Quyển 100 điều đạo đức tại gia
này giúp tôi hiểu tầm ảnh hưởng của đạo Phật đối với cuộc sống thường
nhật của con người. Nó có thể được xem như quyển sổ tay hướng dẫn chúng
ta sống cuộc đời theo chánh pháp.
Các nguyên tắc này được trình bày giản
dị, dễ hiểu, nhưng cống hiến những kiến thức cần thiết không chỉ để đọc
mà còn để ứng dụng. Việc thực hiện đúng vai trò của Phật tử ngày nay là
một thách thức lớn đối với mọi người, và quyển sách này như là bước
đường đáp ứng thách thức đó. Bằng giáo pháp, đạo Phật sẽ dìu dắt bạn
trong cuộc hành trình tìm ra chánh đạo. Đó là điểm vĩ đại của giáo pháp
đức Phật. Giáo pháp đó vẫn luôn phù hợp với mọi thời đại.
Chính vì thế, bất cứ khi nào bạn có nghi
vấn (đức Phật khuyến khích bạn đặt câu hỏi), quyển sách này giúp bạn
bước đầu trên con đường tìm ra câu giải đáp.
Gleg Kleven
7-1994
Lời Đầu Sách
Niềm tin là một trong những con đường đi
vào Đạo, là chất xúc tác hữu hiệu của khoa học thực nghiệm, phát minh,
và còn là nền tảng của mọi lãnh vực tiến triển xã hội. Đối với đạo Phật,
để niềm tin phát huy khả năng chủ đạo đặc biệt này, người có niềm tin
phải có một thái độ tư duy khách quan, khoa học, như đoạn kinh dưới đây
mô tả:
Này các thiện nam, tín nữ, khi
nghe một điều gì, các vị phải quan sát, suy tư và thể nghiệm. Chỉ khi
nào, sau khi thể nghiệm, quý vị thực sự thấy lời dạy này là tốt, lành
mạnh, đạo đức, có khả năng hướng thiện, chói sáng và được người trí tán
thán; nếu sống và thực hiện theo lời dạy này sẽ đem đến hạnh phúc, an
lạc thực sự ngay hiện tại và về lâu về dài, thì lúc ấy quý vị hãy đặt
niềm tin bất động và thực hành theo. (Kinh Bộ Tăng Chi, A. I. 188)
Do đó, để trở thành một người Phật tử,
các bạn cần phải có một thời gian nhất định để tìm hiểu đạo Phật. Sự tìm
hiểu giáo pháp của đức Phật là điều cần thiết và tất yếu. Đây là động
cơ tốt thúc đẩy người Phật tử ứng dụng lời Phật dạy vào đời sống thường
nhật của mình, để đem lại an lạc và hạnh phúc cho bản thân, gia đình và
xã hội.
Phát xuất từ suy nghĩ căn bản đó, chúng tôi biên soạn 100 điều đạo đức tại gia
này, trước là đáp ứng nhu cầu tìm hiểu vừa nêu, và sau là mong rằng tập
sách nhỏ này như là người bạn, là hành trang, là chỉ nam giúp người
Phật tử tại gia hoàn thiện nhân cách bản thân, đem lại sự đầm ấm hạnh
phúc gia đình và để góp phần xây dựng một xã hội thái bình, an lạc trong
chánh pháp của đức Phật.
Về nội dung, chúng tôi chủ yếu đúc kết
tinh thần các lời dạy quý báu của đức Phật qua hai truyền thống kinh
điển Nam tông và Bắc tông và thể hiện chúng dưới hình thức các nguyên
tắc và điều lệ để quý Phật tử dễ nhớ và áp dụng.
Với 18 chương, gồm 100 điều, tập sách
nhỏ này sẽ giới thiệu với quý Phật tử các nội dung đạo đức căn bản theo
tinh thần Phật dạy. Có chương cho biết các yêu cầu cần và đủ của một
người Phật tử. Có chương giới thiệu nội dung của Ba Ngôi Báu. Có chương
đề cập năm điều đạo đức. Có chương hướng dẫn cách thờ phượng Phật,
Bồ-tát và thánh tăng. Có chương đưa ra chương trình học Phật ngắn gọn.
Có chương trình bày cách thức sinh hoạt hữu hiệu. Có chương mô tả về
những trách nhiệm thiêng liêng của các bậc cha mẹ. Có chương dạy về cách
sống hiếu thảo, đền ơn cha mẹ ngay hiện tại và tương lai. Có chương
hướng dẫn đời sống hôn nhân và cách thức tổ chức lễ cưới. Có chương dạy
về cách bảo vệ hạnh phúc lứa đôi. Có chương nói về bổn phận thiêng liêng
của thầy trò. Có chương dạy cách tương giao bạn bè. Có chương qui định
về khế ước lao động giữa người chủ là người làm việc. Có chương gợi nhớ
tình quê hương, làng xóm. Có chương trình bày thái độ ứng xử và giao
tế. Có chương hướng dẫn cách tổ chức lễ tang đúng chánh pháp. Có chương
giới thiệu cách tu trì và có chương đưa ra 10 điều tâm niệm làm phương
châm tu học hiệu quả. Nhìn chung, các điều lệ này nhằm hướng đến một đời
sống nhân bản toàn thiện.
