Ở đây, tâm được đại khái phân chia tâm thành bốn loại
tương ứng với bốn cảnh giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới và Xuất
thế giới) mà trong đó nó được thể nghiệm.
1.Thiện, Bất Thiện, Quả Và Hành (Akusala, Kusala, Vipāka, Kiriy)
Ở đây, tâm được đại khái phân
chia tâm thành bốn loại tương ứng với bốn cảnh giới (Dục giới, Sắc giới,
Vô sắc giới và Xuất thế giới) mà trong đó nó được thể nghiệm. Theo bản
chất, tâm cũng có bốn loại khác nhau. Một số hình thức của tâm thuộc về
thế tục (akusala-tâm bất thiện), bởi vì chúng phát khởi từ
tham(lobha), tức giận hay ác ý (pañigha) và ngu si (moha). Trái ngược
với các tâm bất thiện là các loại thiện tâm (kusala), bởi vì chúng bắt
nguồn từ vô tham hoặc thiện ý (alobha), từ bi (adosa) và trí tuệ
(amoha). Các loại tâm bất thiện (akusala) được xem là không lành mạnh,
bởi vì chúng tạo ra những kết quả không êm dịu, bất khả ái (aniṭṭha
vipāka). Các loại thiện tâm là lành mạnh, thanh tịnh, bởi vì chúng đưa
đến các kết quả an vui (iññha vipàka). Theo thuật ngữ Pali, những gì do
thiện tâm (kusala) và bất thiện tâm (akusala) tạo tác thì đều được gọi
là nghiệp (kamma). Cảc loại tâm ấy sanh khởi là những kết quả của thiện
tâm (kusala) và bất thiện tâm (akusala), được gọi là tâm dị thục[1]
hay tâm quả (vipàka). Chúng ta nên hiểu rằng cả nghiệp (kamma) lần tâm
dị thục (vipàka) đều hoàn toàn thuộc về tinh thần. Loại tâm thứ tư được
gọi là kiriya, nghĩa là tâm “không có hiệu lực trên phương diện nghiệp
báo” mà chỉ sanh khởi phụ thuộc. Loại tâm này tuy có hành động tác ý
nhưng không mang đến kết quả của hành động, nên được gọi là tâm hành
hoặc tâm “không mang lại hậu quả”.
2. Căn (mũla) là nguồn gốc,
hay cội rể. Có ba loại căn: tham (lobha), sân (doha) và si (moha) là
nguồn gốc của bất thiện pháp hay căn bất thiện. Đối lập với ba căn bất
thiện là ba thiện căn: không tham (alobha), không sân (adoha) và không
si (amoha).
Lobha(tham) bắt nguồn từ
“lubh”, có nghĩa là bám chấp hay trói buộc, có thể được diễn tả bằng các
danh từ như tham ái, chấp thủ. Tuy nhiên, một số học giả thích dùng từ
“tham ái” hơn. Từ “khát ái” cũng được sử dụng để chỉ cho lobha.
Thông thường, trong trường hợp
có một đối tượng ưa thích của giác quan xuất hiện, thì tham ái hoặc chấp
thủ sanh khởi. Tuy nhiên, trong trường hợp gặp một đối tượng không ưa
thích, thì tâm ghanh ghét hoặc bực tức thường sanh khởi.
Theo thuật ngữ Pali (tiếng
Phạn), tâm ghanh ghét hoặc không toại nguyện như vậy được gọi là dosa
hay pañigha. Dosa bắt nguồn từ “dus”, có nghĩa là “không bằng lòng”.
Pañigha bắt nguồn từ “pati”, có nghĩa là chống lại, không chấp nhận, và
“gha” có nghĩa là tiếp xúc hay chạm vào. Không hài lòng hay ghanh ghét
cũng được sử dụng theo ý nghĩa tương đương với “pañigha”.
Moha (si) bắt nguồn từ “muh”,
có nghĩa là dối trá, ảo tưởng, ngu dại hoặc hoang mang. Si (moha) bao
trùm các đối tượng như một đám mây mờ và khiến tâm trở nên mù quáng. Đôi
lúc, “moha” được dịch nghĩa là vô minh hay si mê.
Theo Vi diệu pháp
(Abhidhamma), si (moha) thường có mặt trong tất cả các tâm bất thiện.
Tham (lobha) và sân (dosa) không tự sanh khởi, mà phải kết hợp với si
(moha) mới sanh khởi được. Nói cách khác, si (moha) có thể tự sanh
khởi—do đó, mới xác định rõ “momåha” là sự ngu si tột độ.
