâu nhớ thương một người.
Như vậy tâm từ bi là tâm tràn trề lai láng, không có hạn cuộc.
Còn ái kiến là cột trói, mà cột trói riêng biệt thì khổ. Vì
vậy nên nói ái biệt ly khổ. Nếu chúng ta dứt được lòng ái thì
tự nhiên khổ theo đó dứt hết, sẽ được vui ngay.
6. Cầu bất đắc khổ.
Cầu là mong cầu, bất đắc là không được như ý nên khổ. Chúng
ta mong muốn hoặc trông chờ điều gì mà không được thì khổ. Nếu
chúng ta không thèm mong cầu chi hết, ngày nay sống lo việc
ngày nay, không trông đợi ngày mai thì tâm bình an. Ngày nào
chúng ta cũng làm tất cả việc tốt, việc lành, cứu người này
giúp người kia; không giúp được người thì giúp vật, không cần
cầu việc gì cao xa mà chúng ta vẫn được an lành. Do đó chỉ cần
dẹp lòng tham cầu thì tự nhiên hết khổ, nên nói hết
tâm tham cầu liền được an vui.
7. Oán tắng hội khổ.
Thù oán mà gặp lại nhau thì khổ. Quí vị ghét ai đó cay đắng
mà họ cứ ngồi trước mặt mình hoài, có khổ không? Chắc khổ lắm.
Bây giờ chúng ta đừng thèm ghét ai hết thì không còn khổ. Không
khổ tức là vui rồi. Như vậy vui từ đâu lại, khổ từ đâu ra? Tại
mê muội mà khổ, bỏ mê muội đi thì vui.
Chúng ta thật là đáng thương. Tôi thường nói, như có số
người đang đi trên một chiếc thuyền qua biển, sóng gió chòng
chành làm thuyền muốn lật. Lúc ấy mọi người có rảnh rỗi để cãi
vã, giận hờn nhau không, hay ai cũng lo làm sao cho khỏi chết?
Cũng vậy, trên thế gian này ai ai cũng có bao nhiêu thứ hoạn
nạn đang chực chờ, nên ai cũng là người đáng thương. Mình đã
đáng thương rồi, mọi người xung quanh lại càng đáng thương hơn.
Vì vậy thương nhau không hết, có đâu giận hờn làm khổ cho
nhau. Ai ưa giận hờn, người đó khôn hay dại?
Vậy mà thế gian không chịu khôn cứ giận hoài, có người còn
nói: "Tôi giận người đó mấy chục năm rồi chưa hết!" Vị ấy đâu
biết ôm ấp giận trong lòng là mình đang chứa những hòn lửa
than, nó sẽ thiêu đốt ta gầy mòn héo hon, vậy mà còn khoe tôi
giận mấy chục năm. Giận nhiều thì hại nhiều, không có
lợi ích gì cả. Việc qua rồi chúng ta nên xí xóa với nhau rồi
cười vui, cuộc đời tạm bợ mà!
Thường trong lòng chúng ta luôn có hai hạng người khó quên:
Một là những người mình thương; hai là những người mình ghét.
Nên sau khi chết sẽ gặp lại hai nhóm này. Thương gặp lại và
ghét cũng gặp lại. Nên người biết tu phải xả hết giận hờn,
không oán thù ai hết.
Thật ra chúng ta còn là phàm phu, bảo đừng giận thì chưa
được, song có giận nên bỏ mau một chút. Kinh Phật có câu: "Tăng
hận bất cách túc", tức Tăng giận không quá một đêm. Chúng ta
cũng giận khi nghe lời trái tai, nhưng giận một chút rồi bỏ để
mai kia không gặp trở lại. Nếu ai ôm ấp giận hoài, đó
là nguyên nhân để mai sau gặp lại. Chúng ta chấm dứt tâm oán
hờn thì chúng ta được an vui.
8. Ngũ ấm xí thạnh khổ.
Tức thân năm ấm này mạnh mẽ, hưng thạnh quá thì khổ. Ngược
lại nếu chúng ta biết dùng thân năm ấm để tiến tu thì sẽ an
vui. Tôi thường thí dụ như khi mình qua sông, không có thuyền
bè, nhờ khúc gỗ mục mình lội qua sông. Khúc gỗ khi đó là hữu
ích. Nhưng đã qua sông rồi phải biết bỏ khúc gỗ đi không nên
tiếc.
