Tuy
nhiên thực tế tôi thấy nhiều người lạy Phật với những cách thức khác
nhau: Có người ngửa hai lòng bàn tay, trán cúi đặt vào lòng bàn tay. Có
người thì úp hai bàn tay xuống đất, trán cúi đặt vào lưng bàn tay. Có
người thì trán cúi chạm xuống đất, còn hai bàn tay ngửa đưa ra phía
trước trán. Có người khi cúi đầu lạy xuống, giữ lại một lúc. Có người
cúi lạy xuống thì ngẩng đầu lên ngay. Tôi không biết cách lạy nào đúng? Ý
nghĩa của cách thức lạy ấy thế nào? Kính mong quý Báo hướng dẫn. (CHÁNH TÂM,
tanlochappy@yahoo.com.vn )
ĐÁP: Bạn Chánh Tâm thân mến! Đúng
như bạn nói, lạy Phật theo cách “ngũ thể đầu địa” là thể hiện lòng tôn
kính nhất. Ngũ thể đầu địa có nghĩa là năm vóc (đầu, hai tay và hai
chân) gieo sát đất. Theo Phật Quang đại từ điển, tập 3, dẫn sách Đại
Đường Tây Vực ký (quyển 2), nói về cách lạy Phật “năm vóc gieo xuống
đất” gồm: Trước hết, quỳ gối bên phải (gồm toàn bộ gối, cẳng chân và mu
bàn chân) sát đất, kế đến là gối bên trái, rồi đến hai khuỷu tay sát
đất, hai bàn tay ngửa ra duỗi thẳng quá trán, sau cùng là đỉnh đầu đặt
sát đất, giữ yên một lúc, như thế gọi là một lạy. Điều cần lưu ý là
động tác “hai khuỷu tay sát đất, hai bàn tay ngửa ra duỗi thẳng quá
trán”. Động tác này biểu thị cho việc hai tay người lạy nâng bàn chân
của Thế Tôn cung kính đảnh lễ (ảnh). Cho nên, cách lạy này còn gọi là
“đầu diện tiếp túc quy mạng lễ” (đầu mặt chạm chân Thế Tôn cung kính lễ
lạy). Như vậy, cách lạy mà bạn mô tả “trán cúi chạm xuống đất, còn hai
bàn tay ngửa đưa ra phía trước trán” là đúng với cách lạy “ngũ thể đầu
địa”. Một điều nữa cần lưu tâm là “đầu đặt sát đất, giữ yên một lúc”.
Việc cúi lạy rồi “giữ yên một lúc” là rất cần thiết vì không chỉ thân
mà cả tâm đều cung kính lễ. Do đó, cần một khoảng thời gian để dốc hết
tâm tư cung kính lễ lạy Phật. Lạy Phật nên chậm rãi, thong thả mới trang
nghiêm và thành kính. Nên, những ai “cúi đầu lạy xuống, giữ lại một
lúc” là đúng với quy cách lạy “ngũ thể đầu địa”. Theo Hoa nghiêm kinh
tùy sớ diễn nghĩa sao, khi kính lễ Tam bảo năm vóc gieo sát đất có ý
nghĩa nhiếp phục sự kiêu mạn và tỏ lòng thành kính: 1. Khi gối bên phải
sát đất nguyện cho chúng sanh được đạo chánh giác. 2. Khi gối bên trái
sát đất, nguyện cho chúng sanh không khởi tà kiến ngoại đạo, tất cả đều
an trụ trong đạo chánh giác. 3. Khi tay phải sát đất, nguyện như Thế Tôn
ngồi tòa kim cương, đại địa rúng động, hiện bày tướng lành, chứng nhập
đại Bồ-đề. 4. Khi tay trái sát đất, nguyện cho chúng sanh xa lìa ngoại
đạo, khiến họ vào chánh đạo. 5. Khi đỉnh đầu sát đất, nguyện cho chúng
sanh lìa tâm kiêu mạn, đều được thành tựu vô kiến đỉnh tướng.
Thờ Bồ-tát, niệm Phật được không? HỎI: Tôi
là Phật tử tu theo pháp môn Tịnh độ, thường niệm Phật A Di Đà. Nay có
nhà riêng, chồng tôi chỉ muốn thờ duy nhất Bồ-tát Quán Thế Âm. Xin hỏi
thờ Bồ-tát Quán Thế Âm nhưng vẫn niệm Phật A Di Đà được không? (DIỄM QUỲNH,
lilydiemquynh2209@gmail.com )
ĐÁP: Bạn Diễm Quỳnh thân mến! Khi
bạn thờ phụng, lễ bái một vị Phật hay Bồ-tát thì đồng nghĩa với việc
phụng thờ và quy hướng hết thảy chư Phật, Bồ-tát trong mười phương, ba
đời. Do đó, nhà bạn thờ Bồ-tát Quán Thế Âm cũng có nghĩa là kính thờ hết
thảy chư Phật. Mặt khác, Bồ-tát Quán Thế Âm là một trong ba vị Tây
phương tam thánh, vị Đại Bồ-tát trợ thủ đắc lực cho Phật A Di Đà tiếp
dẫn chúng sanh về Cực lạc. Nên mỗi lần kính lễ Bồ-tát bạn hãy quán tưởng
đến Tây phương tam thánh (Phật A Di Đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại
Thế Chí) và cầu nguyện các Ngài chứng minh gia hộ. Do đó, nhà bạn thờ Bồ-tát Quán Thế Âm và bạn vẫn tu tập pháp môn Niệm Phật bình thường. Chúc các bạn tinh tấn!
*TỔ TƯ VẤN (
tuvangiacngo@yahoo.com ) |