1. Tích phước
Tích là tích
góp, giữ gìn, mến tiếc. Phước là phước đức. Chúng ta phải biết phước báo
từ đâu mà có, để giữ gìn và bồi đắp, đừng tiêu sài lãng phí. Các bạn
trẻ nên biết rằng, vào thời mạt pháp, phước báo của con người rất là
mỏng, nếu không biết giữ gìn, phước mỏng đã hưởng hết rồi, thì tương lai
chắc chắn không tránh khỏi bệnh khổ. Người xưa có nói, “niềm vui mà đến
tột cùng thì nỗi buồn xuất hiện” (lạc cực sanh bi), điều này cũng có
nghĩa phước hết thì họa đến! Tôi nhớ, hồi còn nhỏ, phụ thân tôi nhờ
người viết một đôi câu đối lớn, đó là câu đối của Lưu Văn Định, thời nhà
Thanh, treo trên cao giữa đại sảnh, phần đầu câu đối là “Tích thực,
tích y, phi vi tích tài duyên tích phước”, nghĩa là cất giữ lương thực, y
áo, chẳng bằng cất giữ tài đức, phước thiện. Anh tôi thường dạy tôi học
câu đối này. Tôi học thuộc rồi, từ đó về sau, mỗi lần mặc áo hoặc ăn
cơm, tôi đều thận trọng, một hạt cơm cũng không dám tùy ý vứt bỏ. Hơn
nữa, mẫu thân tôi cũng thường hay dạy, quần áo mặc trên người phải giữ
gìn cẩn thận, chớ làm rách hoặc để bẩn. Bởi vì mẹ và anh sợ tôi không
biết thương tiếc hạt cơm, manh áo sẽ tổn phước, đoản mạng mà chết sớm,
cho nên thường xuyên giáo dục tôi như vậy.
Quý vị biết không, lúc tôi mới năm tuổi, thì phụ thân tôi đã qua
đời! Bảy tuổi tôi mới học viết chữ, hễ cầm giấy là viết một cách cẩu
thả, không một chút tiết kiệm. Mẹ tôi trông thấy, nghiêm nghị nói: “Này
con! Con phải biết rằng, lúc ba con còn sống thường dạy, không được làm
hỏng một tờ giấy, mà dù một mảnh giấy cũng không được tùy tiện vứt bỏ”.
Mẹ tôi nói như vậy cũng là cách tích phước!
Tôi nhờ được giáo dục
trong một gia đình như vậy, cho nên những bài học đó thấm sâu vào trong
não từ thời tuổi thơ; sau này khi đã lớn tuổi, không lúc nào tôi quên
trân quý hạt cơm, manh áo. Rồi tôi xuất gia, cho mãi đến bây giờ, cũng
vẫn còn giữ cái thói quen này. Quý vị hãy xem đôi giày mà tôi đang mang,
nó có từ thời dân quốc thứ chín, mua ở Hàng Châu, do một vị xuất gia
trong khóa tu Phật thất tặng cho tôi. Nếu quý vị có thời gian, có thể
đến phòng tôi thăm chơi. Cái chăn bông tôi đang sử dụng, cũng là của
người xuất gia trước đã dùng. Còn cây Dương cầm thì được mua từ năm Dân
quốc đầu tiên. Những đồ dùng này nếu bị rách nát hoặc hư hao, thì nhờ
người khâu vá lại, vì cũ và mới cũng như nhau mà thôi. Rõ ràng là còn
dùng được nên tôi mới dùng! Nhưng những vật dụng khác, như áo quần, giày
cỏ, áo la hán, thì dùng năm sáu năm một bộ. Ngoài những thứ này ra, tất
cả y áo và đồ vật khác, là tôi đã dùng từ hồi còn tại gia hoặc là từ
hồi mới xuất gia đến bây giờ.
Trước nay thường có người tặng cho
tôi áo quần mới, hoặc một vài đồ dùng quý giá, nhưng tôi đem cho người
khác hết. Bởi vì tôi biết phước mình mỏng, nên không dám dùng đồ tốt. Ăn
uống cũng vậy, chỉ khi nào bệnh hoạn mới bồi bổ chút ít, còn những lúc
bình thường thì ăn gì cũng được, không dám ăn uống tùy tiện hoang phí.
