Tìm hiểu Phật Pháp 2
I. TAM NGHIỆP
Nghiệp là hành động tạo tác của thân, miệng, ý của chúng sanh; là con
đường đi từ Nhân tới Quả. Nếu kiếp trước mình làm điều lành thì tạo được nghiệp
lành (thiện nghiệp), còn gọi là tạo phước nghiệp. Nghiệp lành này nó hình thành
nên đời sống nhiều may mắn, được an vui, hạnh phúc cho kiếp hiện tại và ngược
lại nếu kiếp trước mình làm điều xấu ác thì tạo nghiệp dữ, gọi là ác nghiệp hay
bất thiện nghiệp. Nghiệp dữ này nó hình thành nên đời sống nhiều thất bại, hoạn
nạn, bất hạnh cho kiếp hiện tại.
Tam nghiệp là hành động tạo tác của thân, miệng, ý của chúng sanh. Chúng ta
cùng nhau luận bàn về Tam nghiệp để tích lũy thêm kiến thức Phật học, kinh
nghiệm tu tập các bạn nhé.
1. Thân nghiệp: Là hành động
tạo tác của Thân như: đánh đập người, dắt dìu người già qua đường, phá hủy môi
trường sống…
2. Khẩu nghiệp: Là hành động
tạo tác của Miệng như: khuyên dạy mọi người làm điều tốt, mắng nhiếc người, vu
oan người khác...
3. Ý nghiệp: Là hành động tạo
tác của Ý tưởng như: suy nghĩ làm điều thiện, toan tín làm điều ác...
Từ nghiệp nhân, tức hành động tạo tác của ba nghiệp, đến nghiệp báo, tức quả
báo phải trả khi gây tạo nghiệp nhân đều gọi chúng là nghiệp. Trong tam nghiệp
trên, ý nghiệp là hệ trọng hơn hết, bởi vì việc làm của thân hay lời nói phát
khởi từ miệng đều do ý tưởng suy tính, quyết định cả. Do vậy, việc ác hoặc
thiện chưa bộc phát ra nơi thân và miệng, nhưng nó đã móng khởi ở ý tưởng rồi.
Thế nên, người nào có ý ác là đã phạm tội rồi mặc dù nó chưa bộc phát ra hành động.
II. TỊNH HÓA TAM NGHIỆP
Đức Phật dạy: “Ba cõi bất an, giống như ở trong nhà lửa”. Quả đúng như vậy,
từ vô lượng kiếp, chúng sanh trôi lăn mãi trong tam giới chịu nhiều khổ đau,
luôn sống trong lo âu sầu muộn, lắm lúc bức xúc khốn cùng không có lối thoát.
Vì muốn chúng sanh vui hưởng nguồn hạnh phúc, an lạc đích thực, Đứa
Phật Thích Ca đã thị hiện trên cõi đời này giáo hoá chúng sanh tu hành thoát
khổ. Suốt 49 năm truyền giáo, Ngài đã tuyên thuyết rất nhiều pháp môn tu học
nhưng không ngoài mục đích giúp chúng sanh nhận ra bản chất khổ đau của nhân
sinh và đưa ra nhiều phương pháp tu hành nhằm giúp chúng sanh diệt trừ những
khổ đau ấy. Đại Kinh Vacchhagotta trong Trung Bộ Kinh là một những bài pháp vô
cùng thâm diệu, Đức Phật đã dùng trí huệ siêu việt hướng dẫn cho Vacchhagotta
phương pháp tu tập “Tịnh hoá tam nghiệp” để thoát mọi khổ đau, đạt đến an lạc
giải thoát. Để cảm nhận sâu sắc hơn thâm ý của Đức Phật qua bài Kinh này, chúng
ta cùng nhau tìm hiểu để tịnh hóa Tam nghiệp của mình tốt hơn nhé.