Trước khi trở về sống nương tựa Ba Ngôi
Báu và phát nguyện vâng giữ năm điều đạo đức, các bạn nên có thời gian
vài ba tháng về chùa tìm hiểu giáo lý, nghe giảng pháp tại các trung tâm
truyền bá Phật giáo, tự nghiên cứu lời Phật qua các phương tiện truyền
thông đại chúng của Phật giáo, và tìm hiểu kỹ các nguyên tắc đạo đức
này. Có như vậy, sự trở về đạo Phật của quý vị mới bền và nhất là mới có
thể đem lại lợi ích cho chính bạn, gia đình bạn, ngay hiện tại cũng như
trong tương lai.
Chúng tôi chân thành cảm ơn quý đại đức
Nguyên Tạng, Thiện Hữu, Thiện Quý, Trung Đạo, Phong Nhã, Giác Hoàng,
thầy Hồng Sơn, thầy Thanh Trúc đã cho nhiều nhiều ý kiến hay khi chúng
tôi biên soạn tập sách này. Đặc biệt, chúng tôi xin chân thành cảm ơn
đại đức Nguyên Tạng, đã hoan hỷ chuyển bản dịch tiếng Anh đến GS. Greg
Kleven, người đã tận tâm chữa chánh tả cho bản dịch. Nhân đây, chúng tôi
cũng xin cảm ơn ông bà giáo sư Lý Phúc Điền đã phát tâm chuyển dịch tập
sách nhỏ này ra tiếng Hoa, để nó có thể phục vụ cho nhiều người hơn.
Chúng tôi cũng xin chân thành tán thán Sư cô Như Phước và Phật tử chùa
Giác Ngộ đã ấn tống tập sách này.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng chắc rằng
tập sách còn nhiều thiếu sót và cần phải được bổ sung. Kính mong chư tôn
Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức tăng ni, Phật tử và các bậc thức giả
chỉ giáo để tập sách này thật sự là người bạn tin cậy của người Phật tử
tại gia.
Mong rằng tập sách nhỏ này sẽ giúp quý
Phật tử nói riêng và tất cả mọi người nói chung sống an lành, phúc lạc
trong cuộc sống bằng chất liệu chánh pháp của đức Phật.
Tỳ-kheo Thích Nhật Từ
Viết tại chùa Giác Ngộ - Mùa hạ năm 1994
Kính ghi
* * *
CÁC NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA
- Để đảm bảo đời sống đạo đức, văn hóa, trí huệ, hạnh phúc, an lạc, giải thoát của người Phật tử;
- Để thực hành và phát huy tinh thần khế lý, khế cơ, ứng thế độ sanh, thắp sáng mãi thông điệp từ bi cứu khổ của đức Phật;
- Căn cứ tinh thần ứng dụng Phật pháp qua 84.000 pháp môn, nhằm xây dựng một Tịnh độ cho tự thân, gia đình và xã hội;
Sách này qui định các nguyên tắc đạo đức của Phật tử tại gia như sau:
CHƯƠNG I: QUI ĐỊNH TỔNG QUÁT
Điều 1: Trước khi đi theo đạo Phật, bạn
cần phải tìm hiểu, suy tư lời Phật dạy và luật tắc đạo đức này. Chỉ khi
nào bạn nhận thấy rằng đạo Phật là lý tưởng, là chân lý, là sự sống, là
sự trưởng thành đạo đức và trí tuệ, bạn hãy phát nguyện trở về sống với
gia đình của đạo Phật.
Điều 2: Người Phật tử nên đến với đạo
Phật bằng thái độ chánh kiến, chánh tư duy; vâng giữ và thực hành lời
vàng Phật dạy, phù hợp với nếp sống đạo đức, luật pháp và chánh pháp;
góp phần làm trong sạch và an lạc xã hội.
Điều 3: Người Phật tử là người sống phù
hợp và trung thành với lý tưởng chánh pháp, thể hiện đạo đức, văn hóa,
trí tuệ, hạnh phúc, an lạc và giải thoát của bản thân, gia đình và xã
hội ngay hiện tại và về sau.
CHƯƠNG II: NƯƠNG TỰA BA NGÔI BÁU
Điều 4: Người Phật tử nương tựa đức
Phật, bậc đạo sư của trời người, từ nay cho đến trọn đời không nương tựa
Trời, Thần, Tiên, Quỷ, vật v. v. . .
Điều 5: Người Phật tử nương tựa chánh
pháp của đức Phật, chân lý tối thượng, từ nay cho đến trọn đời không
nương theo các học thuyết của các tôn giáo, tín ngưỡng dân gian, và các
chủ nghĩa khác.
Điều 6: Người Phật tử nương tựa cộng
đồng Tăng, những bậc chân tu, người kế thừa và truyền bá chánh pháp của
đức Phật, từ nay cho đến trọn đời không nương theo thầy tà, bạn xấu và
người không thuộc đạo Phật.