Chủ
trương tích phước không phải chỉ một mình tôi, mà đại lão Hòa thượng Ấn
Quang, bậc đại đức của tông Tịnh độ, cũng chủ trương như vậy. Có người
cúng dường cho Ngài những thực phẩm bổ dưỡng như Bạch mộc nhĩ, ngài
không dùng mà đem cúng dường lại cho pháp sư Đế Nhàn ở chùa Quán Tông.
Người ta hỏi ngài: “Vì sao thầy không dùng”? Ngài trả lời: “Phước báo
của tôi không có bao nhiêu, nên chẳng dám tiêu thụ”.
Đại lão Hòa
thượng Ấn Quang tính tình cương trực, bình thường đối với người, chỉ hỏi
những điều đáng hỏi, không vị nể tình cảm và thể diện. Cách đây mấy
năm, có một vị đệ tử năm giới, là một cư sĩ có tiếng ở đảo Cổ Lãng, đến
thăm ngài và cùng ngài dùng cơm. Vị cư sĩ này dùng cơm xong trước, lão
Hòa thượng trông thấy trong bát anh ta còn xót lại một vài hạt cơm, thế
là, không khách khí, Hòa thượng lớn tiếng bảo: “Anh có phước thật nhiều,
cho nên mới tùy tiện hoang phí những hạt cơm như vậy. Hãy đem đến đây
cho tôi dùng”!
Quý vị! Những điều tôi nói trên đây cần phải nên
ghi nhớ! Phải biết rằng: chúng ta có mười phần phước báo thì chỉ nên sử
dụng hai ba phần, phần còn lại để sau này mà dùng; nếu như quý vị có thể
phát tâm bồ đề, nguyện đem phước báo của mình bố thí cho tất cả chúng
sanh, tất cả đều cùng hưởng thụ, thì là tốt nhất.
2. Tập lao
Tập
tức là luyện tập, lao tức là lao động. Quý vị hãy nhìn thân thể của
tôi, trên có hai tay, dưới có hai chân, quý vị có biết vì sao không? Là
vì nó sanh ra để cho con người lao động, làm việc. Nếu không đem nó vận
dụng vào công việc, thì không những bỏ phế chân tay, mà đối với thân thể
cũng có hại, vô ích. Nói một cách khác, nếu thường xuyên luyện tập, lao
động thì thân thể được khỏe mạnh. Ngoài ra, chúng ta nên biết, lao động
vốn là bổn phận hàng đầu của loài người, chứ không phải chỉ những người
xuất gia tầm thường như chúng ta mới lao động. Ngay cả đức Phật cũng
lao động, làm việc. Tôi sẽ kể cho quý vị nghe những công việc mà đức
Phật đã làm.
Đức Phật ở đây là Phật Thích Ca Mâu Ni. Người ta
thường nghĩ rằng, đức Phật lúc còn tại thế, chắc cũng giống như Hòa
thượng phương trượng, có thầy mang y bát, có thầy thị giả, thường xuyên
túc trực hầu hạ, và bản thân đức Phật thì không cần phải làm gì hết.
Nhưng không phải như vậy! Có một hôm, đức Phật thấy một khoảng sân không
được sạch sẽ, Ngài liền tự tay cầm chỗi quét dọn. Rất nhiều vị đệ tử
lớn của Ngài trông thấy, bèn vội vàng đến cùng Ngài quét dọn. Chỉ trong
nháy mắt, khoảng sân trở nên sạch đẹp, đức Phật nhìn rất hoan hỷ. Liền
sau đó đức Phật đi đến giảng đường thuyết pháp, Ngài dạy rằng: “Những
người quét dọn đất già lam, được năm thứ công đức…”
Một lần khác,
đức Phật cùng Ngài A Nan trên đường du hành, gặp một người uống rượu
say túy lúy, nằm bất tỉnh nhân sự giữa đường; đức Phật bảo Ngài A nan
khiêng hai chân, còn Ngài khiêng phần đầu, khiêng vị ấy đến bên cái
giếng gần đó, lấy nước cho uống, và bảo A Nan tắm rửa cho y sạch sẽ.
Có lần đức Phật trông thấy cánh cửa gỗ bị hư, Ngài tự tay tháo xuống đem tu bổ lại.
