có thể có người nghĩ rằng ; già sừ vào năm 1963 , nếu chế độ
Ngô Đình Diệm không thi hành chính sách kỳ thị tôn giáo , không tìm cách
biến miền Nam Việt Nam thành một xứ Công Giáo toàn tòng , có lẽ người
Việt đã thiếu đi một vị Bồ -tát .
Có thể , vào tháng 5-1963 , nếu Tăng Ni Phật tử Việt Nam không bị
chính quyền Ngô Đình Diệm khủng bố , bắt bớ , giam cầm ,hành hạ , giết
chóc …để bóp chết nguyện vọng của Phật tử Việt Nam được tự do hành đạo ,
và treo cờ Phật giáo trong các dịp lễ , có lẽ Hòa Thượng Thích Quảng
Đức , trú trì chùa Quán Âm ở Phú Nhuận , quận Tân Bình , tỉnh Gia Định
lúc bấy giờ , vẫn tiếp tục hạnh nguyện “ thượng cầu Phật đạo , hạ hóa
chúng sanh ” ; rồi đến đúng thời , Ngài cũng lặng lẽ thị tịch , để lại
sự kính ngưỡng của nhiều người trước sự ra đi an lạc của của một bậc
chân tu . Dù vậy thì công đức của Ngài vẫn là công đức của một vị Bồ
-tát như vô vàn Bồ -tát ẩn mình giữa nhân gian luôn lặng lẽ có mặt trong
lịch sử truyền thừa của Phật giáo suốt 26 thế kỷ qua khiến chánh Pháp
được lưu bố . Sự khác biệt là hành động tự thiêu cùa ngài đã thể hiện sự
hy sinh chói lọi khiến mọi người đều thấy ngài chính là hóa thân Bồ
-tát thị hiện tại Việt Nam để khuyến dụ việc bảo vệ Chánh pháp .
Tưởng niệm ngày Bồ-tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân ( 11-6-1963 ,
nhằm ngày 20 tháng Tư năm Quý Mão ) , có lẽ người Phật tử Việt Nam cần
tìm hiểu xem nên có thái độ thế nào để góp phần thành toàn ý nguyện hy
sinh của Ngài là giữ cho Phật pháp trường tồn .
1 – Nói về giáo pháp giải thoát mà Đức Phật đã chứng ngộ và truyền
lại cho đời , kinh Trung Bộ ghi , “ Này các Tỳ – kheo , Pháp này thiết
thực , hiện tại , không có thời gian , đến để mà thấy (2)…”Phật giáo
cũng chỉ là một pháp trong vũ trụ . Tuy nhiên , Đức Phật nói rõ , pháp
đó là thiết thực , hiện tại , và không có thời gian . Nghĩa là trong mọi
“ thời hiện tại ” , pháp ấy đều thiết thực , hiện tại hãy đến để mà
thấy ; vấn đề pháp ấy có được lưu xuất trong thế gian hay không mà thôi .
Như vậy , có lẽ cần phải hiểu , khi nói đến việc bảo tồn Phật Giáo , Bồ
-tát Thích Quảng Đức muốn nói đến việc bảo vệ sự lưu xuất miên viễn
của Phật pháp trong thế gian .Pháp ấy được lưu xuất nhờ hộ trì của Tăng
bảo là chính ; sự đóng góp của cư sĩ tuy quan trọng nhưng phải dựa vào
Tăng bảo .
2 - Khi Tôn Giả Đại Ca – diếp thắc mắc vì sao trước đây ít giới mà
chúng Tỳ – kheo ham học còn ngày nay giới được chế thêm nhiều thì chúng
Tỳ- kheo lại ít học tập , Đức Phật giải thích vì chúng sanh suy giảm
nên học giới nhiều mà ít người chứng đắc thánh trí .Ngài nói thêm : “
Này Ca-diếp , thí như lúc kiếp sắp chuyển hoại , tuy vật báu thật chưa
diệt mất , nhưng vật báu ngụy tạo tương tợ lại xuất hiện ở thế gian .
Khi vật báu ngụy tạo xuất hiện , vật báu thật sẽ mất . Cũng vậy ,
Ca-diếp , Chánh pháp Như Lai lúc sắp muốn diệt , lại có tượng pháp sanh
ra . Khi tượng pháp đã xuất hiện ở thế gian rồi , Chánh Pháp sẽ bị diệt
”(3) . Qua đó có thể thấy , ngay thời Đức Phật còn tại thế , đã có hiện
tượng các Tỳ – kheo phóng túng . Tuy nhiên , Chánh pháp Như Lai vẫn
lưu xuất trong thế gian vì đã có những đệ tử của Phật biết nghiêm tri
giới luật , thực hiện đúng lời dạy của Ngài . Nhờ luôn có những bậc chân
tu đáng kính biết rõ giá trị giáo pháp của đấng Từ phụ và thực hành
đúng , Chánh pháp Như Lai đã tồn tại trên thế gian ; được truyền bà ở
Châu Á rồi được lưu truyền đến tận ngày nay trên khắp thế giới . Mặc dầu
vậy , Đức Phật đã cảnh giác về sự xuất hiện của tượng pháp , là pháp
tương tự , có vẽ giống với Chánh pháp nhưng thực ra đã bị xuyên tạc , và
nguy hiểm ở chỗ mọi người cứ tưởng giáo pháp đã bị xuyên tạc như vậy là
Chánh pháp đã được Đức Phật đích thân giảng dạy .