Trái ngược hẳn với ba căn bất
thiện trên là ba thiện căn (kusala). Ba thiện căn này không những biểu
thị sự vắng mặt của các điều kiện bất thiện mà còn bao hàm sự có mặt của
các điều kiện tốt lành chắc chắn xác thực. Vô tham (alobha) không chỉ
có nghĩa là không luyến ái mà còn có nghĩa là khoan dung, độ lượng hay
bố thí. Vô sân (adosa) không chỉ có nghĩa là không bực bội hay không hận
thù, mà còn mang ý nghĩa là thiện chí, yêu thương hay lòng từ bi
(mettà). Vô si (amoha) không chỉ đơn thuần là không ảo tưởng, mà nó còn
mang ý nghĩa là trí tuệ hay nhận thức đúng đắn (ñāṇa hay paññā).
3. Cảm thọ (Vedanà),
Sự cảm nhận hay cảm giác là một trạng
thái tâm phổ biến thường có mặt trong tất cả các loại tâm vương. Có ba
loại cảm thọ chủ yếu—khổ (domanassa), vui (somanassa) và không khổ không
vui hay trung tính (upekkhà). Có năm loại cảm thọ về khổ và vui trên
phương diện vật chất (dukha và sukha).
Cảm thọ vui—somanassa là một
danh từ trừu tượng vốn bắt nguồn từ “su” và “mana”. Su có nghĩa là tốt
đẹp, lành mạnh; mana nghĩa là tâm hay nhận thức. Theo nghĩa đen, danh từ
này (somanassa) được dịch là trạng thái tâm tốt đẹp, cảm thọ ưa thích
v.v Tương tự, cảm thọ khổ (domanassa) bắt nguồn từ “du”và“mana”. Du có
nghĩa là xấu, bất hảo; mana là tâm hay nhận thức. Do vậy, “domanassa”
mang ý nghĩa là trạng thái tâm xấu xa, hay tâm bất hảo hoặc cảm thọ khổ
đau. Cảm thọ thứ ba là trung tính hay vô kí (không khổ không vui). Ở
đây, cảm thọ này được áp dụng trong trường hợp đặc biệt, nhưng không
phải mang ý nghĩa tàn nhẫn vô tâm. Cảm thọ vui (sukha) bao hàm tiếp đầu
ngữ “su”, dể chịu, dể dàng và tiếp vĩ ngữ “kha” là lãnh thọ, lãnh chịu.
Những gì dể dàng tiếp nhận hoặc êm dịu lãnh thọ đều được gọi là “sukha”
(vui thích). Cảm thọ khổ (dukkha) là sự tiếp nhận khó chịu hay nổi đau
khó chịu, nghĩa là bất cứ điều gì lãnh thọ một cách khó chịu. Cả hai cảm
thọ này đều thuộc về vật chất khi ý thức xúc chạm vào. Theo Vi diệu
pháp (Abhidhamma), chỉ có một loại tâm đi kèm với cảm thọ khổ đau và một
loại tâm kết hợp với cảm thọ vui thích. Hai loại tâm kết hợp với cảm
thọ ưu não. Trong 89 loại tậm, thì 85 tâm còn lại được tìm thấy ở cảm
thọ vui thích hoặc ở cảm thọ vô kí.
Nên biết, cảm thọ vui thích
(somanassa), cảm thọ ưu phiền (domanassa-ưu) và cảm thọ buông xả
(upekkhà-xả) đều hoàn toàn thuộc về tinh thần. Cảm thọ an vui
(sukha-lạc) và cảm thọ khổ đau (dukkha-khổ) hoàn toàn thuộc về vật chất.
Theo Vi diệu pháp (Abhidhamma), đó là lý do tại sao cảm thọ buông xả
(ubekkhà) không có mặt trong trường hợp xúc chạm mà chỉ có cảm thọ an
vui hoặc cảm thọ khổ đau.
4.Tà Kiến (diṭṭh)
Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếp đầu ngữ
“dis” , có nghĩa là thấy biết, nhận thức. Nó thường được dịch nghĩa là
khái niệm, tin tưởng, quan điểm v.v Kh đi kèm với “sammà”, thì nó (sammà
diṭṭhi) có nghĩa là chánh kiến (thấy biết đúng đắn) hoặc chánh tín
(niềm tin chân thật); nhưng nếu đi kèm với “micchà”, thì nó (micchà
diṭṭh) có nghĩa là tà kiến (thấy biết sai lầm) hoặc tà tín (niềm tin sai
lầm). Ở đây, thuật ngữ này được dùng mà không cần bất cứ từ nào đi kèm
theo ý nghĩa tà kiến.
