Trong giáo lý của đạo Phật,
 có một pháp môn tu tập khá quen thuộc, có thể làm giúp lắng sạch nội 
tâm và điều trị được các chứng bệnh khác nhau của tâm thức như căng 
thẳng bất an hoặc phiền muộn khổ não, khiến cho tâm trở nên trong sáng, 
hân hoan, thanh thản, an lạc. Đó là pháp môn niệm Phật hay phương pháp 
nghĩ nhớ về Phật: “Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Phật: “Đây là 
Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
  Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự 
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Do vị ấy niệm Phật, tâm được 
tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận”.
  
  Niệm (sati/anussati/anussarana) tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, 
chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức 
và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm, theo đó tâm 
được an trú, định tĩng và sáng suốt. Đây là phép luyện tâm trong đạo 
Phật, có khả năng chuyển đổi tâm thức từ tán loạn sang định tĩnh, từ cấu
 uế sang thanh tịnh, từ xáu ác sang hiền thiện, hoặc có khả năng chuyển 
hóa cái nhìn từ u ám đến sáng suốt, từ mê lầm sang giác ngộ.
   
 
  Thông thường, niệm hay chú tâm trên đối tượng có hai tác dụng. Thứ 
nhất, giữ cho tâm định tĩnh, an trú, chuyên nhất trên đối tượng, không 
để tâm dao động tán loạn, nhảy từ đối tượng này sang đối tượng khác. 
Thuật ngữ đạo Phật gọi trạng thái như vậy là tịnh chỉ (samatha), có khả 
năng đem lại cho người thực hành các kinh nghiệm hỷ lạc sâu lắng và nội 
tâm an tịnh. Thứ hai, khiến cho tâm trở nên tỉnh giác sáng suốt, nhận 
biết rõ ràng và sâu sắc bản chất của đối tượng. Phật học gọi trạng thái 
như
  vậy là tuệ quán (vipassanà), có khả năng giúp cho hành giả thành tựu 
tuệ giác, hướng đến mục tiêu giải thoát khổ đau.
  Từ định nghĩa trên về phép quán niệm, đạo Phật đề xuất nhiều đối tượng
 quán niệm khác nhau, cốt yếu giúp cho người thực hành tìm thấy phương 
pháp thích hợp để luyện tập tâm trí trở nên định tĩnh, trong sáng và 
thanh tịnh. Niệm Phật hay chú tâm trên các đức tính của Phật là một 
trong số các phương pháp quán niệm mang ý nghĩa luyện tâm như vậy.
  
  Thông thường, chúng ta sống hàng ngày với cái tâm đổ đầy ký ức và dự 
tính, không còn chỗ trống cho một niệm nghỉ ngơi. Chúng ta hết truy tìm 
quá khứ lại mơ tưởng tương lai và do vậy chúng ta luôn cảm thấy căng 
thẳng bất an hoặc lo âu phiền muộn, không có được một giây phút thật sự 
an lạc. Chúng ta không được an lạc vì tâm chúng ta không đứng yên một 
chỗ. Nó hết bị ám ảnh bởi ký ức quá khứ lại bị thôi thúc bởi ý tưởng 
tương lai và do vậy nó không an trú trong hiện tại. Nó đang bị dục vọng 
lôi
  cuốn, làm cho quay cuồng, căng thẳng và mệt mỏi ở trong thế giới của 
những cảm xúc bấn loạn hoặc vui buồn hoặc yêu ghét.
  Nói cách khác, tâm của chúng ta đang bị uế nhiễm bởi các tạp niệm, tức
 các ký ức hay vọng tưởng không ngừng xâm chiếm khiến cho tâm trở nên 
dao động quay cuồng, rơi vào vòng xoáy của tư duy nhị nguyên phân biệt, 
tạo nên các phản ứng tâm lý hoặc vui buồn hoặc yêu ghét. Vui hay buồn, 
yêu hay ghét là các trạg thái dao động ô nhiễm của tâm thức, phát sinh 
cơ bản do tạp niệm hay bởi tâm phân biệt vọng tưởng.
  Niệm Phật hay nghĩ nhớ về Phật, do đó, là phương cách đưa tâm về với 
hiện tại, khiến cho tâm an trú trên các đức tính cao quý của Phật hay 
khiến cho toàn bộ tâm thức được đổ đầy và thấm nhuần Phật chất, không có
 chỗ trống cho các tạp niệm hay vọng tưởng xen vào làm cho tâm trở nên 
quay cuồng hay ô nhiễm.
  
  Như vậy, niệm Phật có công năng làm lắng sạch tâm cấu uế nhờ chuyên 
tâm nghĩ nhớ về Phật hay nhờ an trú trên các đức tính thánh thiện của 
Phật. Nói khác đi, do tâm không rời Phật mà các vọng tưởng hay tạp niệm 
không có cơ hội xâm nhập làm cho tâm ô uế. Đây là phương pháp giữ cho 
tâm định tĩnh, trong sáng, thanh tịnh, không để cho các tạp niệm hay 
vọng tưởng sinh khởi, xâm nhập làm ô uế tâm thức.
  Theo cách như vậy, hành giả tu học Phật pháp cũng có thể chọn một đối 
tượng hiền thiện khác để quán niệm chẳng hạn, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
 Giới, niệm Thí, niệm chư Thiên… Nhờ chuyên tâm, chú tâm trên các đối 
tượng hiền thiện như vậy mà tâm được an trú, định tĩnh, trong sáng, 
không còn bị ô nhiễm bởi các tạp niệm hay niệm bất thiện.
  Nói cách khác, nhờ chuyên tâm nghĩ nhớ hay suy nghĩ về điều lành thiện
 mà các niệm ác hay các ý tưởng điên đảo được đẩy lùi; hành giả cảm thấy
 lòng mình được tịnh tín, hân hoan, không còn lo âu phiền não. Kinh văn 
truyền thống gọi pháp môn tu tập như vậy là “sự gột sạch tâm uế nhiễm 
bằng phương pháp thích nghi”, nghĩa là nỗ lực dùng niệm thiện đánh bật 
niệm bất thiện hay các ý tưởng điên đảo ra khỏi tâm thức, khiến cho tâm 
không còn phiền não nhiễm ô, tựa như người thợ mộc dùng cái nêm nhỏ
  đánh bật ra, đánh văng ra một cái nêm khác vậy. a tự mình và của chư 
Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm 
được đoạn tận”.
  
  Nhìn chung, niệm Phật, niệm Pháp, hay niệm Tăng… là pháp môn tu tâm 
tương đối dễ hành trì đối với mọi người. Nó đơn giản là dùng một đối 
tượng hiền thiện để quán niệm, để nhiếp tâm, an trú tâm, khiến cho tâm 
trở nên chuyên chú, định tĩnh, trong sáng, không tán loạn, không còn bị 
quay cuồng hay uế nhiễm bởi dục vọng, bởi các niệm bất thiện hay bởi tạp
 niệm. Kinh Pháp Cú nói rằng:
  
  Tâm hoảng hốt, dao động,
  Theo các dục quay cuồng;
  Lành thay điều phục tâm,
  Tâm điều, an lạc đến .
  
  Quán niệm là một cách điều tâm, khiến cho tâm được tịnh tín, an trú, 
định tĩnh, trong sáng, không còn hoảng hốt, dao động, mê loạn, quay 
cuồng theo các dục. Do đó, quán niệm được an lạc là vậy.
  L.N