Dục tri tiền thế nhân,
Kim sanh thọ giả thị.
Yếu tri lai thế quả,
Kim sanh tác giả thị.
Nghĩa là:
Muốn
biết đời trước của mình như thế nào, thì hãy nhìn kỹ cái quả báo mà
mình đang lãnh thọ của đời hiện tại nầy. Muốn biết cái quả báo của mình
đời sau ra sao, thì hãy nhìn vào cái tác nhân mà mình đang gây tạo trong
hiện đời.
Ðó là ta nhìn nhân quả theo chiều thời gian. Còn về
không gian, thì đời sống của ta có liên hệ mật thiết với tất cả muôn
loài. Thế nên mọi ý nghĩ, hành động, lời nói, việc làm của ta đều có tác
động ảnh hưởng xấu, tốt đến mọi loài. Ðó là cái nhìn đúng theo lý duyên
sinh nhân quả của Phật giáo.
Ta nên biết thêm rằng, nhân quả là
một chân lý phổ biến. Nó hình thành và tiềm tàng trong mọi sự vật, không
một vật thể nào thoát khỏi nhân quả. Vì hiểu được định lý nhân quả, nên
từ ngàn xưa, tổ tiên ta đã khéo ứng dụng thể hiện vào đời sống theo
chiều hướng thăng hoa tốt đẹp từ cá nhân, gia đình và xã hội. Do sự trải
nghiệm theo dòng đời khổ vui đó mà ông cha ta đã để lại một kho tàng
quý báu về những câu ca dao tục ngữ bất hủ trong việc xử thế, trị quốc,
tu thân, tề gia, hành thiện theo hướng nhân quả tốt.
Những câu ca dao tục ngữ nhằm thức nhắc người ta nhớ đến nhân quả để
hành xử cho mình và người trong tương quan đời sống, nên tránh những
nhân xấu mà cần gây tạo những nhân tốt để có cái quả báo tốt đẹp. Chúng
tôi thấy có rất nhiều câu ca dao tục ngữ theo dạng thức nầy.
Ở
đây, chúng tôi chỉ xin nêu ra một số câu ca dao tục ngữ mà chúng ta
thường nghe người ta hay đề cập đến liên quan đến lý nhân quả. Và qua
mỗi câu ca dao, tục ngữ, chúng tôi xin được góp thêm chút ý mọn với mục
đích là để làm sáng tỏ ý nghĩa của những câu ca dao hay tục ngữ đã được
nêu ra. Chỉ góp thêm chút ý kiến nhỏ nhoi thôi, chớ chúng tôi không dám
có cái cao vọng là bình phẩm rõ ràng cặn kẽ qua từng vấn đề của mỗi câu.
Việc làm nầy, xin để cho các bậc học giả có kiến thức uyên thâm bình
giải cho chúng ta.
Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa sơ qua một số câu tục ngữ mà chúng ta thường nghe thấy.
1. Ở hiền gặp lành.
Câu
nói nầy, nhằm ý thức nhắc mọi người nên ăn ở hiền lương, không nên gây
tạo những điều bất thiện. Hễ mình có lòng tốt giúp đỡ cho mọi người, khi
người ta gặp cảnh hoạn nạn, ngặt nghèo, thì mình nên rộng lòng từ ái
cứu giúp. Ðến khi mình gặp cảnh không may xảy ra, thì người ta sẽ giúp
đỡ mình lại. Dù người đó không giúp mình, thì cũng có người khác giúp
mình. Ðành rằng, khi thi ân, mình cũng không có ý mong cầu người ta đáp
trả lại. Vì sách Nho có câu: “Thi ân bất cầu báo”. Thi ân mà còn cầu
đáp trả, đó là thi ân có ý mưu đồ. Ðúng theo luật tắc nhân quả, hễ có
gây nhân, thì sớm hay muộn gì cũng có kết quả.
Sống ở đời, nếu
mình quá ích kỷ, cái gì cũng chỉ nghĩ riêng cho phần mình, ai chết mặc
ai, dù thấy người ta đang đau khổ ngút ngàn rên la oằn oại trước mắt
mình, mình cũng không chút từ tâm thương xót. Như thế, thì thật mình
quá nhẫn tâm, không có chút tình người. Ta nên biết rằng, đời là vô
thường nay vầy mai khác, đổi thay luôn luôn, chắc gì mình không có lúc
gặp phải cảnh hoạn nạn khổ đau. Biết đâu sau nầy mình còn khổ đau hơn
người ta nữa không chừng. Do nghĩ thế, nên hôm nay, mình nên đối xử tử
tế hiền hòa với mọi người, thì mai kia, khi mình có gặp hoạn nạn, thì
không ai lại bỏ mình.
Thế nên, mình cố gắng làm lành giúp người
tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Ðược thế, thì còn gì quý giá
cho bằng. Mình giúp cho người ta vui vẻ, tức mình cũng vui vẻ. Cho nên
câu nói: “ở hiền gặp lành” tuy có 4 chữ ngắn gọn, nhưng nó cũng đã thức
nhắc cho chúng ta rất nhiều trong đời sống tương thân, tương ái và tương
trợ lẫn nhau. Hễ gây nhân hiền, thì tất sẽ gặt hái quả lành.