5. Tâm bị xúi dục
(saṅkhārika)—Đây là một thuật ngữ chuyên môn được sử dụng theo ý nghĩa
đặc biệt trong Vi diệu pháp (Abhidhamma). Nó được kết hợp bởi chữ
“satti”, có nghĩa là tốt đẹp và chữ “kar”, tức là thực hiện, chuẩn bị
hoặc hoàn thiện. Theo nguyên ngữ, nó mang ý nghĩa là sắp xếp, chuẩn bị
và hoàn thành.
Cũng như danh từ Pháp
(dhamma), hành uẩn (Saṅkhāra) cũng là một danh từ mang nhiều ý nghĩa.
Tuy nhiên, ý nghĩa chính xác của nó phải được hiểu theo từng ngữ cảnh.
Khi được sử dụng như một trong
năm uẩn (Pañcakkhandha-Sắc, thọ, tưởng, hành, thức), thì hành uẩn bao
hàm tất cả các trạng thái tâm, ngoại trừ hai tâm sở thọ (vedanā) và
tưởng (saññā). Trong triết thuyết mười hai nhân duyên (Paṭicca
Samuppāda), hành uẩn (saṅkhāra) cũng được áp dụng cho tất cả các hành
động thiện và bất thiện, tư tưởng xấu và tốt. Khi hành uẩn (sankhara)
được dùng để chỉ cho một cái gì đó là vô thường, khổ v.v, thì nó luôn
luôn được ứng dụng vào tất cả các sự vật có điều kiện.
Trong trường hợp đặc biệt,
thuật ngữ này (saṅkhārika) được kết hợp với “sa”, có nghĩa là “cùng
chung với” và kết hợp với “a” thì mang ý nghĩa phủ định. Do vậy, danh
từ “sa- saṅkhārika” có nghĩa là bị bản thân hay người khác xúi dục,
thúc đẩy hoặc sai khiến. Ngược lại, danh từ “asaṅkhārika” có nghĩa là
không bị xúi dục mà tự động thực hiện.
Ví dụ, nếu chúng ta thực hiện
một việc gì đó mà bị người khác xúi dục, hoặc sau khi suy nghỉ cẩn thận
hoặc toan tính, thì hành động ấy sa-saṅkhārika (hành động bị xúi dục).
Ngược lại, nếu chúng ta thực hiện hành động này một cách tự nhiên, mà
không có bất cứ ai hay bất cứ tác động nào xúi dục dù bên trong hay bên
ngoài, hoặc không có bất cứ suy tính nào, thì hành động ấy được gọi
asaṅkhārika, tức không bị sai khiến.
6. Hoài Nghi (Vicikicchā)—Đây
là một thuật ngữ nói về đạo lý tôn giáo. Theo bản chú thích, thuật ngữ
này bao gồm hai cách hiểu:
a) "Vici" = vicinanto nghĩa là
tìm kiếm, tìm hiểu; “kicch" là mệt mõi, căng thẳng hay bực bội. Do vậy,
“Vicikicchā” là trạng thái phiền toái do suy nghỉ phức tạp khó hiểu.
b) "Vi" + cikicchā=Vicikicchā
nghĩa là không có phương thức trị liệu cho tri kiến hay kiến thức. Nên
biết, chữ vi là không và chữ cikicchā là phương thức hay phương thuốc.
Cả hai cách hiểu trên đều biểu thị một
trạng thái tâm lúng túng hoặc bối rối. Các từ hoài nghi, bối rối, lúng
túng, do dự là những từ được sử dụng phù hợp với “vicikicchà” nhất khi
dịch ra tiếng Việt.
Việc suy luận hay tìm tòi để
hiểu biết sự thực là điều mà Phật giáo luôn khuyến khích. Phật giáo
không bảo giờ tán thành việc tin tưởng một cách mù quáng.
7. Phóng dật (uddhacca)—Thuật
ngữ này xuất phát từ chữ “u”, có nghĩa là quá, vượt quá và chữ “dhu” có
nghĩa là hoảnng sợ, bị kích động. Theo nguyên ngữ (từ gốc), “uddhacca”
có nghĩa là quá kích động hoặc quá sôi nổi. Ở đây, rạng thái tâm hổn
loạn này là thái độ bồn chồn, rối ren và luôn luôn tương phản với tâm
định tỉnh. Trong tác phẩm Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinĩ), thuật ngữ
phóng dật (uddhacca) được giải thích là tâm bất an, xao lãng hoặc rối
loạn.