Điều 7: Người Phật tử nên có lòng bao
dung, phóng khoáng; không kỳ thị chủng tộc, giới tính, màu da, tôn giáo
và ý thức hệ v.v. . . Trái lại, người Phật tử nên có tinh thần và thái
độ cởi mở, thân thiện, tôn trọng, tìm hiểu, giúp đỡ mọi người để họ có
thể nhận ra và sống theo lời Phật dạy dưới tất cả các hình thức.
CHƯƠNG III: VÂNG GIỮ NĂM ĐIỀU ĐẠO ĐỨC
Điều 8: Người Phật tử ý thức và phát
nguyện không sát hại sự sống của con người, động vật và thiên nhiên.
Phải thể hiện tình thương, tôn trọng và bảo vệ sự sống của muôn loài.
Điều 9: Người Phật tử ý thức và phát nguyện không lấy
của không cho, của phi nghĩa, không lường gạt, dối trá, tham nhũng, đút
lót, cờ bạc, chứa đồ gian, vay không trả. Phải thể hiện lòng tôn trọng
sở hữu tài sản của người khác, sống bằng nghề lương thiện và chân chánh.
Điều 10: Người Phật tử ý thức và phát
nguyện không sống ngoại tình, không lang chạ với vợ hay chồng của người
khác. Phải tôn trọng hạnh phúc gia đình người khác như của gia đình
mình; sống chung thủy một vợ một chồng.
Điều 11: Người Phật tử ý thức và phát
nguyện không nói sai sự thật, không nói lời vô ích, không nói lời tục
tĩu, không nói lời chia rẽ, gây hận thù. Phải tôn trọng sự thật, giữ gìn
chữ tín. Khi nói thì nói đúng với chánh pháp, khi không thể nói thì
phải im lặng như sự im lặng của bậc thánh.
Điều 12: Người Phật tử ý thức và phát
nguyện không uống rượu và không sử dụng các chất kích thích tố có tác
dụng hủy hoại sức khỏe, tinh thần, trí lực và nhân cách như á phiện, ma
túy và các độc tố khác. Phải tự trọng, bảo vệ sức khỏe và giữ gìn nhân
cách.
CHƯƠNG IV: THỜ PHƯỢNG
Điều 13: Người Phật tử thờ phượng ảnh
tượng Phật, Bồ-tát, A-la-hán và Thánh Tăng để chiêm bái, học hỏi hạnh
nguyện cao cả của quý ngài, để làm chỗ dựa tinh thần và hộ trì đạo đức
cho bản thân và gia đình.
Điều 14: Người Phật tử không thờ một
thần hay nhiều thần của các tôn giáo và tín ngưỡng khác. Không thờ
Thượng đế, Phạm thiên, Chúa Trời, đấng Allah, đấng Jahovah v.v. . .
Không thờ Thần Tài, Thổ Địa, Táo Quân, Cửu Thiên Huyền Nữ, Mẹ Sanh Mẹ
Độ, bà Chúa Xứ, Quan Thánh v. v. . . Không lễ Miếu, Đình, Đồng cốt.
Không bói quẻ, xin xăm. Không tín ngưỡng những nơi được đồn là linh
thiêng. Người Phật tử nên hiểu không có cội nguồn ban phước giáng họa.
Chỉ tin vào chân lý nhân quả và cố gắng hoàn thiện nhân cách của chính
mình.
Điều 15: Người Phật tử nên thờ Phật ở
nơi thoáng cao, trang nghiêm, sạch sẽ, dễ thấy, thuận tiện cho việc dâng
cúng hoa quả và lễ bái.
Điều 16: Người Phật tử nên thường xuyên
quét dọn nơi thờ Phật, thắp nhang đèn, cúng hoa quả, lễ bái. Trước khi
cúng hay lễ Phật phải tắm gội, ăn mặc tươm tất, sạch sẽ; thân và tâm
phải thanh thản và thuần khiết.
Điều 17: Người Phật tử nên để chuông mõ ở
trang hay bàn Phật. Không để kinh sách, chuỗi niệm Phật, áo tràng một
cách tùy tiện hay ở nơi thiếu tôn nghiêm, thanh tịnh.
CHƯƠNG V: HỌC PHẬT
Điều 18: Người Phật tử nên chuyên cần
học hỏi và thực hành lời Phật dạy. Xem kinh, luật, luận là sự sống tinh
thần và nền tảng cho sự hướng thượng của bản thân.
Điều 19: Người Phật tử nên khắc phục
hoàn cảnh, siêng học chánh pháp của Phật ở các trung tâm văn hóa Phật
giáo, từ các phương tiện truyền thông Phật pháp, từ các lớp giáo lý phổ
thông ở các chùa, các khóa huấn đức, tu thân, các buổi thuyết pháp vào
ngày sám hối, ngày vía Phật, Bồ-tát và các mùa an cư kiết hạ của quý
Thầy Cô.
Điều 20: Người Phật tử nên có bổn phận,
trách nhiệm hướng dẫn, khích lệ vợ/chồng mình, con cái, cha mẹ, thân
quyến và bạn bè mình tìm hiểu, học hỏi và thực hành chánh pháp của đức
Phật.