2. Ở ác gặp dữ.
Câu
nói nầy, ngược lại với câu trên. Nếu ở hiền gặp lành, thì ở ác gặp dữ,
đó là điều tất yếu, không thể tránh khỏi. Câu nói nầy, các bậc tiền nhân
đã cho ta một kinh nghiệm sống ở đời. Nếu mình muốn có một đời sống an
lành, không xảy ra lắm điều hệ lụy phiền toái, thì mình không nên gây
tạo những điều ác đức, làm đau khổ cho mình và người. Như mình hung dữ,
thô bạo cướp của, giết người, làm những việc phi pháp trái với luật quốc
cấm, đó là mình đã gieo hạt giống bất thiện rồi. Ðã thế, thì thử hỏi
làm sao tránh khỏi quả báo khổ đau.
Cứ nhìn vào xã hội loài người
hiện nay, ta thấy có biết bao những tệ nạn xảy ra. Như kẻ cướp của giết
người, bị cảnh sát bắt tống giam vào trong nhà lao. Dĩ nhiên, kẻ đó sẽ
bị pháp luật trừng trị hành phạt đích đáng theo cái tội mà họ đã gây.
Hôm nay, vì một cơn giận tức mình hung dữ ra tay đánh đập tàn nhẫn một
người cô thân yếu thế, thì mai kia mình sẽ bị kẻ khác đánh đập lại.
Chuyện đó đã và đang xảy ra hằng ngày.
Do đó, nên câu nói: “Ở ác
gặp dữ”, cổ nhân nhằm khuyên chúng ta không nên hành động hung dữ mà
phải chuốc lấy khổ lụy vào thân. Bởi do gây nhân bất thiện, nên gặp phải
gặt hái cái quả bất thiện. Trong trường hợp nầy, ta thấy có nhiều câu
tục ngữ cũng có đề cập đến, tiêu biểu như những câu nói sau đây: “Nhân
nào quả nấy”Hay: “Gieo gió gặt bão” hoặc “ác lai ác báo” “quả báo nhãn
tiền” v.v…Ðây là những câu tục ngữ có tác dụng, nhằm khuyên răn người
đời, nên luôn nhớ đến luật nhân quả báo ứng một mảy may không hề sai
chạy. Biết thế, chúng ta phải cố gắng ăn ngay, ở hiền, làm lành, lánh
dữ. Có thế, thì đời sống từ bản thân, gia đình, xã hội mới được an vui
hạnh phúc.
3. Sinh sự, sự sinh.
Câu tục ngữ nầy nhằm chỉ
cho người hay có tật phê bình chỉ trích vạch lỗi nói xấu người khác. Ðây
là hạng người chuyên môn bới lông tìm vết hay vạch lá tìm sâu. Nhưng họ
lại quên rằng: “chưn mình còn lắm lê mê, mà đi xách đuốc lại rê chưn
người”. Từ chỗ hay bươi móc nói xấu người, nên họ thường hay gặp phải
những chuyện xích mích gây gổ, đôi chối, lắm chuyện thị phi phiền hà rắc
rối đủ thứ. Do đó, nên mới có câu nói thật đáng kiếp ai bảo: “Sinh sự,
sự sinh”. Hai chữ “sinh sự” đã nói lên con người thiếu tự trọng, nhân
cách, hay gây ra sự bất an phiền toái cho mình và người. Sinh sự là muốn
hại người, đó là “Nhân” mà sự sinh phải chuốc khổ lụy vào mình, đó là
“Quả”. Ta nên nhớ nhân quả như vang theo tiếng, như bóng theo hình. Nếu
chúng ta khéo biết “sinh sự” tốt, làm lợi ích cho tha nhân, thì chúng ta
sẽ nhận được cái “sự sinh” tốt đẹp cho mình vậy.
4. Có tật giật mình.
Một
người hay làm những điều phi pháp bất nhân, thấy ai họ cũng đâm ra nghi
ngờ sợ hãi. Trong lòng của họ không lúc nào an ổn. Từ đó, nó hiện ra
cái tướng bên ngoài không được tự nhiên. Bởi thế nên người xưa nói: “tâm
ư trung xuất hành ư ngoại”. Nghĩa là trong lòng của con người hiền hoặc
dữ, gian dối hay thành thật như thế nào, thì nó đều hiện ra cái tướng
cũng y như thế đó. Trường hợp như những kẻ buôn lậu những thứ hàng hóa
quốc cấm chẳng hạn, trong tâm cảnh đó, thì thử hỏi trong lòng và tướng
trạng của họ ra sao? Dù cho họ có cố gìn giữ bình tĩnh đến đâu, cũng
không thể nào che mắt được những con “mắt thần” của luật pháp. Ðã mang
cái “Tật” hành vi phi pháp, thì nó cũng hiển lộ ra cái tướng thất đức
bất bình thường. Nhất là nhìn trên gương mặt của họ thì người ta đủ biết
nghi ngờ. Mà trên gương mặt chỗ dễ phát hiện ra nhất là ở nơi đôi mắt.