8. Thiện và bất thiện (kusala
và akusala)—Phần này, trước tiên, đề cập tới các loại tâm bất thiện
(akusala). Tâm bất thiện (akusala) hoàn toàn đối nghịch với thiện tâm
(kusala). Tác phẩm Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinī) nêu ra ý nghĩa
nguyên bản của thiện tâm (kusala) như sau:
a) Chữ “ku” có nghĩa là xấu và
“sal” là rũ sạch, phòng ngừa, hủy hoại hay tiêu diệt. Do đó, thuật ngữ
thiện (kusala) mang ý nghĩa là rũ sạch, tiêu diệt các sự việc đê hèn xấu
ác.
b) Chữ “kusa” + “lu” có nghĩa
là cắt đứt hay chấm dứt xấu ác. “Kusa” bắt nguồn từ “ku” có nghĩa là
xấu ác, tệ lậu và “si” là dối trá. Do vậy, “kusa” là những gì xấu ác,
bần tiện và đê hèn. “Kusala” là những gì cắt đứt hay chấm dứt những thứ
xấu ác, bần tiện và đê hèn ấy.
c) Chữ “ku” là xấu ác, tồi tệ
và chữ “su” là trừ diệt hay chuyển hóa. Do vậy, “kusa” là nhận thức đúng
đắn hay trí tuệ dùng để tận diệt hoặc chuyển hóa những gì tồi tệ xấu
ác. Hơn nữa, “kusa” + “lu” có nghĩa là tận diệt các điều xấu ác. Do
vậy, “kusala” mang ý nghĩa là cái gì tận diệt những điều tồi tệ xấu ác
bằng trí tuệ. Vã lại, “kusa” đi kèm với “la” có nghĩa là nắm bắt hay
thấu triệt cái gì đó. Do vậy, điều gì thông suốt qua trí tuệ thì đều
được gọi là “kusala”.
d) Theo nghĩa đen, “kusa” là
một loại cỏ. Loại cỏ này có thể cắt đứt tay vì cả hai mép lá của nó đều
sắc bén như dao. Cũng vậy, “kusala” cắt đứt hay diệt tận cả hai phần si
mê đó là sự ngu muội đã sanh khởi và sự ngu muội chưa sanh khởi.
Liên quan đến nghĩa rộng của
danh từ này (kusala), sách Atthasàlinã viết: “Từ kusala có nghĩa là sự
mạnh khỏe (àrogya), vô tội (anavajja), thông minh (cheka), kết quả hạnh
phúc vô bờ (sukha vipàka)”.
Ngoại trừ ý nghĩa thông minh, tất cả ba nghĩa còn lại đều có thể áp dụng phù hợp với “kusala”.
Kusala là lành mạnh theo ý nghĩa giải thoát khỏi căn bệnh trầm kha của thân và tâm vì si mê.
Kusala là vô tội hay hoàn hảo theo ý nghĩa giải thoát khỏi sai lầm, tội ác và tâm si mê.
Ở đây, quả an vui
(sukhavipāka) không nhất thiết phải mang ý nghĩa cảm thọ an vui. Nó được
sử dụng trong trường hợp tinh thần tâm sinh lý năng động, tính nhu
nhuyến và tình trạng sung mãn v.v
Hơn nữa, sách Atthasàlinã cho
rằng “kusala” được dùng trong ý nghĩa đã hoàn tất với trí tuệ (kosalla-
sambhūtaṭṭhena; kosallaṁ vuccati paññā).
Nếu xét theo những ý nghĩa
khác nhau về danh từ, thì “kusala” có thể được hiểu là lành mạnh hay
phẩm hạnh. Một số học giả thích dùng từ khéo léo hơn. Như vậy, ngược
lại, “akusala” có nghĩa là không lành mạnh, phi phẩm hạnh hoặc vô đạo
đức. “Kusala” (thiện) và “akusala” (bất thiện) mang ý nghĩa tương ứng
với điều tốt và điều xấu, cái đúng và cái sai.
9. Làm sao để xác định được một hành động là thiện (kusala) hay bất thiện (akusala)? Dựa trên tiêu chí đạo đức nào?
Nói chung, cái gì liên hệ với
ba căn (mula) xấu ác (akusala) là bất thiện, còn cái gì liên hợp với ba
căn tốt đẹp (kusala) là thiện. Ví dụ, chúng ta gieo hạt giống trên vùng
đất phì nhiêu màu mở, thì nó sẽ nảy mầu và cho kết quả dù sớm hay muộn,
tùy theo bản chất đặc thù của nó. Cũng vậy, hành động thiện (kusala) và
bất thiện (akusala) sẽ đưa đến kết quả (vipàka) được ưa thích và không
được ưa thích hay tốt và xấu.