3 – Theo kinh Đại Bát – niết – bàn thuộc Trường bộ kinh , trên đường
cùng với chúng Tỳ-kheo tới Kusinara , lúc nghỉ chân tại ngôi đền Ananda ở
Bhoganagara , bậc Đạo sư đã cảnh giác các Tỳ-kheo về trường hợp có thể
có vị Tỳ-kheo nào đó tuyên thuyết những điều được coi là Kinh-luật với
lý do đích thân vị ấy đã được nghe nói ra bởi chính Đức Phật ; hoặc đích
thân được nghe từ Tăng chúng , từ các vị Thượng thủ , hoặc từ các vị
nổi tiếng từ đa văn nói là đã được nghe từ Đức Phật ; trong trường hợp
đó , các Tỳ-kheo không nên lập tức bài bác hay tin tưởng , mà phải đối
chiếu với Kinh-Luật đã chính thức được nghe , nếu phù hợp thì thọ trì ,
nếu không phù hợp thì từ bỏ . Điều đó cho thấy vào lúc sắp nhập Niết bàn
, Đức Phật mại quan tâm đến việc tượng pháp có thể xuất hiện để hủy
hoại Chánh pháp . Ngài cũng khẳng định kẻ có khả năng tạo nên tượng pháp
phải là Tỳ-kheo . Trong lịch sử Phật giáo , không ít trường hợp các vị
Tăng với sự thông tuệ thế tục đã không ngần ngại lấy lý do Phật pháp
phải khế cơ khế lý , giải thích xuyên tạc Kinh Luật , xây dựng những
giáo thuyết riêng để cầu danh cầu lợi . Có thể thấy một số cuộc vận động
mang mỹ danh “ cải cách giáo luật ” hay “ cách mạng giáo chế ” rơi vào
trường hợp này . Kinh Tương Ưng Maha Kassapa có nói , “ khi vàng giả
xuất hiện thì vàng thật biến mất ; cũng vậy , khi tượng pháp xuất hiện
thì Chánh Pháp diệt ”(4) . Khi đã có nhửng cách giải thích xuyên tạc
Kinh Luật được tuyên bố bởi chính những vị Tăng có danh phận , người
Phật tử sẽ hoang mang và bị cuốn vào những cuộc tranh luận vô bổ về giáo
pháp , quên đi trong tâm tu tập là hành trì lời Phật dạy ; dẫn đến hiếm
người chứng được chánh trí . Đó chính là ý nghĩa của việc Tượng pháp
diệt Chánh pháp .
4 – Tìm hiểu lịch sử truyền bá đạo Phật , người ta thấy nơi nào thời
nào Chánh pháp hưng thịnh , xã hội nơi đó có sự an lạc . Thật vậy ,
Chánh pháp hiện hữu trong sự nghiêm trì giới luật , chứng đắc thánh trí
của chư Tăng ; nhờ đó xây dựng tin tâm cho hàng bạch y khiến họ tự
nguyện sống đúng giới luật mà Đức Phật dã chế cho giới cư sĩ , khiến cho
xã hội được yên ổn . Ngược lại , khi tượng pháp có ảnh hưởng mạnh mẽ ,
người ta chứng kiến cảnh tượng tranh luận sôi nổi về giáo pháp , nhà nhà
đua tranh trình kiến giải , huy động đồ chúng , nhà nhà đua nhau xây
chùa to , dựng tượng lớn , lập nhiều kỷ lục Phật sự , tổ chức lễ hội
linh đình , bày biện lễ đài hoành tráng , chế định pháp phục pháp khí
phiền tạp …Trong cái không khí nhộn nhạo ấy , một vài bậc chân tu hiếm
hoi thật sự có chứng đắc không có chỗ lên tiếng , hay nói đúng hơn ,
không nỡ lên tiếng , và ở nơi ấy , thời ấy , xã hội với nhau được công
nhận là vàng như vậy , không hề có sự an lạc mà chỉ bày ra những hiện
tượng đạo đức suy đồi .
Phật giáo xương thịnh khi Chánh pháp được lưu bố để đệ tử của Phật có
nhiều người chứng đắc thánh trí . Phật giáo không xương thịnh ở những
hình thức bên ngoài . Đó là điều có lẽ mọi người Phật tử cần phải tâm
niệm . Tưởng nhớ công hạnh của Bồ -tát Quảng Đức và các vị Thánh tử đạo ,
người Phật tử ở mọi phương vị đều phải hết lòng gìn giữ Chánh pháp Như
Lai để khỏi cô phụ sự hy sinh vô bờ của các ngài .
Chú thích :
(1) Trích thư Bồ -tát Quảng Đức viết , gửi Tổng Thống Ngô Đình Diệm , trước lúc tự thiêu .
(2) Đại kinh Đoạn Tận Ái , Trung Bộ kinh tập 1 , Thích Minh Châu dịch .
(3) Bản kinh số 1.287 Pháp Tướng Hoại , kinh Tạp A Hàm , Thích Đức Thắng dịch .
(4) Bản kinh Maha Kassapa thuộc Tương Ưng Bộ kinh , Thích Minh Châu dịch .
NGUYỄN VĂN NHẬT