Kẻ gian dối bao giờ đôi mắt của họ cũng láo liên, hay ngó trước nhìn
sau, tỏ vẻ không yên sợ hãi. Do nhìn đôi mắt, người ta cũng đoán biết
được phần nào của kẻ ngay gian. Vì đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Chính
vì thế, mà họ khó qua mắt nổi của những người có nhiệm vụ giữ gìn an
ninh trật tự bảo vệ luật pháp.
Cho nên, chúng ta thường nghe hoặc
thấy báo chí hay loan tin những kẻ buôn lậu nha phiến bị bắt nơi này,
nơi kia, nhất là thường xảy ra ở các phi trường quốc tế. Sở dĩ công an
cảnh soát bắt được những kẻ buôn lậu, cũng tại vì họ có cái tật gian dối
muốn qua mặt luật pháp, nên nó mới hiện ra cái bệnh giật mình. Thấy
công an cảnh sát, thì họ hồn phi phách tán. Nhất là đối với những kẻ
chưa phải là chuyên nghiệp. Nhưng vì một hoàn cảnh nào đó, bắt buộc họ
phải làm như thế. Ðối với những người này, thì sự giật mình của họ rất
lớn. Nên họ khó qua khỏi luật pháp trừng trị. Bởi thế, kết quả là họ sẽ
bị tù tội hoặc bị tử hình, tùy theo tội nặng nhẹ.
Câu tục ngữ
trên, ngầm ý cổ nhân khuyên chúng ta không nên làm những điều ác đức phi
pháp. Vì bản chất của con người là ham sống sợ chết. Dù là kẻ hung ác
đến đâu, khi đối diện với luật pháp, thì lòng họ cũng phải rúng động
rung sợ. Vì sao? Vì họ vẫn còn muốn sống. Biết thế, thì chúng ta đừng
nên gây ra tội ác để cho mình khỏi phải có cái “Tật” để rồi thấy ai
cũng không phải “Giật” mình. Nếu mình không gây ra cái “Tật” đó, nghĩa
là, phải ăn ở cho có đạo đức tình người, thì quả mình là kẻ rất tự do
không sợ ai cả. Ðược thế, thì dù mình có đi đâu hay ở đâu, đối với bất
cứ ai mình cũng là kẻ sống hiên ngang mà không bao giờ biết hổ thẹn với
đất trời.
5. Ai làm người nấy chịu.
Câu tục ngữ nầy đã nói
lên định luật nhân quả rất công bằng. “Ai làm người nấy chịu”. Chữ ai
và người nấy, cũng chỉ là một người. Như nói ai ăn nấy no, ai học nấy
biết chữ. Không thể người nầy ăn mà người khác lại no. Nhân và quả đáp
lại đúng theo cái nhân mà mình đã gây tạo. Một kẻ giết người, tất phải
đền tội trước pháp luật. Không thể anh A giết người mà anh B chịu thế.
Như thế, là một điều ngịch lý và tất nhiên không bao giờ có thể xảy ra.
Nếu người nầy làm mà người khác lại chịu thế, thì đó là chuyện tréo cẳng
ngõng ngược kỳ đời và trái với luật nhân quả. Thậm chí, trong tình thân
thuộc như: cha con, chồng vợ v.v… cũng không ai thay thế cho ai. Cha
hành động sai trái, thì cha phải chịu tội. Không thể nào con gánh vác
chịu tội thay thế cho cha. Như cha vào tù, người con dù có thương cha
đến mấy cũng không thể vào tù lãnh án thay thế cho cha được. Chính con
người phải chịu trách nhiệm những gì mà mình đã gây tạo. Như thế, thì
không ai có thể ỷ lại và đổ thừa cho ai. Vì ai làm người nấy chịu kia
mà! Nhờ sợ nhân quả như thế, nên người ta mới không gây ra những điều
xấu ác. Không gây tạo tội lỗi, tất nhiên, mình sẽ được an vui, thoát
khỏi cảnh đau khổ tù tội. Câu tục ngữ trên, ngầm ý nhắc nhở người ta
phải nhớ đến nhân quả và phải ý thức cẩn trọng ở nơi hành động việc làm
của mình.
Ðồng thời, nó cũng nói lên một ý nghĩa tự lực không ỷ
lại nhờ cậy bên ngoài. Mình làm mình chịu, không oán trách hờn giận đổ
trút cho bất cứ ai.