Điều 21: Người Phật tử nên siêng năng
ứng dụng, thể nghiệm, tiêu hóa và biến chánh pháp của đức Phật thành
thức ăn và máu huyết cho sự sống của bản thân, gia đình và xã hội.
Điều 22: Người Phật tử không được chỉ
trích, chống đối những người tu tập theo các pháp môn và tông phái của
Phật giáo. Phải tôn trọng, tìm hiểu pháp môn Phật giáo khác với truyền
thống tu tập của mình, để hoàn thiện lẫn nhau, để cho chánh pháp của đức
Phật tỏa sáng khắp nơi bằng nhiều cách.
CHƯƠNG VI: SINH HOẠT
Điều 23: Người Phật tử nên phát huy đời sống chánh nghiệp, chánh mạng. Không sống phi pháp, phi nghĩa dưới mọi hình thức.
Điều 24: Người Phật tử nên sinh sống và
tạo ra của cải, tài sản bằng công sức của bàn tay và trí khôn của khối
óc, đúng với chánh pháp và phù hợp với luật pháp xã hội. Không nên cho
vay nặng lãi, bắt chẹt người khác trong hoàn cảnh túng quẫn, khó khăn.
Điều 25: Người Phật tử nên sống căn bản,
điều độ, ít muốn, biết đủ, tương thân và tương trợ. Không quá chuộng
hay lệ thuộc hình thức.
Điều 26: Người Phật tử nên nâng cao đời
sống tinh thần, phát huy cảm thọ hạnh phúc cao thượng để cuộc sống thật
sự có ý nghĩa và giá trị.
Điều 27: Người Phật tử nên tham gia sinh
hoạt gia đình Phật tử vào các ngày chủ nhật cũng như các sinh hoạt cộng
đồng, sinh hoạt văn hóa Phật giáo.
Điều 28 Người Phật tử nên làm chủ nhận
thức, sinh hoạt và làm chủ cuộc sống. Sống theo, sống đúng và sống phù
hợp với chánh pháp của đức Phật.
CHƯƠNG VII: CHA MẸ
Điều 29: Người Phật tử làm cha mẹ phải
có bổn phận thương yêu, nuôi nấng, giáo dục con cái trưởng thành về thể
chất, thể trí, nhân cách, đạo đức; tạo dựng nghề nghiệp và khả năng tự
lập cho con cái.
Điều 30: Người Phật tử nên giáo dục con
cái khi còn trong thai bằng đức hạnh và chánh niệm của mình. Truyền thụ
cho con cái nét đẹp văn hóa, đạo đức của Phật giáo, của truyền thống dân
tộc và của gia đình.
Điều 31: Khi con được một tuổi, người
Phật tử nên đem con đến chùa làm lễ khai tâm và ghi vào sổ bộ của bổn
tự. Khi con được năm tuổi, người Phật tử nên dẫn con đến chùa học giáo
lý, song song với chương trình thế học. Khi con lên sáu tuổi nên hướng
dẫn con làm lễ quy y Ba Ngôi Báu, để con cái chính thức trở thành Phật
tử.
Điều 32: Người Phật tử nên truyền chất
Phật cho con qua các lễ thôi nôi, khai tâm, lễ quy y, lễ cưới, sinh nhật
và qua cuộc sống thường nhật. Dạy con ý thức học Phật pháp, đi chùa,
lạy Phật, đọc tụng kinh Phật, nghe giảng, ăn chay kỳ, làm phước và tu
đức.
Điều 33: Người Phật tử làm cha mẹ không
nên cản trở con cái nếu chúng có ý thức và muốn xuất gia, làm tu sĩ.
Trái lại, cha mẹ nên tạo thuận duyên cho con cái mình thành đạt chí
nguyện xuất trần.
CHƯƠNG VIII: CON CÁI
Điều 34: Người Phật tử làm con phải hãnh diện, thương kính và tận tình phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ còn sống.
Điều 35: Người Phật tử nên hiếu thảo,
vâng lời cha mẹ dạy. Không chơi bời, hút sách, xa xí. Phải cố gắng học
hành và lập nghiệp chân chánh để phụ giúp và đền ân cha mẹ.
Điều 36: Người Phật tử nên hết lòng chăm
sóc, điều trị, sớm thăm tối viếng cha mẹ khi cha mẹ già yếu và đau ốm,
để cha mẹ an vui mà chóng khỏi bệnh.
Điều 37: Người Phật tử nên có ý thức
trách nhiệm trong việc duy trì, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức
của Phật giáo, dân tộc và gia đình.
Điều 38: Nếu cha mẹ không có chánh kiến,
chánh tín, chánh nghiệp . . . Người Phật tử nên kiên trì, khôn khéo can
gián để cha mẹ trở về sống với chánh pháp.
Điều 39: Khi cha mẹ qua đời, người Phật
tử nên tổ chức lễ tang đơn giản, đúng chánh pháp, để tạo hành trang tái
sanh tốt cho cha mẹ.
Điều 40: Người Phật tử nên tổ chức các
lễ tưởng niệm cha mẹ vào dịp các tuần thất, một trăm ngày, giỗ hằng năm .