Thân này cũng vậy, bệnh hoạn đau ốm đủ thứ, chúng ta lỡ mang
vào rồi, phải dùng nó cho có ý nghĩa. Dùng thân làm lợi cho
mình, đánh thức cho người, chỉ vì việc tiến tu thì đó là hữu
ích. Còn nếu cung dưỡng săn sóc thân cho lắm, tới ngày nó mất
thì khổ đau. Vì thương thân quá nên mất thân này liền tìm thân
khác. Nhiều khi chụp được thân tốt, cũng có khi chụp phải
thân xấu. Vì vậy mà có sanh trong địa ngục, ngạ quỉ, súc
sanh. Chúng ta nhớ đừng quí thân, mà chỉ lợi dụng nó để lợi ích
cho chúng sanh, để mình tiến tu. Ðó là người biết dùng thân.
Ðã biết dùng thân thì vui chớ không khổ.
* * *
Như vậy tám thứ khổ này không phải thật khổ. Chỉ khi chúng
ta mê, chúng ta mới thấy thật khổ. Nếu chúng ta tỉnh giác thì
không còn khổ nữa. Phật nói khổ để chúng ta thức tỉnh, thức
tỉnh thì không còn khổ, mà là được vui. Trong kinh Niết-bàn,
đức Phật có dạy bài kệ:
Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc.
Dịch:
Các hành vô thường
Là pháp sanh diệt
Sanh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui.
Hành nghĩa là tất cả các tướng có đi có lại, các sanh hoạt ở
thế gian đều là vô thường, không bền lâu, nó thuộc pháp sanh
diệt. Từ thân hành cho tới ý hành, cả hai đều thuộc về pháp
sanh diệt. Tất cả các thứ sanh diệt lặng hết thì tịch diệt hiện
tiền. Chỗ lặng lẽ đó chính là an vui. Chúng ta hiểu đạo lý,
phải khéo ứng dụng tu như vậy.
Một, đừng chấp thân vô thường là thật. Hai, phải lặng tâm vô
thường sanh diệt xuống, lúc đó chúng ta sẽ hết khổ được vui.
Ðối với người tu niệm Phật, phải niệm Phật cho nhất tâm. Khi
tâm sanh diệt hết mới được sanh sang cõi Cực lạc. Ðối với người
tu thiền, nếu tâm sanh diệt lặng thì định, do định nên
trí tuệ phát sanh, ấy là vui.
Phật dạy chúng ta biết các hành đều vô thường, đều là pháp
sanh diệt. Chúng ta đừng cố chấp, đừng luyến tiếc, đừng quá
thương yêu, mà phải làm sao cho tất cả những thứ sanh diệt đó
lặng hết, thì tịch diệt là niềm vui an lạc sẽ đến với chúng ta.
Trong nội tâm của mình, nếu cứ lo nghĩ chuyện này chuyện
kia dồn dập, lúc đó gương mặt mình héo xàu. Ngược lại, nếu
tâm mình thơ thới, không có một niệm lo nghĩ nào hết, lúc đó
gương mặt mình tự nhiên được tươi vui. Như vậy, cái sanh diệt
lặng rồi thì tịch diệt (nguồn vui) hiện tiền. Nên người khéo tu
lúc nào cũng tìm cách đưa tâm sanh diệt của mình đi đến chỗ
lặng lẽ. Ðó là nguồn an lạc lớn lao nhất của người tu.
* * *
Tóm lại, chúng ta tu Phật là vui hay khổ? Tu Phật là vui.
Phật nói khổ để chúng ta tìm ra nguyên nhân của khổ và diệt khổ
thì được an vui. Vậy đạo Phật bi quan hay lạc quan? Người
không hiểu rõ đạo Phật nên đánh giá sai lầm, cho đạo Phật là bi
quan, yếm thế. Người hiểu đạo Phật đúng đắn là người biết tìm
về nguồn an vui, biết tìm về nguồn giải thoát chớ không
phải khổ đau như người ta tưởng.
Mong rằng tất cả chư Tăng, Ni cũng như Phật tử sau khi nghe
tôi giải thích, quí vị hiểu và ứng dụng tu được, thì xứng đáng
là người xuất gia, xứng đáng là người cư sĩ chân chánh, không
còn bị các thứ khổ làm cho buồn bã, sầu bi. Như vậy là quí vị
biết nhổ hết nhân đau khổ để rồi cùng nhau được an vui.
Nhổ hết gốc đau khổ thì Ta-bà biến thành Cực lạc, còn gì phải
trông chờ xa xôi.
Một lần nữa tôi mong quí vị nghe, hiểu, cùng tu và cùng được an vui.