Ðã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
( Nguyễn Du - Truyện Kiều )
Ai
tu nấy thành, ai hành nấy đắc. Ðó là luật tắc xưa nay đều như thế. Tinh
thần trách nhiệm, đó là tinh thần độc lập. Thành bại, đắc thất, nên hư
v.v… tất cả đều do mình quyết định lấy. Mình phải gánh chịu trách nhiệm
những gì mà chính mình đã gây tạo. Thành công không kiêu căng, thất bại
cũng không nản chí. Ðược cũng tốt mà mất cũng không sao. Vì tất cả do
mình quyết định. Chiếc thuyền đời của mình, phải do mình tự lèo lái. Lái
dở hay giỏi đều do ở nơi mình. Ðó là tinh thần tự lực tự cường. Không
đổ trút cho định mệnh hay số phận, cũng không nên trách trời, trách
Phật. Phật trời không có thưởng phạt cho mình, mà chính mình tự thưởng
phạt lấy mình. Mình gây nhân nào phải chịu gặt hái quả nấy. Ðịnh mệnh
không thể an bày cho mình. Người nào tin tưởng theo thuyết định mệnh là
người đó mất hết quyền tự chủ. Và cũng không hiểu rõ luật nhân quả. Cái
gì cũng phó thác cho định mệnh. Thử hỏi định mệnh là gì? Bàn tay nào đã
quyết định cho sinh mệnh của mình? Tại sao không quyết định cho mình
những điều hay ho tốt đẹp, mà lại quyết định chi những điều xấu xa dở
tệ? Thật là bất công phi lý! Tại sao tạo hóa không quyết định cho con
người sống chung hòa bình, có phải hay hơn, còn tạo ra chi cảnh chiến
tranh nồi da xáo thịt, cấu xé tranh giành chiếm đoạt tàn sát lẫn nhau
chi cho thêm khổ?
Thử hỏi ai đã gây ra cảnh chiến tranh đau khổ?
Phân chia giai cấp nghèo giàu, sang hèn cách biệt? Bao thảm cảnh nhà tan
cửa nát, những vấn nạn hút chích xì ke ma túy, buôn lậu á phiện, bị tử
hình hay bị tù tội giam cầm, rồi đến cờ bạc, rượu chè say sưa, hiếp dâm,
cướp của giết người v.v… tất cả đều làm xáo trộn đảo lộn trật tự xã
hội, thử hỏi ai đã an bày gây ra thảm cảnh như thế? Có phải định mệnh
tạo hóa an bày chăng? Hay chính do lòng dục vọng si mê của con người tạo
ra? Bệnh đổ thừa cho ngoại cảnh, đó là chứng bệnh trầm kha của những
con người thiếu trách nhiệm và hèn nhát. Làm việc gì thành công, thì họ
chường mặt ra để lãnh công trạng. Khi bị thất bại, thì họ co đầu rút cổ
và đổ thừa cho hoàn cảnh hay tại, bị, ở nơi người khác. Chớ họ không
chịu trách nhiệm do chính mình đã gây ra. Ðây là chứng bệnh di truyền
lâu đời của nhơn loại. Chứng bệnh trầm trọng nầy lan tràn khắp nơi trong
xã hội loài người xưa nay.
Với tinh thần tự giác của đạo Phật,
không chấp nhận những hạng người hèn yếu như thế. Ðạo Phật chủ trương
phải có tinh thần tự giác trước hành động của mình. Mình đã gây ra làm
đau khổ cho người khác, thì mình hãy mạnh dạn mà nhận lỗi. Nhận lỗi để
tự sửa sai và phải nhận lỗi một cách hết sức thành thật. Chớ không phải
nhận lỗi theo kiểu chánh trị thủ đoạn giả dối bề ngoài để che mắt thiên
hạ. Trong đạo Phật hay dùng từ ngữ sám hối. Sám là ăn năn lỗi trước, dù
vô tình hay cố ý mà mình đã gây ra làm cho đối phương phải chịu đau khổ
vì hành động hay lời nói của mình. Còn Hối là nguyện từ nay trở đi mình
quyết không bao giờ tái phạm nữa. Như vậy, sám hối là nói lên một tinh
thần tự giác có trách nhiệm mạnh mẽ cao độ. Mình làm mình nhận lỗi.
Không có thái độ che giấu tội lỗi, hay tốt thì khoe mà xấu thì che đậy.
Ðó không phải là tinh thần giác ngộ của đạo Phật.
Với câu tục ngữ
trên, chúng ta thấy cổ đức đã dạy cho người ta phải ăn ở cho có đạo
đức, nhân nghĩa, thành tín. Mình phải tự cảnh tỉnh lấy mình, đừng làm
những chuyện sai trái mà phải lãnh lấy hậu quả không tốt. Và hơn thế
nữa, phải có tinh thần trách nhiệm cao trong việc đối nhân xử thế. Hiểu
như vậy, chúng ta hãy tạo cho mình những chánh nhân tốt để mình sẽ hưởng
lấy những quả báo tốt. Ðó là điều mà chúng ta cần phải quan tâm lưu ý.
6. Ăn lắm hay no, lo lắm hay phiền.
Câu
tục ngữ nầy, bắt ta phải chú ý đến hai chữ: “ăn và lo”. Ăn là nhân mà
no là quả. Lo là nhân mà phiền là quả. Nhân và quả đi liền với nhau,
khác nào như bóng theo hình. Trước hết chúng ta thử tìm hiểu bốn chữ ở
vế đầu: “ăn lắm hay no”. Câu nầy, nếu đem ứng dụng vào y học và đời sống
để phân tích chiêm nghiệm, thì cũng rất có lợi ích cho sức khỏe của
chúng ta. Ăn là điều mà ai cũng thích. Nhưng không nên ăn quá đầy bụng.