. . tại chùa. Trong trường hợp tổ chức tại nhà, người Phật tử nên mời
quý Thầy Cô và ban hộ niệm về nhà tụng kinh. Phẩm vật dâng cúng nên
thuần chay. Người Phật tử cũng nên tu phước, bố thí, cúng dường Ba Ngôi
Báu, để hồi hướng công đức cho cha mẹ.
CHƯƠNG IX: HÔN NHÂN
Điều 41: Người Phật tử trước khi tiến
đến hôn nhân, phải có ý thức và ổn định nghề nghiệp và khả năng tự lập
vững, để đời sống gia thất về sau không phải gặp khó khăn và trở ngại.
Điều 42: Người Phật tử nên có thời gian
tìm hiểu nhau chín chắn về các phương diện: tôn giáo, đạo đức, nhân
cách, hiểu biết và lý tưởng trước khi đính hôn, để đời sống hôn nhân
cũng như đời sống của con cái sau này có được hạnh phúc thật sự và lâu
dài.
Điều 43: Để người bạn đời phù hợp tính
tình, lý tưởng và hạnh nguyện với mình, người Phật tử nên chọn người
theo đạo Phật. Nếu người bạn sắp cưới không có đạo hoặc theo tôn giáo
hay tín ngưỡng khác thì nên thuyết phục người ấy cùng trở về quy y và
nương tựa Ba Ngôi Báu, để đôi giai ngẫu cùng nhìn, cùng sống và cùng
hưởng một chân lý.
Điều 44: Trước ngày lễ cưới, người Phật
tử nên đến chùa thưa thỉnh thầy bổn sư về việc tổ chức lễ cưới và thân
mời huynh đệ Phật tử khác cùng tham dự.
Điều 45: Trong ngày lễ cưới, hai đàng
trai gái phải đến chùa làm lễ chứng hôn trước Ba Ngôi Báu và Phật tử để
nghe giáo huấn quý báu về cách giữ gìn, bảo vệ và phát triển hạnh phúc
lứa đôi và cho hạnh phúc của con cái.
CHƯƠNG X: VỢ CHỒNG
Điều 46: Vợ chồng phải sống tôn trọng,
thương yêu, hiểu biết và chia xẻ niềm vui, nỗi buồn cũng như thuận lợi
và khó khăn cho nhau, để đời sống hai người trở nên khối thủy chung duy
nhất, không gì chia cách được.
Điều 47: Vợ chồng phải biết thương kính,
nhường nhịn nhau, rộng lượng, tha thứ và bỏ qua lỗi lầm của nhau mỗi
khi ai vi phạm sai lầm, sơ suất. Vợ chồng phải sống vì hạnh phúc cho cả
hai và cho con cái.
Điều 48: Chồng phải thương yêu vợ hết
lòng, giúp vợ làm tốt việc nội gia và sắm sửa trang sức cần thiết cho vợ
tùy theo khả năng tài chánh.
Điều 49: Vợ phải thể hiện tốt bổn phận
của mình; khéo tiếp đãi giao tế; cùng chồng giáo dục con cái cũng như
tạo ra tài sản và làm lớn mạnh tài chánh gia đình.
Điều 50: Vợ chồng phải sống tiết hạnh, ít muốn, biết đủ; giúp đỡ nhau thăng tiến trên đường đời cũng như đường đạo.
CHƯƠNG XI: THẦY TRÒ
Điều 51: Thầy giáo phải gánh vác trách
nhiệm thiêng liêng trong việc đào tạo cho gia đình, quốc gia và xã hội
những mẫu người hoàn thiện về tri thức, nhân cách và phẩm chất “uống
nước nhớ nguồn” ở học trò.
Điều 52: Thầy giáo phải truyền trao cho
thế hệ trẻ những tinh hoa văn hóa, đạo đức của Phật giáo, của dân tộc và
của loài người; khơi dậy những phẩm chất cao quý và khả năng sáng tạo
của thế hệ trẻ, để góp phần làm giàu mạnh đất nước và an lạc xã hội.
Điều 53: Thầy giáo phải kích thích tính
ham hiểu biết, học hỏi, nghiên cứu của học trò; dạy học trò bằng tất cả
bầu nhiệt huyết; tận tâm, kiên nhẫn và không giấu giếm bất cứ kiến thức
gì mình có được.
Điều 54: Thầy giáo phải là người chói
sáng về gương hạnh đạo đức; là người mẫu mực của học trò về những gì
mình đã học, đã biết và đã dạy; không ngừng rèn luyện tri thức và phẩm
cách đạo đức của mình.
Điều 55: Học trò phải lễ độ, kính trọng
và biết ơn dạy dỗ của thầy giáo. Học trò phải học hành chăm chỉ, cần cù
với tinh thần khoa học, khách quan để khám phá và đi vào thế giới vô tận
của tri thức và nhân cách.
Điều 56: Học trò phải học tập không mệt
mỏi, để trở về cội nguồn dân tộc, dòng giống, tổ tiên và đạo Phật, và
sống sao cho xứng đáng với các cội nguồn đó.