10. Hành động (kiriya hay kriyà)
Ở đây, “kiriya” được sử dụng
theo trường hợp của tác nhân không có khả năng tạo nên kết quả. Nghiệp
(kamma) là tác nhân có thể tạo nên kết quả. Hành động (kiriya) là tác
nhân không có hiệu lực tạo nên kết quả. Các hành động thiện của chư Phật
và La-hán được gọi là “kiriya”, bởi vì các ngài không còn tích lũy
nghiệp (kamma). Các ngài đã vượt thoát khỏi khái niệm thiện và ác.
Trong Vi diệu pháp
(Abhidhamma), kết quả (vipàka) và hành (kiriya) được gọi chung là bất
định (abyàkata), vì nó không biểu hiện tác nhân tạo nên kết quả mà chính
bản thân nó là kết quả.
11. Những ví dụ dùng để giải thích 12 loại tâm bất thiện khác nhau.
Mười hai loại tâm bất thiện này nằm rái rác trong ba ác căn tham, sân và si.
-Tham bao hàm 8 loại tâm bất thiện:
(1) Một đứa bé bỏng dưng ăn
cắp một trái táo trong niềm hân hoan (thọ vui) và cho rằng đó không phải
là xấu ác (hành vi này liên kết với tà kiến).
(2) Bị bạn xúi dục, một đứa bé ăn cắp một trá táo trong hân hoan và cho rằng hành động ấy không phải là xấu ác.
(3) Một dứa bé tự dưng ăn cắp
một trái táo trong hân hoan và biết rằng hành động ấy là xấu ác (không
liên kết với tà kiến ).
(4) Bị xúi dục, một đứa bé tự dưng vui vẽ ăn cắp một trái táo và biết rằng hành động ấy là xấu ác.
(5) Một đứa bé tự dưng thản
nhiên ăn cắp một trái táo (thái độ không vui không buồn, tức vô kí) và
nghỉ rằng hành động ấy không có gì xấu ác.
(6) Bị xúi dục, một đứa bé thản nhiên ăn cắp quả táo và cảm thấy hành động ấy không có gì xấu ác.
(7) Một đứa bé thản nhiên tự dưng ăn cắp quả táo và biết rằng hành động ấy là xấu ác.
(8) Bị xúi dục, một đứa bé bổng dưng ăn cắp quả táo và biết rằng hành động ấy là xấu ác.
-Sân bao hàm hai loại tâm bất thiện.
(9) Vì lòng sân hận, chúng ta có thể giết hại chúng sanh khác mà không hề có sự tính toán trước.
(10) Vì lòng sân hận, chúng ta có thể sát hại chúng sanh khác sau khi toan tính kỉ lưỡng.
-Si bao hàm hai loại tâm bất thiện.
(11) Một người nghi ngờ về sự hiện hữu của đức Phật và công năng của giáo pháp vì sự si mê của anh ta.
(12) Một người mang tâm trí xao lãng nên không thể tập trung vào một đề mục.
Nên biết, hai trạng thái tâm
này rất yếu ớt vì phát khởi từ sự mê mờ và hôn trầm của tâm, đi kèm với
cảm thọ không khổ không vui, tức vô kí.
(Trên đây là 12 loại tâm bất thiện được bao hàm trong ba căn xấu ác tham, sân, si.)
12. Sát sanh
Theo Vi diệu pháp
(Abhidhamma), việc sát sanh luôn luôn được thực hiện với tâm sân hận
hoặc tức giận. Thông thường, dù bất cứ động lực nào thúc đẩy để sát
sanh, thì việc giết hại ấy đều gắn liền với tâm sân hận. Ở đâu có sân
hận (paṭigha) thì ở đó có sự bất mãn hay không toại ý (domanassa). Ở
đâu, có sự bất mãn thì ở đó có sân hận dù trên phương diện vi tế hoặc
thô thiển.
Ví dụ, giả thiết cho rằng một
đứa trẻ không thể phân biệt được giữa cái đúng và cái sai nên rất vui
khi giết một con kiến. Nó không biết rằng mình đang gây ra nghiệp sát
sanh mà chỉ đùa nghịch vui chơi vậy thôi. Vậy, lúc đó, đứa bé ấy có khởi
ác ý với con kiến không? Đứa bé có bất cứ cảm thọ bực tức hoặc giận dữ
với việc làm của mình? Điều này rất khó nói loại tâm nào mà đứa bé kinh
qua trong thời điểm đó? Đó không thể là loại tâm thứ 9 và thứ 10, bởi vì
đứa bé chỉ ngây thơ thực hiện hành động ấy trong niềm ưa thích và trìu
mến con kiến. Có thể đó là loại tâm thứ ba được bắt nguồn từ căn tham
(lobha)?