Thông
thường động từ ăn nó đi liền với động từ uống. Ăn uống là một danh động
từ không rời ra. Nhưng ăn để mà sống, thì nó khác hơn sống để mà ăn. Ăn
để mà sống tự nó nói lên có sự hạn chế, điều độ và đơn giản. Có gì ăn
nấy, không đòi hỏi cầu kỳ, theo kiểu phải có món ngon vật lạ hay cao
lương mỹ vị. Ăn để sống cho qua ngày. Ðó là cách ăn của một con người
khéo biết điều hòa sự sống có lý tưởng. Vì họ ý thức rằng, cuộc đời là
tạm bợ, vô thường không có gì bền chắc. Thế thì, ai rồi cũng phải có
ngày từ giả cõi đời giả tạm mà ra đi. Không ai lột da sống hoài để ăn
uống. Quan niệm của họ, nhu cầu ăn uống chỉ là một nhu cầu phải có để
tạm giải quyết cuộc sống. Sống càng đơn giản chừng nào, thì lại càng có
nhiều hạnh phúc chừng nấy. Càng tham thực thì càng khổ thân. Người muốn
ăn uống thưởng thức mọi thứ món ngon vật lạ trên đời, thì họ cũng phải
làm lụng vất vả cực khổ đày đọa xác thân mới có đủ tiền bạc để tiêu thụ
hưởng dụng như thế. Ngược lại, cũng có những người làm lụng vất vả cực
khổ trối chết, họ cũng có nhiều tiền lắm bạc, nhưng mà họ không dám ăn
xài. Dù rằng, họ cũng rất thèm khát ăn uống cho khoái cái lỗ miệng,
nhưng vì bị con “rít” to lớn, nó nằm chấn ngang cái túi tiền, nên họ
đành phải cam chịu nuốt nước miềng cầm hơi để sống. Người ta cho họ là
hạng người quá ư là keo kiết, rít rắm kẹo kéo không ra. Sống mà quá nô
lệ cho đồng tiền như thế, thì phải nói cuộc sống đã mất hết ý nghĩa!
Ðối
với hạng người nói trên, ăn để mà sống, thì đời họ ít đau khổ hơn. Vì
họ là người khéo biết tri túc an phận thủ thường sống theo kiểu: “khéo
ăn thì no, khéo co thì ấm”. Họ không muốn xoe xua, bon chen chạy đua để
được vinh thân phì da. Họ là hạng người sống có lý tưởng đạo đức thực
tiển. Mặc cho ai khen chê, họ cũng không cần phải quan tâm để ý đến chi
cho mệt sức. Ngược lại, đối với những người mà họ thích đam mê thụ hưởng
ăn uống, thì quan niệm sống của họ có khác. Họ cũng thừa biết cõi đời
là giả tạm, nhưng theo họ, thì tại sao chúng ta không thụ hưởng cho hết
mọi thứ mùi vị trên đời? Ăn ngon, mặc đẹp, nhà cao cửa rộng sang trọng,
thử hỏi trên đời nầy có mấy ai mà lại không ham thích? Vậy thì tội gì mà
chúng ta không thụ hưởng cho nó sướng cái cuộc đời. Mai kia có nhắm mắt
theo ông theo bà, thì chúng ta cũng không có gí phải ân hận. Ðó là quan
niệm của những con người cũng sống thực tế, nhưng mà thực tế theo chiều
hưởng thụ trụy lạc thọ khổ.
Bởi vì chúng ta nên biết rằng, ở đời
không có sự hưởng thụ nào mà không có ngầm cái đau khổ ở trong đó. Như
mới vào bàn tiệc ăn uống, thì thấy cũng ngon lành đó, nhưng chưa tàn
tiệc nhậu, thì đã xảy ra lắm chuyện phiền phức không hay rồi. Bên ngoài
nhìn vào, thì thấy bao bọc toàn là những thứ rất ngọt ngào, nhưng bên
trong thì lại ngầm chứa những chất độc cay đắng. Thực tế cho thấy, những
người thích ăn ngon ngủ kỹ chừng nào, thì lại giảm thọ nhiều chừng nấy.
Vì ăn ngủ nhiều rất có tai hại cho sức khỏe. Không phải ăn thật no là
khỏe mạnh. Hay ăn nhiều chất bổ dưỡng mà được sống lâu. Càng ăn nhiều
có chất bổ dưỡng chừng nào, thì người ta càng phát phì và rồi hay sanh
ra nhiều chứng bệnh khó trị chừng nấy. Mà càng phát phì thì phải lên
cân, càng lên cân thì lại càng sanh ra đủ thứ bệnh tật. Nhất là những
người có bề thế mập mạp thì dễ mắc phải những chứng bệnh như: máu cao,
tiểu đường, mở cao trong máu, tim mạch v.v… Cho nên, ngày nay, các bác
sĩ thường khuyên chúng ta nên ăn ít lại chi vừa đủ no thôi. Trong quyển
sách “Bác Sĩ Tốt Nhất Là Chính Mình”, bác sĩ Hồng Chiêu Quang, có
khuyên chúng ta mỗi bữa ăn chỉ nên no bảy tám phần, đó là cách đơn giản
giúp cho người ta sống lâu. Không nên cố ráng ăn một lần cho đầy bụng.