Lần
khác, có một đệ tử bị bệnh mà không ai chăm sóc, đức Phật hỏi: “Thầy
mang bệnh thế này sao không có ai chăm sóc”? Vị đệ tử trả lời: “Trước
nay trong chúng cũng có người bệnh, nhưng con chưa từng phát tâm chăm
sóc ai; vì vậy nay con bị bệnh, cũng không có ai chăm sóc cho con”. Đức
Phật nghe vậy liền nói: “Không có ai chăm sóc cho thầy, thì Như Lai sẽ
chăm sóc cho thầy”. Nói rồi, Ngài đem y áo của bệnh nhân bị vướng bẩn
rất ô uế ra giếng giặt giũ sạch sẽ; Ngài còn chùi rửa giường chõng cho
sạch, rồi làm vệ sinh cho người bệnh, xong Ngài đặt vị ấy lên lại trên
giường.
Qua đó có thể thấy, đức Phật của chúng ta cũng lao động,
làm việc. Đức Phật đích thực của chúng ta chắc chắn không phải là tượng
Phật ngồi trên bàn, mà mọi người nghĩ rằng Ngài ngồi đó hưởng phước, bao
nhiêu việc khác đều đã có người khác phục vụ. Đây là sự thật, có ghi
lại trong kinh luật, chứ chẳng phải chuyện do tôi nghĩ ra để kể cho quý
vị nghe chơi.
Bây giờ tôi xin kể cho quý vị nghe thêm hai mẫu
chuyện nữa. Trong kinh Di Đà có nhắc đến tên một vị đại đệ tử là A Nậu
Lâu Đà. Ngài này hai mắt bị mù lòa, không thể tự lo cho mình được. Đức
Phật đích thân giúp A Nậu Lâu Đà may vá y phục, và gọi một đệ tử khác
chăm sóc cho Ngài.
Một lần khác, đức Phật trông thấy một vị Tỳ
kheo lớn tuổi, mắt đã kém tỏ, đang xâu chỉ vào kim để vá y, nhưng mắt
quá kém, xâu hoài không được, bèn cất tiếng nhờ: “Có ai giúp tôi xâu chỉ
không”! Đức Phật nghe thấy liền đáp: “Tôi giúp thầy”!
Trên đây
tôi đã kể những câu chuyện có thật, để chứng minh rằng, đức Phật cũng
thường xuyên lao động, làm việc. Tôi hy vọng qúy vị cũng nên noi gương
đức Phật, phàm những việc gì mà mình làm được thì hãy sắn tay lên mà
làm, đừng ỷ lại vào người khác.
3. Trì giới
Ý
nghĩa của hai chữ trì giới, tôi nghĩ rằng tất cả quý vị đều đã hiểu rõ!
Chúng ta khoan nói tu hành để thành Phật, thành Bồ tát, chỉ mong muốn
kiếp sau được làm người, thì ở mức giới hạn tối thiểu đó, cũng đã phải
giữ gìn năm giới cho trọn vẹn. Đáng tiếc là, ngày nay người thọ giới tuy
nhiều, nhưng mà chỉ thọ giới trên danh nghĩa thôi, thực chất thì chẳng
có mấy ai giữ giới. Nên biết, sau khi thọ giới, nếu không giữ giới, thì
những tội phạm phải, so với người không thọ giới, càng nặng tội hơn. Cho
nên tôi thường khuyên mọi người không nên tùy tiện thọ giới. Cho đến,
thành phần hội đồng truyền giới ngày nay, ngó thấy mà đau lòng, tôi thật
sự không thể nói nên lời! Tôi nghĩ rằng, tốt hơn hết là tùy khả năng
của mình mà thọ giới, muôn vạn lần không nên phô trương hình thức bên
ngoài, chỉ tự chuốc lấy khổ não mà thôi.
Trong những giới trọng,
ngoài sát, đạo, dâm, vọng, còn có giới không được uống rượu, ăn thịt… vì
dễ làm cho người khác chán ghét. Cho đến hút thuốc lá, mặc dù trong
giới kinh không có nói, nhưng tập quán của người dân Trung Quốc, họ cũng
ưa phê phán người xuất gia hút thuốc, nên chúng ta không nên hút thuốc.
4. Tự tôn
Tôn
là tôn trọng, tự tôn là tự tôn trọng bản thân mình. Ai cũng muốn người
ta tôn trọng mình, thấy người ta tôn trọng mình thì mình vui mừng, nhưng
tại sao mình chẳng biết tự tôn trọng bản thân mình? Không biết rằng
muốn người ta tôn trọng mình, thì trước hết mình phải biết tự trọng? Thế
nào là tôn trọng bản thân mình? Đó là lúc nào bản thân mình cũng phải
có ước muốn, có lý tưởng: ta phải làm một người vĩ đại, một người giỏi.