Tam nghiệp là hành động tạo tác của thân, khẩu, ý. Tịnh hoá tam nghiệp nghĩa
là tu sửa, thanh lọc thân, khẩu, ý bất thiện dần dần trở nên thuần thiện, an
lạc. Diệt trừ 10 điều ác (Thập ác), tu tập 10 pháp thiện (Thập thiện) tạo thành
10 phương pháp tịnh hóa tam nghiệp. Thực những phương pháp này sẽ đem lại lợi ích thiết thực
cho chúng ta trong cuộc sống.
01. Sát sanh là bất thiện, từ bỏ sát sanh là thiện: Từ bỏ sát sanh có nghĩa
là không hủy hoại cuộc sống của mọi loài, của bản thân, không sai người khác
giết hại, không sanh lòng vui mừng khi thấy người khác giết. Không những không
sát chúng sanh mà chúng ta còn phải tìm mọi cách để cứu sống chúng sanh như cứu
người trong lúc nguy nan, phóng sanh các loài động vật, không nuôi chim lồng,
cá chậu v.v…
02. Trộm cắp là bất thiện, từ bỏ trộm cắp là thiện: Từ bỏ trộm cắp có nghĩa
là chúng ta không được dùng bất cứ thủ đoạn nào để chiếm đoạt, trộm cướp tài
sản của người khác. Là người đạo đức, tu hành đạo giải thoát giác ngộ, chúng ta
không những không chiếm đoạt, trộm cắp tài sản của người khác mà còn đem tiền
của, sức lực của mình giúp đỡ chúng sanh kém may mắn hơn mình, để họ được an
vui, ấm no. Qua việc làm này, chúng ta vừa xả bỏ lòng tham lam, vừa tích phước
để trang nghiêm đạo tâm.
03. Tà hạnh là bất thiện, từ bỏ tà hạnh là thiện: Từ bỏ tà hạnh có nghĩa là
không sống trác táng, ăn chơi, cờ bạc, rượu chè, hút sách, gian dâm... Là người
đạo đức, người tu đạo, chúng ta cần có cuộc sống phạm hạnh. Tu sĩ thì cấm hẳn
tà hạnh, Cư sĩ thì phải biết tiết dục, vợ chồng chung thủy với nhau. Tà dục là
gốc sanh tử luân hồi, vì thế chúng ta cần dứt bỏ nó, để tâm hồn ngày càng trở
nên thanh khiết, đi dần đến an lạc giải thoát.
04. Nói dối là bất thiện, từ bỏ nói dối là thiện: Từ bỏ nói dối là thiện có
nghĩa là không nói sai sự thật: thấy, nghe, biết như thế nào thì nói như thế ấy;
chỉ khi nào gặp trường hợp đặc biệt, vì muốn đem đến an vui cho chúng sanh thì
chúng ta có thể tạm thời nói sai sự thật.
05. Nói lời hung ác là bất thiện, từ bỏ nói lời hung ác là thiện: Từ bỏ nói
lời hung ác là thiện có nghĩa là không được dùng lời ác độc, thâm hiểm chửi rủa
mọi người. Là người đạo đức, người tu hành, khi nói ra điều gì, chúng ta luôn
nói những lời dịu dàng, từ ái hợp với chân lí, được như thế tình cảm con người
ngày càng trở nên sâu đậm, dắt dìu nhau tu theo thiện pháp để cùng nhau sống an
vui, hạnh phúc.
06. Nói lời thêu dệt là bất thiện, từ bỏ lời nói thêu dệt là thiện: Từ bỏ
nói lời thêu dệt là thiện có nghĩa là không nên thêm bớt trong lời nói để làm
cho câu chuyện sai với sự thật. Hoặc dùng lời nói hoa mỹ, bóng bẩy mê hoặc nhằm
hãm hại người… Là người đạo đức, tu hành đạo giải thoát, khi nói ra bất cứ điều
gì đều là lời nói chân thật, đạo đức, khế hợp với ý đạo nhằm đem lại an vui cho
bản thân và tha nhân.