Ăn như thế là tự sát. Khổ nổi, đang ăn ngon miệng mà bảo người ta buông
đủa dừng lại, không nên ăn no bụng, thì cũng không phải là chuyện dễ
dàng, đối với những người khoái thích ăn uống.
Xin thưa, vấn đề
ăn uống phải biết điều độ và dinh dưỡng như thế nào cho hợp lý, để người
ta có thêm sức khỏe và sống lâu, thì đây thuộc về lãnh vực chuyên môn
của ngành y học, hay theo phương pháp dưỡng sinh của các chuyên gia rành
nghề có nhiều kinh nghiệm. Ở đây, không phải trong phạm vi kiến thức
của người viết, nên chúng tôi không dám lạm bàn nhiều. E rằng, sẽ mang
cái lỗi là dám múa rìu qua mắt thợ.
Trở lại câu tục ngữ trên,
theo sự nhận xét thô thiển của chúng tôi, thì chữ Ăn mà người xưa nói ở
đây, ta cũng có thể hiểu rộng ra. Như nói, ăn chơi, ăn giựt, ăn cướp, ăn
trộm, ăn quỵch, ăn nằm, ăn cắp, ăn tạp, ăn hại vân vân và vân vân,
những thứ ăn nầy đều là cái nhân của đau khổ cả. Còn nói No, ta cũng có
thể hiểu nghĩa bóng của nó là đau khổ. Hiểu như vậy, ta mới thấy rằng,
câu tục ngữ nầy cổ nhân khuyên ta nên tránh cái nhân xấu xa thì không có
cái quả báo đau khổ. Và cần phải khéo léo biết điều hòa sự sống, đừng
thái quá mà cũng đừng bất cập. Làm việc gì cũng phải có chừng mực. Người
khéo biết điều hòa sự sống, đó là người sẽ có nhiều hạnh phúc.
Ðó
chính là cái dụng ý mà cổ nhân muốn dạy cho chúng ta. Chúng ta phải
hằng nhớ đến nhân và quả. Vì nhân quả luôn luôn bám sát theo nhau. Hễ
ăn nhiều thì phải no, mà cái no nầy rất là khó chịu. Quả đúng như người
ta thường nói: “ăn ít no dai, ăn nhiều tức bụng”. Tức bụng là cả một vấn
đề khó thở, mệt mỏi buồn ngủ khó chịu. Vì thế, khi ăn, chúng ta nhớ
phải ăn uống vừa chừng thôi. Cũng vậy, phàm khi chúng ta làm điều lành,
điều phải, thì ta cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc, thật thoải mái dễ chịu cho
thân tâm. Ngược lại, khi chúng ta làm những điều bất chánh, phi pháp,
tội lỗi, thì bản thân của chúng ta cảm thấy rất là đau khổ khó chịu vô
cùng. Người mà có cái tà tâm chuyên làm những điều vô nghĩa, bậy bạ phi
pháp, thì lòng họ không lúc nào an ổn. Nhìn bề ngoài tưởng là họ dễ chịu
lắm, nhưng kỳ thật trong lòng của họ là cả một địa ngục. Lương tâm của
họ luôn bị cắn rứt đay nghiến, vày xéo mãnh liệt. Họ lo sợ đủ thứ
chuyện, ngồi đứng không yên, ăn ngủ cũng không yên giấc, tâm hồn của họ
giống như bãi tha ma. Ðời họ không lúc nào an ổn. Nhìn ai, họ cũng cảm
thấy mặc cảm hổ thẹn. Họ là con người đang rơi vào hố sâu tội lỗi. Họ tự
cảm thấy họ là con người rất thấp hèn của xã hội. Ðời họ không còn lối
thoát. Họ như người hết thuốc chữa. Ðó là một tâm bệnh thật đáng sợ!
Câu
kế tiếp: “lo lắm hay phiền”. Chữ lo ở đây, nó có nhiều nghĩa. Nhưng dù
nghĩa nào cũng nói lên cái tâm trạng bất an, phiền muộn. Thường người
hay lo nhiều thì người đó chắc chắn khổ nhiều. Cái khổ trước mắt là mất
ăn mất ngủ. Phàm hễ lo nghĩ, thì hay sanh ra sợ hãi và buồn rầu. Chữ
“lắm” có nghĩa là nhiều. Chữ “phiền”, theo kết cấu của chữ Hán, thì nó
gồm có 2 bộ: hiệt là đầu và hỏa là lửa. Cho nên, khi người ta lo nhiều,
thì trong lòng cảm thấy bức rứt bất an, lửa nó vọng lên đầu, thành ra
con người nóng nảy bực bội khó chịu vô cùng. Chính đó là nguyên nhân đưa
đến tình trạng mất ngủ. Do đó, những người hay lo nhiều, thì dễ gây ra
thần kinh căng thẳng và nếu không khéo sẽ dễ bị mắc bệnh tâm thần. Bởi
do tình trạng mất ngủ nhiều mà ra. Ðó là một họa hại của những người có
bệnh hay lo tính suy nghĩ lung tung nhiều quá.