Tỷ dụ như chúng ta muốn làm một vị cao tăng thanh tịnh, hướng dẫn những
người khác tu học tiếp nối ngọn đèn chánh pháp, giống như những bậc cao
tăng đến truyền giáo ở nước ta, chúng ta quan sát những hành vi của họ,
để mình cũng bắt chước học theo. Đây chính là điều mà chư tổ nói “bỉ ký
trượng phu ngã diệc dĩ”. Lại phải có ước muốn hơn nữa, như tương lai
mình sẽ làm một vị Bồ tát, rồi thì xem trong kinh, quán sát những hành
động của chư vị Bồ tát, rồi tùy theo sức lực của mình mà thực hành theo.
Đó là tự tôn. Nhưng cũng phải biết phân biệt giữa tự tôn với cống cao
ngã mạn, vốn không giống nhau. Cống cao là tự đề cao mình, coi trời bằng
vung, hành vi hồ đồ; tự tôn là tự mình nỗ lực tinh tấn, vun bồi đạo đức
bản thân mình, trong đó không có một ý nghĩ, một hành vi nhỏ nhặt nào
tỏ vẻ khinh chê người khác.
Các bạn trẻ, muôn vạn lần đừng bao
giờ tự cho mình là một đứa trẻ, một chú tiểu, cũng đừng bao giờ cho rằng
mình chỉ là một người xuất gia bình thường, nào dám có ý nghĩ làm cao
tăng, đại đức, nói gì làm Bồ tát. Đừng bao giờ có ý nghĩ như vậy! Phàm
việc gì cũng bắt đầu nơi chính bản thân mình, đặc biệt là bắt nguồn từ
nơi con người có ý chí và nghị lực cao thượng, thì không việc gì là làm
không được.
Các bạn trẻ nếu suy nghĩ rằng ta không dám hy vọng
làm cao tăng, làm Bồ tát, thì cuộc sống sẽ tùy tiện, thậm chí sẽ tự
ruồng bỏ mình, dễ dàng đi đến chỗ sa ngã, đọa lạc, như vậy không phải là
rất nguy hiểm hay sao? Các bạn phải biết rằng, tuổi tuy còn ít, nhưng ý
chí và nghị lực thì bất phàm!
Tôi vẫn thường hay nói một câu với
quý vị rằng, chúng ta theo Phật xuất gia tu học, cái vị trí mà chúng ta
đang đứng vô cùng tôn quý. Nếu chỉ nói về hình thức thôi, thì việc cao
tóc, đắp áo cà sa thôi, cũng đã làm thầy của trời người rồi. Quốc vương,
chư thiên, và loài người đều đến lễ bái, chúng ta đâu thể ngồi yên mà
thọ nhận được. Các bạn có biết được đạo lý này không? Từ nay trở về sau,
các bạn phải biết tự tôn trọng bản thân mình, muôn vạn lần không nên
phóng ý, buông lung tùy tiện.
Trên đây là bốn điều căn bản, mà
tất cả những người xuất gia, nhất là những người xuất gia trẻ, phải đặc
biệt chú ý. Ngoài ra, tôi không còn biết nói gì nhiều. Không bao lâu nữa
tôi phải nhập thất bế quan, không có thời gian và cơ hội để cùng đàm
đạo với quý vị, thật là không phải! Tuy nhiên, trong thời gian nhập
thất, mỗi tháng bốn ngày, tôi vẫn duy trì thời khóa giảng luật, vậy nếu
có thời gian, quý vị có thể đến tham dự! Hôm nay được trò chuyện với quý
vị, tôi vô cùng hạnh phúc. Tôi hy vọng rằng, quý vị sẽ ghi nhớ bốn điều
tôi vừa nói vào trong tâm khảm, để luôn luôn tự nhắc nhở mình, tinh tấn
hành đạo. Thời gian nói chuyện cũng đã nhiều, khiến quý vị mệt mỏi tinh
thần, thật là không phải, xin quý vị thứ lỗi cho! Nam Mô A Di Đà Phật.
Hoằng Nhất đại sư - Thích Nguyên Hùng dịch - Chùa Vạn Hạnh
http://thienviendaidang.net