Một người lớn đi săn và xem đó
là trò giải trí, như vậy, người ấy đã khởi tâm thứ 9 hoặc thứ 10. Người
ấy có ác ý ngay trong thời điểm dương súng muốn bắn chết con thú.
Vậy, về vấn đề này, chúng ta
nghỉ gì với khoa giải phẩu cơ thể sinh vật? Nhà khoa học mổ xẻ một sinh
vật mà hoàn toàn không có sự ăn năn do dự nào. Động cơ chính yếu của
ông ta có lẽ là nghiên cứu khoa học vì giảm bớt sự đau khổ của nhân
loại. Tuy nhiên, vẫn có ý tưởng sát sanh trong việc làm này.
Chúng ta có khởi ác ý khi giết
một con vật đang quằn quại đau khổ vì vết thương nặng? Do lòng từ bi,
chúng ta có thể thực hiện như thế. Nhưng, vẫn có ác ý khi giết, bởi vì
chắc chắn có ác cảm hướng về đối tượng bị giết. Nếu hành động như vậy
phù hợp với đạo đức, thì chúng ta có phản đối việc một ai đó giết một
người mắc bệnh nan y phải chịu đựng khổ đau tột cùng vì không chữa trị
được?
Như đã trình bày ở trên, nếu nơi nào có
ác ý, thì nơi đó có buồn phiền. Ví dụ, khi thi rớt, chúng ta cảm thấy
sầu muộn. Vậy, chúng ta có bực tức trong thời điểm đó? Nếu suy sét kỉ ý
nghĩa của thuật ngữ sân hận (pañigha), thì chúng ta sẽ thấy câu trả lời
rất rõ ràng. Điều này không còn nghi ngờ gì nữa, như khi nhận một tin
buồn, thì chắc chắn loại cảm giác bất mãn này sẽ sanh khởi. Nó cũng
giống trường hợp một người khóc lóc thảm thiết khi người thân của mình
vĩnh biệt cuộc đời, bởi vì đó là một sự kiện vô cùng đau buồn. Cấp bực
A-na-hàm[2] (Anàgàmãs) và A-la-hán[3] (Arahants) không bao giờ cảm thấy buồn rầu hay sầu não, bởi vì các ngài đã tận diệt sân hận (pañigha).
Khi Thế Tôn nhập niết-bàn,
ngài A-nan (Ananda) vô cùng đau buồn thương tiếc, vì khi ấy ngài mới
chứng quả vị Tu-đà-hoàn[4]
(Sotàpanna), nhưng các bậc A-la-hán (Arahants) và A-na-hàm (Anàgàmãs)
như ngài Ca-diếp (Kassapa) và A-nậu-lâu-đà (Anuruddha) đã thực tập pháp
xã ly hoàn hảo nên không hề rơi lệ sầu thương.
13. Mười loại nghiệp ác (akusala) liên quan với mười hai loại tâm bất thiện
Có mười loại ác nghiệp do thân, miệng và ý tạo nên.
-Ba ác nghiệp do thân gây tạo, đó là sát sanh (pàõàtipàta), trộm cướp (adinnàdàna) và tà dâm (kàmesumicchàcàra).
-Bốn ác nghiệp do miệng gây
tạo, đó là nói dối (musàvàda), nói vu khống (pisuõavàcà), nói lời thô bỉ
(pharusavàcà), nói lời thêu dệt (samphappalàpa).
-Ba ác nghiệp do ý gây tạo, đó là tham lam (abhijjhà), sân hận (vyàpàda) và tà kiến (micchàdiññhi).
Như trên đã trình bày, tất cả
các ác nghiệp (akusalas) này đều do mười hai loại tâm bất thiện
(akusala) tạo nên. Thông thường, do hai loại tâm bất thiện thứ chín và
thứ mười mà chúng ta tạo ra nghiệp sát sanh. Nghiệp trộm cướp và tà dâm
là do tám loại tâm bất thiện ban đầu tạo nên.
Có lẽ chúng ta cũng tạo nên
nghiệp trộm cướp vì tâm sân hận. Trong trường hợp này, nghiệp trộm cướp
có thể được hình thành bởi hai loại tâm bất thiện thứ chín và thứ mười.