Điều 57: Học trò phải học tập nhằm tu
dưỡng bản thân, đền ơn giáo dưỡng của thầy và báo đáp công ơn sanh
thành, nuối nấng của cha mẹ, và góp phần làm giàu mạnh gia đình, đất
nước và xã hội.
CHƯƠNG XII: BẠN BÈ
Điều 58: Bạn bè đến với nhau bằng sự tìm
hiểu, cảm thông, tôn trọng, thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, để cùng
tiến tiến bộ, lớn mạnh và cảm nhận phúc lạc trong cuộc sống.
Điều 59: Người Phật tử nên đến người bạn
tốt để học hỏi; đến người bạn xấu để chuyển hóa; tìm người trí đức để
giao du; tìm người thua kém để giúp đỡ.
Điều 60: Bạn bè phải thành tín, không
tính chuyện hơn thua, xây dựng và hoàn thiện nhân cách, đạo đức và trí
huệ cho nhau; thủy chung nhau trong chí hướng và lý tưởng.
Điều 61: Người Phật tử nên can gián,
ngăn chặn khi bạn làm điều xấu; sẵn lòng tùy hỷ khi bạn làm điều hay;
quan tâm giúp đỡ khi bạn gặp khó khăn; rộng lượng, tha thứ khi bạn vấp
phải sai lầm.
CHƯƠNG XIII: CHỦ THỢ
Điều 62: Chủ phải tôn trọng sức lao
động, chất xám, nhân cách đạo đức của thợ. Giao việc cho thợ phù hợp với
khả năng và sở trường.
Điều 63: Chủ phải trả tiền lương, chế độ
thù lao và nghỉ ngơi hợp lý. Không được cưỡng bức, bắt chẹt, bóc lột
sức lao động của thợ.
Điều 64: Chủ phải thương yêu, săn sóc và chữa trị khi thợ mắc bệnh; chia xẻ thức ăn, tặng quà vật vào những dịp cần thiết.
Điều 65: Thợ phải nhiệt thành, say mê công việc; làm việc bằng tất cả sức lực, trí tuệ và lòng yêu nghề của mình.
Điều 66: Thợ phải thể hiện nhân cách,
phẩm chất đạo đức của mình, làm tốt hợp đồng; biết ơn và hài lòng với
những gì chủ tặng cho; làm việc với tâm nguyện đem lại lợi nhuận và danh
tiếng cho chủ như cho chính mình.
CHƯƠNG XIV: LÀNG XÓM – QUÊ HƯƠNG
Điều 67: Người Phật tử nên thương yêu,
nhường nhịn, đùm bọc lẫn nhau. Đối xử nhau bằng tấm lòng nhân hậu. Sống
vì lợi ích và an lạc cho mọi người.
Điều 68: Người Phật tử nên xem láng
giềng như họ hàng; xem mọi người như người thân; lấy trí nhân thay hung
bạo; đem đạo nghĩa thắng hung tàn.
Điều 69: Người Phật tử mang ơn ai thì
nhớ trả; làm ơn ai thì không để lòng; thương người như thể thương thân;
giúp người như tự giúp. Người Phật tử nên quan niệm rằng tất cả là quyến
thuộc, do đó, sống đoàn kết, hòa hợp như một đại gia đình.
Điều 70: Người Phật tử nên xem quê hương
là cội nguồn sự sống, là nơi chôn nhau cắt rốn, và trưởng dưỡng của mỗi
người. Người Phật tử thành kính biết ơn, trả ơn và trung thành với quê
hương và dân tộc.
Điều 71: Người Phật tử dù ở nơi đâu cũng
phải nhớ đến quê hương, hướng về quê hương. Sống, làm việc vì lợi ích,
vì sự trưởng thành, vì sự lớn mạnh của quê hương. Duy trì và phát huy
truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc. Làm lớn mạnh tinh thần độc
lập, tự chủ của dân tộc. Xóa bỏ óc bảo thủ, định kiến, nô lệ văn hóa.
Bất khuất trước các thế lực đồng hóa, xâm lăng. Thể hiện tính dân tộc ở
mọi nơi, ở mọi khía cạnh của cuộc sống.
CHƯƠNG XV: GIAO TẾ
Điều 72: Khi ứng xử và giao tế với đời,
người Phật tử nên quan niệm Ba Ngôi Báu là tối thượng; năm điều đạo đức
là phương châm của một đời sống an lạc; từ, bi, hỷ, xả là chỉ nam soi
đường; nhiệt thành, kiên trì và hỗ trợ mọi người là nếp sống thực tế.
Điều 73: Người Phật tử đổi oán thù thành
bè bạn; chuyển ganh ghét thành thương yêu; nhẫn nhịn, hòa thuận, bình
đẳng, không kỳ thị, phân biệt; khoan dung và độ lượng.
Điều 74: Người Phật tử luôn sống trong
tôn trọng, hiểu biết, cảm thông những nét sai biệt của người khác; sẵn
lòng hợp tác, giúp đỡ và tùy hỷ việc làm tốt của mọi người.
Điều 75: Người Phật tử nên đề cao đức
tính bi, trí, dũng và nhân nghĩa. Phải sống tinh thần vô úy, bất khuất
trước mọi thế lực gian ác. Sống trung thành và hy sinh cho chân lý, cho
sự an lạc, giải thoát của bản thân và tha nhân.