Từ lo đâm ra sợ, từ sợ đâm ra hốt hoảng tinh thần. Ðó là một tai hại rất lớn.
Phàm
là con người còn sống trong vòng tương đối, tất nhiên không ai mà không
lo, vì đó là một căn bệnh tập khí sâu nặng của con người phàm tục. Vì
sự sống mà con người phải lo lắng đủ mọi thứ trên đời. Ngoài những vấn
đề lo chánh đáng cho sự sống như: lo ăn, lo mặc, lo ở, còn lại phải lo
bao nhiêu thứ chuyện linh tinh khác. Thâm ý của câu tục ngữ trên, cổ
nhân muốn khuyên chúng ta không nên lo lắng nhiều quá.
Xét ở đời,
có những điều đáng lo, thì người ta lại không lo. Ngược lại, có những
điều không đáng lo thì người ta lại hay lo. Thế nào là điều đáng lo?
Ðiều đáng lo nói ở đây, không phải chỉ lo ăn, lo mặc… không thôi là đủ,
mà chúng ta còn phải lo cho ngày mình nhăm mắt ra đi. Sống thì mù tịt,
không biết mình là ai. Ðến khi chết mình cũng không biết mình sẽ đi về
đâu. Nếu như hiện đời, mình khéo biết lo làm lành, tu tạo phước đức, ăn
chay niệm Phật, thì Phật nói đó là người khéo biết lo cho đời mình. Vì ở
đời, rốt lại, không có ai thương mình bằng chính mình tự thương lấy
mình. Mình gây nhân khổ, không ai có thể thay thế tội khổ cho mình.
Có
người, vì thương con thương cháu mà tự mình sát sanh hại vật, để cho
con cháu thụ hưởng ngon miệng, nhưng cái quả báo đó ai sẽ là người gánh
chịu cho mình? Thử hỏi chúng nó có thay thế cho mình được không? Vậy
thì, tốt hơn hết là mình hãy nghe theo lời Phật dạy, mà tự mình lo cho
đời mình có một hướng đi an lạc giải thoát. Ðó là tự biết thương lấy
mình. Thử hỏi khi mình xuôi tay nhắm mắt ra đi, có ai đi theo mình
không? Hay là khổ hay vui do mình chuốc lấy. Mình xuống địa ngục chịu
khổ, có đứa con thằng cháu nào, nó đến thay thế cái khổ cho mình không?
Hay là ai làm người nấy chịu. Ai ăn người nấy no, ai lo người ấy phiền.
Hiểu
thế, thì mỗi ngươì hãy tự lo trước cho mình. Bằng cách là nên tạo nhiều
điều lành. Cố gắng ăn chay niệm Phật giữ giới tu hành. Ðó là tự mình
khéo biết đầu tư hạnh phúc phước báo cho mình trong hiện đời cũng như
mai hậu.
Còn nói cái không đáng lo, là những chuyện như già,
bệnh, chết. Và nhất là những chuyện thị phi, tức những chuyện bù khú tạp
nhạp ở thế gian. Bởi già, bệnh, chết, nó là một chân lý hiện thực bất
di bất dịch. Dù mình có để tâm lo sợ, thì trước sau gì nó cũng đến. Có
bệnh thì cứ đi bác sĩ điều trị. Ở xứ nầy vấn đề bệnh hoạn không có gì
phải bận tâm ưu tư lo lắng nhiều. Bởi có nhiều dụng cụ máy móc tinh xảo
tối tân để chữa trị. Nếu như điều trị mà không hết bệnh, thì đó là
nghiệp quả của mình đã tới. Dẫu mình có lo lắng đến đâu cũng không thể
tránh khỏi. Cái không thể tránh khỏi, thì lo chi cho thêm hao hơi mệt
sức. Có nhiều khi, bệnh ít mà chúng ta lo lắng nhiều quá cũng trở thành
bệnh nhiều. Không bệnh, mà lo lắng ưu tư nhiều quá thì cũng sẽ thành
bệnh. Chi bằng cứ lo niệm Phật, vui vẻ mà sống, rồi chuyện gì đến nó sẽ
đến. Nhờ có tinh thần ổn định vững chắc như thế, mà bệnh tình cũng trở
nên thuyên giảm và khỏe ra. Cho nên điều dưỡng cái tinh thần rất là quan
trọng. Vì tinh thần là cái gốc chủ động điều khiển thân thể. Giống như
anh tài xế điều khiển lái chiếc xe. Chiếc xe chỉ là những bộ phận máy
móc để chạy. Nhưng chiếc xe chạy hay không là do anh tài xế. Như vậy,
chúng ta cần phải chú ý lo cho anh tài xế nhiều hơn. Lo bằng cách điều
dưỡng cho anh ta khỏe mạnh. Cũng vậy, ta phải lo di dưỡng cái tinh thần,
tức cái tâm thức của chúng ta. Nhờ niệm Phật, tụng kinh, trì chú, tham
thiền v.v… mà tâm ta được an định vững vàng. Bấy giờ, ta quyết không lo
nghĩ gì đến bệnh hoạn.