Nghiệp nói dối được gây tạo
với mười loại tâm ban đầu. Nghiệp vu khống và nghiệp nói lời thô bỉ do
hai loại tâm bất thiện thứ chín và thứ mười gây nên. Nghiệp nói lời thêu
dệt có thể bắt nguồn từ mười loại tâm bất thiện ban đầu. Nghiệp tham
lam do tám loại tâm bất thiện ban đầu gây tạo. Nghiệp sân hận do hai
loại tâm bất thiện thứ chín và thứ mười gây nên. Nghiệp tà kiến xuất
phát từ các loại tâm bất thiện thứ nhất, thứ hai, thứ năm và thứ sáu.
14. Bốn quả vị Thánh đã tận diệt các loại tâm bất thiện theo trình tự
Một vi Tu-đà-hoàn
(Sotāpanna-Nhập Lưu) đoạn trừ các loại tâm bất thiện thứ nhất, thứ hai,
thứ năm, thứ sáu và thứ mười một, bởi vì vị ấy đã tận diệt hai cùm xích
ràng buộc (saṁyojana)—ảo tưởng về tự ngã hay thân kiến (sakkāyadiṭṭh) và
hoài nghi (vicikicchā).
Một vị Tư-đà-hàm
(Sakadāgāmi-Nhất Lai) đã chứng đạt bậc thánh thứ hai, làm suy yếu tiềm
năng của hai loại tâm bất thiện thứ chín và thứ mười, bởi vì vị ấy chỉ
mới làm suy yếu hai cụm xiềng xích trói buộc—luyến ái (kāmarāga) và bất
mãn (paṭigha-bực tức).
Một vị Tư-đà-hàm (Anāgām-Bất
Lai) đã chứng đắc thánh vị thứ ba, tận trừ hai loại tâm bất thiện ở
trên, bởi vì vị ấy hoàn toàn đoạn diệt hai cùm xiềng xích như đã trình
bày.
Một vị A-la-hán (Arahanta)
không còn sanh khởi bất cứ loại tâm nào trong mười hai tâm bất thiện,
bởi vì vị ấy đã tận diệt hết năm cụm xiềng xích ràng buộc còn sót
lại—luyến ái theo các tầng thiền của Sắc giới và cảnh của Vô sắc giới
(rūparāga), luyến ái theo các tầng thiền và cảnh của cõi Vô sắc
(arūparāga), ngã mạn (mafnaa), phóng dật (uddhacca) và ngu si (avijjā).
(Sãlabbata Paràmàsa—đam mê
theo những nghi thức và lễ hội sai lầm—một trong bốn cùm xiềng xích ràng
buộc không được đề cập đến ở trên—bậc Tu-đà-hoàn (Nhập Lưu) đã đoạn tận
tất cả các cụm xiềng xích ấy).
[1]
Tâm dị thục là một tên gọi khác của thức thứ tám (thức A Lại Da). Vì
thức này chấpt chứa chủng tử của tất cả các nghiệp, do thân, tâm, ý của
người tạo ra, và những chủng tử này chín mùi dần, thành thục dần, biến
dị dần để rồi hiện thành quả, cho nên gọi thức này bằng tên chung là Dị
thục thức. Thực ra, không phải là thức thứ tám dị thục, mà là những
chủng tử chứa trong thức đó dị thục. Dị là biến đổi, thục là thành thục,
chín mùi (x. A lại da thức).
[2] A-na-hàm còn được gọi là Bất lai, nghĩa là Không trở lại nữa, xuất hiện nơi vị đã diệt sạch hai kiết sử Tham
và Sân. Nhân duyên làm chúng ta cứ bị liên lụy với cõi đời này chính là
do tham lam, tham dục, hận thù, ganh ghét. Hết hai kiết sử Tham và Sân
rồi thì nhân duyên với thế gian này cũng hết. Do vậy, một vị chứng
A-na-hàm thì không còn bị tái sinh về cõi này nữa, sẽ hóa sinh giữa cõi
trời Sắc cứu kính, sau một thời gian không nhất định, sẽ chứng Niết bàn tại đây.
Chúng ta cũng không nghe nói là phải chứng được mức thiền nào thì
chứng A-na-hàm, mà chỉ theo lời Phật dạy để biết rằng ai có thể diệt trừ
năm kiết sử từ Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi, Tham và Sân thì đạt được đệ Tam Thánh quả.
[3]
A-la-hán là quả vị Thánh cao siêu cuối cùng, thật sự giải thoát, giác
ngộ viên mãn. Vị A-la-hán tự tại phi thường, tuổi thọ vượt hơn người
bình thường, không còn bị cuốn vào luân hồi sinh tử nữa, muốn chết (viên
tịch) lúc nào cũng được.Một vị A La Hán sẽ có đủ Tam Minh và Lục Thông, không thể có chuyện một vị đã chứng A La Hán nhưng không có đủ Tam Minh và Lục Thông được.Tuy
nhiên, do phước duyên mỗi vị khác nhau, mức độ về Thần Thông có thể
khác nhau và Đức Phật thường không khuyến khích sử dụng thần thông vì
tránh chúng sinh lấy đây làm mục tiêu tu hành, vì đạo của Ngài là đạo
Giải Thoát, không phải đạo của thần thông.