07. Nói lưỡi hai chiều là bất thiện, từ bỏ nói lưỡi hai chiều là thiện: Từ
bỏ nói lưỡi hai chiều là thiện có nghĩa là không được đến người A nói xấu người
B; đến người B nói xấu người A… mục đích để gây chia rẽ họ, làm cho hai bên thù
địch nhau, ẩu đả nhau để rồi gây thương tổn cho nhau. Là người đạo đức, chân
tu, chúng ta cần phải dùng những lời nói đạo đức để hóa giải mọi sự oán thù của
con người, giúp họ sáng suốt dứt bỏ hành động tạo đau khổ cho nhau, để không
vướng vào nghiệp oan oan tương báo, khổ khổ chất chồng qua nhiều kiếp, mà cần
phải biết nhường nhịn, yêu thương lẫn nhau, để cuộc sống luôn được bình an qua
mỗi kiếp.
08. Xan tham là bất thiện, từ bỏ xan tham là thiện: Từ bỏ xan tham là thiện
có nghĩa là không tham đắm ngũ dục (tài-sắc-danh-thực-thuỳ). Khi hành giả đắm
chìm trong ngũ dục là sa đọa vào con người đường tội lỗi, gieo tạo nhiều ác
nghiệp và cuối cùng chuốc lấy khổ đau thống thiết, đọa đày mãi trong lục đạo
luân hồi. Là người đang đi tìm hạnh phúc, người chân tu, chúng ta luôn làm chủ
tâm mình, hạn chế và đi dần đến diệt trừ tất cả mọi sự tham muốn thấp hèn, sống
tri túc tiết hạnh, siêng năng hành trì thiện pháp để tâm luôn được an tịnh và
thăng hoa mãi trong cảnh giới Thánh thiện.
09. Sân hận là bất thiện, từ bỏ sân hận là thiện: Từ bỏ sân hận là thiện có
nghĩa là không hung hăng, nóng giận khi đối đầu với những việc trái ý nghịch
lòng. Sân hận là một tánh khí xấu ác, độc hại, nó như ngọn lửa mạnh, mỗi khi bừng
cháy là có thể đốt cháy thân tâm ta và tất cả mọi vật xung quanh, vì thế Đức
Phật từng dạy: “Một niệm sân nổi lên là trăm nghìn cửa nghiệp chướng đều mở”. Thế
nên, lửa tức giận một phen phát ra, liền đốt cháy tất cả rừng công đức đã gieo
tạo nhiều năm tháng. Sự tác hại của tâm sân vô cùng khủng khiếp, để có được
hạnh phúc, để tiến thân mãi trên đường đạo, chúng ta chủ động tâm mình, luôn
hành trì pháp quán từ bi, thương yêu tất cả mọi loài để diệt trừ lòng sân, vì
khi tâm hồn ngập tràn yêu thương thì không tồn tại tâm lý sân hận. Bên cạnh đó,
chúng ta dùng trí tuệ quán chiếu thật tướng của vạn pháp là “không”, nhờ thế
chúng ta có thể chủ động đề phòng tâm sân, mỗi khi nó manh nha liền bị tiêu
diệt ngay và tâm dần dần trở nên an tịnh, từ ái.
10. Si mê là bất thiện, từ bỏ si mê là thiện: Si mê là tâm tánh ám độn không
phân định được chánh, tà, đúng, sai. Mỗi khi con người bị tâm si chi phối,
thường gieo tạo nhiều lầm lỗi, dần dần sa đọa vào đường ác. Vì thế, si mê là
nguồn gốc gây nên mọi tội lỗi, tạo nhiều khổ sầu cho con người. Muốn loại trừ
những quan niệm sai lầm, những định kiến tà quấy, chúng ta cần phải siêng năng
tu tập thiền quán, niệm Phật, làm nhiều việc thiện, xả bỏ dần cái tôi tầm
thường… dần dần tâm chúng ta trở nên sáng suốt, an tịnh, lúc đó mọi suy nghĩ,
mọi hành động của chúng ta đều khế hợp đạo lí, mang lại hạnh phúc cho bản thân
và mọi người.