Ðến như tuổi già cũng vậy, ở đây có nhà
dưỡng lão. Nếu như người già độc thân, không có ai chăm sóc, thì vào nhà
dưỡng lão sinh sống. Trong nhà dưỡng lão có các cô y tá, y công, họ đến
chăm sóc người già bệnh một cách rất tử tế đàng hoàng. Thật tình công
tâm mà nói, chưa chắc con cháu của mình mà chúng nó quan tâm chăm sóc
chu đáo bằng họ. Vì họ là những người phục vụ bằng tất cả lương tâm nghề
nghiệp. Cho nên, các cụ già không có gì phải lo sợ.
Rồi đến cái
chết, người ta lo sợ nhứt là cái chết. Người trọng tuổi thì hay lo xa
chuẩn bị cho mình cái chết. Tùy theo hoàn cảnh sống của mỗi người mà có
những nỗi lo lắng khác nhau. Nhưng có điều, ta thấy các cụ của mình ngày
xưa thường hay chuẩn bị sẵn cho mình cái ngày ra đi. Chuẩn bị có hai
phần: vật chất và tinh thần. Phần vật chất, thì các cụ lo nào là cái
quan tài hay còn gọi là cái cổ hậu, cổ thọ. Những nhà khá giả thì lo xây
sinh phần, miền Nam gọi là kim tỉnh. Rồi đến áo quan và các đồ tẩn
liệm.
Về phần tinh thần, thì tùy mỗi người theo mỗi tôn giáo mà
có sự chuẩn bị tinh thần cho mình khác nhau. Ðiều nầy, cũng còn tùy theo
nhân sinh quan, và duyên nghiệp của mỗi người nặng nhẹ mà có đời sống
tâm linh khác nhau. Ðối với những người tu theo đạo Phật, thì tùy theo
trình độ tu học nhận thức sâu cạn của mỗi người mà có sự chuẩn bị khác
nhau. Nói chung, nếu người Phật tử nào khi còn mạnh khỏe biết chút ít tu
hành như: ăn chay, niệm Phật, bố thí cúng dường, tụng kinh bái sám, tin
kính Tam bảo, hết lòng niệm Phật, thì đối với những người nầy, họ đã có
sự chuẩn bị sắp xếp cho mình ngày ra đi cũng rất chu đáo. Họ đã chọn
cho họ có một hướng đi vững chắc bảo đảm. Do đó, nên họ không còn gì
phải lo âu sợ hãi về cái chết cho lắm. Còn đối với các bậc tu hành đạo
cao thâm hậu, thì cái chết đối với họ thật là không có nghĩa lý gì. Vì
sinh tử chỉ là hư huyễn, như hoa đốm giữa hư không, không có gì phải lo
âu sợ hãi. Các ngài xem cái chết như trò đùa, ảo hóa. Ðó là những bậc
chân tu đã đạt ngộ chân lý.
Còn đối với những chuyện thị phi, nếu
người biết tu hành, thì họ cũng không bao giờ quan tâm để ý tới. Ai nói
phải trái gì họ cũng bỏ qua ngoài tai cho xong, không cần phải bận tâm
nghĩ đến.Vì nghĩ đến chỉ chuốc thêm phiền muộn mà thôi. Học cách hành xử
của bà Bá Bất Quản, trăm việc chẳng lo. Ai nói chuyện thị phi với bà,
thì bà liền nói: “tùy tha khứ”, nghĩa là theo nó đi, không có chuyện gì
bà để vào trong tâm. Bà để tâm chuyên chú vào câu hiệu Phật. Sáu chữ Di
Ðà, bà cố gắng gìn giữ niệm luôn. Cứ thế mà hành trì. Chỉ một năm sau,
bà có kết quả. Trước khi theo Phật, bà đi từ giả mọi người, vì bà biết
trước giờ phút ra đi. Kết quả, bà đã được vãng sanh về Cực lạc.
Chính
đó mới là điều đáng để cho chúng ta quan tâm lo nghĩ. Lo chí thành niệm
Phật để ngày giờ ra đi của chúng ta được an ổn và vãng sanh về cõi
Phật. Còn ngoài ra, bất cứ chuyện gì khác, chúng ta nên nhứt quyết gạt
bỏ hết ngoài tai. Ðược thế, lo gì mà không được vãng sanh. Vãng sanh là
chấm dứt khổ đau, chấm dứt nạn khổ: sanh già bệnh chết. Vĩnh viễn thoát
ly sanh tử. Ôi! được thế, thì còn gi vui sướng hơn!
Kính mong mọi
người bỏ qua những điều không đáng lo, để cho tâm ta an ổn khỏi phải
chuốc thêm phiền lụy. Chúng ta nên nhớ: người nào lo nhiều dễ bị căng
thẳng thần kinh. Từ đó, dễ sanh ra nhiều chứng bệnh khó trị, vì đa sầu
là tự sát. Ðược thế, thì đời sống của chúng ta mới thực sự có ý nghĩa
vậy.
Thích Phước Thái
Quangminh.org.au