Sự vĩ đại của một bậc A-la-hán thì không một ngôn từ nào có thể diễn
tả được. Mỗi người chỉ tùy theo nhân duyên và trí tuệ của riêng mình để
hiểu một phần nho nhỏ nào đó mà thôi. Nếu trong vô lượng kiếp quá khứ
chúng ta xả thân làm lợi ích cho chúng sinh, thực hành Bồ tát hạnh,
tôn kính bậc đáng kính, giữ tâm khiêm hạ thì đến khi đủ phước duyên để
đắc đạo, ta sẽ chứng được một quả vị A-la-hán cao siêu tột bậc. Đức Phật
cũng tự xem mình là một vị A La Hán, tuy nhiên, do phước duyên của Ngài
đã đạt tới viên mãn, hoàn hảo, nên Ngài đã chứng được Phật quả. Một vị
đã chứng Phật quả có nhiều khả năng phi thường tột cùng hơn một vị A La
Hán.
Khi bản ngã đã hết, vị A-la-hán không còn bị ràng buộc bởi sức mạnh
nào đối với luân hồi sinh tử nên hoàn toàn giải thoát. Sau khi phá luôn
năm kiết sử cuối cùng, một vị A-na-hàm sẽ chứng A-la-hán, nghĩa là đạo
đức đã trở thành tuyệt đối hoàn hảo. Không một thần Thánh thiên tử trừ
Đức Phật nào có thể tìm thấy lỗi lầm của một vị A-la-hán nữa. Nơi đây,
đương nhiên một vị A-la-hán cũng có thẽ thành tựu Tứ thiền sắc giới và bốn mức thiền vô sắc giới. Tứ thiền và Tứ Thánh quả đều hiện diện đầy đủ nơi vị A-la-hán như thế.
[4] Tu-đà-hoàn còn gọi là Nhập lưu, nghĩa là bắt đầu nhập vào dòng Thánh. Đây là Thánh vị đầu tiên sau khi đệ tử Phật phá được bakiết sử Thân kiến, Giới cấm thủ, và nghi.
Một vị chứng Sơ quả thì có thể có trình độ thiền của Chánh niệm, hoặc Sơ thiền, thậm chí Nhị thiền. Nhưng ngược lại, một vị chứng thiền định như thế thì chưa chắc chứng được quả Thánh nào. Đó là lý do tại sao nhiều hành giả có thể chứng thiền định rất sâu, có thần thông nhưng
không thể chứng Thánh quả là vậy. Thánh quả khác với thiền định ở chỗ
đòi hỏi trí tuệ, đạo đức và công đức. Thiền định chỉ cần tâm vắng lặng
là đủ mặc dù tâm đi vào vắng lặng lại phải có Công đức, Đạo đứclàm căn bản.
Hầu hết những vị chứng Thánh quả đều có nguyên nhân từ kiếp xa xưa đã
từng hết lòng tôn kính một vị Thánh giác ngộ nào đó. Điều này giống như
Thánh nối tiếp Thánh thành một dòng bất tận. Còn việc thành tựu thiền
định thì chỉ đòi hỏi công đức đem được nhiều niềm an vui cho nhiều
người.
Điều khác nhau giữa Thánh quả và bốn mức thiền là sự bảo toàn ở vị lai. Đối với các mức thiền, nếu không đạt được Tứ thiền ngay
trong kiếp này, hoặc không lập nguyện, thề ước với Phật sẽ tu hành đời
đời kiếp kiếp, thì khi sang kiếp sau hành giả có nguy cơ quên mất, quay
lại với kiếp người bình thường,thậm chí là 3 ác đạo . Còn đối với Thánh
quả thì có bảo chứng cho sự giải thoát hoàn toàn ở vị lai theo từng quả
vị khác nhau. Ở Sơ quả Tu đà hoàn, Phật ấn chứng rằng vị này chắc chắn
sẽ giải thoát luân hồi và đưa ra thời gian cụ thể là không quá 7 kiếp .
Vị đó có thể vẫn sống như người bình thường, tuy rằng sẽ không bao giờ
rớt vào ba đường ác đạo (xem Lục đạo), rồi sẽ tu hành để chứng A-la-hán.
Narada
Minh Chánh chuyển ngữ