Điều 76: Người Phật tử nên gần gũi người
kém hơn để giúp đỡ; gần gũi kẻ xấu để chuyển hóa; từ bỏ điều xấu, phát
triển điều tốt; thương yêu, bổ sung nhau, dìu dắt nhau trên đường đạo và
đường đời.
Điều 77: Người Phật tử khi gặp quý Thầy,
quý Sư cô và các đạo hữu nên chấp tay trước ngực xá chào, để cho nét
đẹp văn hóa tỉnh thức này được phổ biến và tỏa sáng.
Điều 78: Người Phật tử không nên kêu quý
Thầy bằng anh, chú hay bác; không nên kêu quý Sư cô bằng chị hay gì. Tự
xưng mình bằng con đối với quý Thầy Cô bằng tuổi mình trở lên. Tự xưng
bằng pháp danh đối với quý Thầy Cô nhỏ tuổi hơn mình. Nói năng từ tốn và
lễ độ.
CHƯƠNG XVI: TANG CHẾ
Điều 79: Người Phật tử khi lâm trọng
bệnh và sắp sửa mệnh chung nên chánh niệm, tỉnh giác, hướng về Ba Ngôi
Báu; giữ tinh thần thản nhiên, không lo sợ cái chết; xả bỏ tất cả ý niệm
về bản ngã, sở hữu tài sản, để có thể ra đi một cách nhẹ nhàng.
Điều 80: Khi người thân quyến gần mạng
chung, người Phật tử nên thành kính hướng về Ba Ngôi Báu, mời quý Thầy
Cô tụng kinh trợ niệm và tiếp dẫn để người bệnh khi mãn phần được sanh
về cảnh giới chư Phật hay cảnh giới tốt. Nếu nhà quá xa chùa, không tiện
thỉnh mời quý Thầy Cô, người Phật tử nên mở băng tụng kinh và nhắc nhở
người thân của mình về nguyên lý vô thường, vô ngã, để người sắp mạng
chung có thể ra đi dễ dàng.
Điều 81: Ngay lúc tắt thở và trong suốt
thời gian tang lễ, con cháu, vợ/chồng và thân quyến không nên khóc lóc,
kể lể, để không làm động tâm người vãng sanh. Trái lại nên thành tâm,
bình tĩnh, đồng niệm Phật thật rõ ràng để trợ tiến người ra đi.
Điều 82: Gia đình người quá cố nên thay
mặt người quá cố làm các việc phước báu, bố thí, cúng dường, từ thiện xã
hội, để hồi hướng công đức cho người mạng chung.
Điều 83: Tang lễ nên tổ chức theo tinh
thần Phật giáo. Không phô trương hay chú trọng hình thức, đãi cúng mặn,
tế thần. Không cúng tam sên (sinh), đốt giấy vàng mã, mở cửa mã. Chỉ nên
cúng đồ chay, tụng kinh, quán tưởng để duy trì thuần phong mỹ tục của
đạo Phật.
Điều 84: Lễ nhạc thì tùy nghi, nhưng nên
đơn giản. Tốt nhất là bãi miễn. Đặc biệt, trong lúc qúy Thầy Cô tụng
kinh, không nên trỗi nhạc và ngưng tất cả việc đãi đằng, để tạo trang
nghiêm cho khóa lễ.
Điều 85: Sau khi tống táng, người Phật
tử nên tiếp tục cúng bảy tuần thất và giỗ hằng năm để tưởng nhớ. Các lễ
cúng nên tổ chức tại chùa.
CHƯƠNG XVII: TU TRÌ
Điều 86: Người Phật tử nên siêng năng
đọc tụng và thực hành lời Phật dạy vào cuộc sống thường nhật; biến giáo
pháp thành sự sống của bản thân và tha nhân.
Điều 87: Người Phật tử nên khắc phục khó
khăn; nhẫn nại, kiên trì thực hành và trung thành với chân lý của đức
Phật. Không kích bác, phỉ báng người theo pháp môn khác.
Điều 88: Người Phật tử nên đến chùa lễ
Phật, tụng kinh, nghe pháp, ít nhất một lần trong tuần; nên tham dự đầy
đủ các buổi sám-hối, lễ tưởng niệm Phật, Bồ-tát, A-la-hán và Thánh tăng,
và nên ăn chay ít nhất một ngày trong tháng.
Điều 89: Người Phật tử muốn tu trì miên
mật thi nên đi chùa tụng kinh, ngồi thiền mỗi ngày, tu tập tám điều đạo
đức (bát quan trai giới), vâng giữ mười điều lành, thọ lãnh đạo đức
Bồ-tát (Bồ-tát giới); tu hạnh xuất gia.
Điều 90: Khi dự các khóa lễ, người Phật
tử nên mặc áo tràng. Tâm nên chí thành, tỉnh thức, không loạn niệm, tạp
tưởng, để khóa lễ thật sự có ý nghĩa, lợi ích, đem lại phước báu, an lạc
thân tâm.