Trong 10 pháp thiện trên, ba pháp đầu thuộc về “thân nhiệp”, bốn pháp kế
thuộc về “khẩu nghiệp” và ba pháp cuối thuộc về “ý nghiệp”. Trong ba loại
nghiệp này, tu tập “Ý nghiệp” là khó khăn và quan trọng hơn hết. Vì tâm ý chính
là người chỉ huy và cũng là thủ phạm. Còn thân và miệng chỉ là những kẻ tùng
phạm mà thôi. Nói một cách rõ ràng hơn, tất cả lời nói, hành động của thân và miệng
đều bắt nguồn từ sự sai khiến của tâm ý, vì thế trong Kinh Pháp Cú Đức Phật
Dạy:
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý nhiễm ô (ác)
Nói năng hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như chiếc xe theo chân con vật kéo”.
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý thanh tịnh (thiện)
Nói năng hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình”.
Bài kệ trong Kinh Pháp Cú trên giúp chúng ta nhận thấy rằng, chính mối tương
quan nhân quả từ nơi tâm ý của con người đã hình thành nên nghiệp thiện hay ác
mà con người phải thọ nhận. Tâm ý chính là chủ nhân tạo nên mọi khổ sầu hay an
vui cho con người, mỗi khi ý ác khởi lên, nếu chúng ta không biết kìm chế, hóa
giải thì miệng sẽ nói những lời ác độc, thân sẽ làm những việc ác, từ đó gây ra
đau khổ cho bản thân và mọi loài xung quanh. Ngược lại nếu chúng ta biết thanh
lọc tâm ý, luôn phát khởi những ý tưởng thanh cao, đạo đức thì miệng sẽ nói ra
những lời từ ái, thân làm những việc tốt, đem lại an vui hạnh phúc cho bản thân
và mọi loài. Như vậy, tu tập “tâm ý” là vấn đề then chốt, là nền tảng của người
tu đạo nhằm đạt đến an vui, giải thoát. Mỗi khi chúng ta thức tĩnh tâm ý, tu
tập Giới, Định, Huệ là chúng ta đã mở ra cho mình một hướng đi rất chủ động
trong việc tu tâm, tạo nên một đời sống an lạc giải thoát ngay trong kiếp sống
hiện tại, để từ đó đạt đến cứu cánh giải thoát.
Qua sự luận bàn chúng ta nhận thấy 10 phương pháp tịnh hóa tam nghiệp là 10
phương pháp rất thâm diệu, có giá trị rất sâu sắc và thiết thực trong quá trình
tu dưỡng đời sống tâm linh. Đây là giáo pháp tu tập căn bản, mang lại lợi ích
thiết thực cho đời sống hiện tại và tương lai. Mười thiện pháp này nếu hành giả
khéo ứng dụng vào cuộc sống thì sẽ phát triển Giới, Định, Huệ; tịnh hoá tam
nghiệp, làm cho nhân cách phạm hạnh ngày càng sáng ngời và đạt đến suối nguồn
hạnh phúc an vui trong cuộc sống. Tất cả các Tu sĩ , Cư sĩ đều đầy đủ nhân cách
phạm hạnh thì cuộc sống Tăng đoàn sẽ vững mạnh, nội tình ổn định, hoà hợp hạnh
phúc. Đây là yếu tố then chốt làm cho Phật Pháp hưng thịnh, thế giới an hòa...
Thế nên, là đệ tử của bậc giác ngộ toàn năng, chúng ta phải nỗ lực tu hành, vun
bồi phạm hạnh để cuộc sống luôn an bình hạnh phúc, để Phật pháp luôn trường tồn
ở thế gian, giống như mặt trời luôn toả sáng và hiện hữu mãi trong vũ trụ.
Thích Nữ Đức Trí – 0905020701 – 2012.
http://nguoiphattu.com/?id/34999/tim-hieu-phat-phap-3-tam-nghiep-va-tinh-hoa-tam-nghiep