CHƯƠNG XVIII: MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM
Điều 91: Người Phật tử luôn quan niệm
rằng mọi sự vật hiện tượng trên thế gian này luôn vận động, chuyển biến,
đổi thay, không có thực thể, không có bản ngã, và thường dẫn đế sự
không thỏa mãn. Quán chiếu như vậy để từ bỏ thái độ chấp ngã và ngã sở
hữu.
Điều 92: Người Phật tử luôn quan niệm
rằng không có một đấng sáng tạo nào tạo dựng nên thế giới, con người và
vạn vật. Thế giới được hình thành bằng nguyên lý duyên khởi, tương
thuộc, không có khởi thủy, không có chấm dứt.
Điều 93: Người Phật tử luôn quan niệm
rằng sự thiên sai vạn biệt trong vũ trụ là do các hành vi có chủ ý
(nghiệp) của từng cá nhân. Chúng sanh là chủ nhân của đau khổ và hạnh
phúc. Không ai có thể ban phước giáng họa, ngoài hành vi thiện hay ác
của chính chúng ta.
Điều 94: Người Phật tử luôn quan niệm
rằng thế giới hiện tượng này thường có mặt của đau khổ và an vui. Người
Phật tử nên có ý thức chấm dứt đau khổ, hướng đến an lạc. Nguyên nhân
của các đau khổ này là các tâm lý xấu xa như khát ái, tham, sân, si,
v.v. . . Sự chấm dứt toàn bộ đau khổ và nguyên nhân của nó là niết-bàn,
niềm an lạc tuyệt đối. Con đường dẫn đến sự an lạc của niết-bàn này là
con đường trung đạo gồm tám yếu tố, đó là: quan niệm chân chánh, tư duy
chân chánh, lời nói chân chánh, hành vi chân chánh, nghề nghiệp chân
chánh, nỗ lực chân chánh, tỉnh thức chân chánh và thiền định chân chánh.
Điều 95: Người Phật tử luôn quan niệm
rằng con đường trung đạo là con đường xa lìa sự tham đắm dục lạc và khổ
hạnh ép xác, và các cực đoan cũng như nhị biên. Đây là con đường duy
nhất hướng đến giải thoát, niết-bàn.
Điều 96: Người Phật tử ý thức rõ ràng
rằng con đường tu học trải qua nhiều gian nan và thử thách, do đó, không
hoài vọng về tương lai cũng như không truy ức về quá khứ; trái lại, an
trụ thân tâm vào từng phút giây tỉnh thức và chánh niệm của hiện tại.
Điều 97: Người Phật tử nên ý thức rõ
ràng rằng sự sống của con người tồn tại trong khoảnh khắc của thời gian,
do đó, cố gắng tu tập và gột bỏ các bợn nhơ của tâm ngay bây giờ và tại
mọi nơi, chứ không đợi đến lúc tuổi già mới tu tập.
Điều 98: Người Phật tử nên duy trì chánh
niệm, tỉnh thức trong từng hành vi và cử chỉ; không để cho các tâm niệm
tham, sân, si và các tâm lý bất thiện khống chế và ngự trị thân tâm
mình.
Điều 99: Người Phật tử nên ý thức và dang rộng đôi tay giúp đỡ mọi người với tinh thần vô ngã và vị tha. Hãy mạnh dạn “nói với nhau” thay vì “nói về
nhau” để tháo gỡ mọi hiểu lầm, rút ngắn khoảng cách phân chia, tìm đến
sự hiểu biết, cảm thông và tôn trọng lẫn nhau. Hãy từ bỏ thái độ tiếc
rẻ. Hãy đối diện với thực tại, nhận chân và vượt qua mọi trở ngại. Hãy
dụng tâm vào việc tu học, để không phải hối hận về sau.
Điều 100: Người Phật tử nên xem bệnh khổ
như thuốc trị tham dục, xem khó khăn và hoạn nạn như lò luyện ý chí,
xem nghịch duyên như nguồn thử lửa, xem ma quân như bạn đạo, xem kẻ ác
độc và người chống đối như thiện tri thức, xem sự xả bỏ như vinh hoa,
xem trí tuệ và đạo đức là tài sản quý nhất và xem đạo Phật là con đường
giải thoát cứu cánh.
* * *
PHỤ LỤC
CÁC NGÀY ĂN CHAY
Hai ngày: 1 và 15.
Bốn ngày: 1, 14, 15 và 30.
Sáu ngày: 8, 14, 15, 23, 29 và 39.
Tám ngày: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24 và 30.
Mười ngày: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30.
Một tháng: tháng giêng hay tháng 4 hay tháng 7 hay tháng 10.
Ba tháng: tháng giêng, tháng 7 và tháng 10.
Bốn tháng: tháng giêng, tháng 4, tháng 7 và tháng 10.
Trường trai: quanh năm suốt tháng.
Người ăn chay phải giữ tâm trong sạch,
tránh điều tội ác, làm việc nhân từ, thương người mến vật, tu tập công
đức, để ánh sáng từ bi và trí tuệ của đạo Phật tỏa sáng khắp nhân loại
và chúng sanh.
Thích Nhật Từ