ĐỜI SỐNG TRONG SÁU CÕI
VÀ THẦN CHÚ OM MANI PADME HUM
Jetsunma Ahkon Lhamo
Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa
________________________________________
Trong đất nước này chúng ta thực
sự bị khốn khổ bởi thuyết hư vô lẫn vĩnh cửu. Về phương diện văn hoá
chúng ta đã hấp thu chúng. Chúng là một bộ phận của dòng tâm thức của
chúng ta, chúng phổ biến trong toàn bộ nền văn hoá của ta, và chúng khó
bị phát hiện.
Thuyết vĩnh cửu là sự tin tưởng rằng chúng ta sẽ tiếp tục như chúng ta
là, dựa trên niềm tin nơi bản tánh của riêng ta và sự tiếp tục của nó.
Điều này thì giống như việc đòi hỏi một cây gậy chỉ có một đầu: cây gậy
bắt đầu ở một nơi nào đó và sau đó tiếp tục mãi mãi. Thuyết hư vô là sự
tin tưởng rằng không có điều gì hiện hữu về mặt bản chất. Nó nói rằng
các sự vật xuất hiện cùng một lúc trong một vài cách thế tự nhiên, có
tính chất sinh lý học hay nhờ một vài phương tiện hoá học, nhưng không
có trật tự thực sự cho nó hay không có bối cảnh trong đó hiện hữu một
kiểu mẫu tiến hoá. Nó là sự tin tưởng rằng không có gì ngoài những gì ta
nhìn thấy với đôi mắt ta hay cảm nhận với đôi bàn tay ta hoặc những mùi
hương với mũi ta. Nó là niềm tin rằng, trong hoàn cảnh của chúng ta, ta
có thể kinh nghiệm nhân mà không kinh nghiệm quả.
Đây không phải là định nghĩa giáo khoa về thuyết hư vô, nhưng nó là sự
mô tả thuyết hư vô như chúng ta kinh nghiệm nó trong tâm thức ta. Ví dụ
như chúng ta có thể hiểu những giáo lý của Đức Phật và nhận ra tính chất
luận lý của chúng, nhưng lại có những hành động và lối sống mâu thuẫn
với niềm tin đó. Chúng ta có thể thấu hiểu rằng lòng bi mẫn gặt hái được
những kết quả tốt đẹp và đem chúng ta lại gần sự giác ngộ hơn, vì thế
chúng ta biểu lộ thiện tâm và có niềm tin. Tuy nhiên trong tâm ta, ta
luôn xét nét những người khác và ôm giữ sự sân hận và tham muốn. Ta cho
rằng có thể chấp nhận được việc xử sự tử tế với một người cho dù cùng
lúc đó ta đang nghĩ ta muốn có những y phục của người đó hay ta không
thích người đó. Đây thực sự là một hình thức của hư vô chủ nghĩa, bởi ta
cảm thấy rằng những gì người ta nhìn thấy thì chẳng có gì quan trọng,
mà không hiểu rằng ngay cả những gì tồn tại trong những tư tưởng và cảm
xúc của ta cũng đem lại những hậu quả. Ta không thực sự thấu hiểu rằng
những mối liên hệ nhân và quả xảy ra từ những bình diện vi tế nhất cho
tới những mức độ to lớn nhất, và là cơ cấu tiềm ẩn của vòng luân hồi. Do
đó ta không hiểu rằng bổn tánh của ta và của mọi sự là một hoá thân của
tâm thức ta. Chúng ta thực hành thuyết hư vô một cách bền bỉ bởi ta tin
rằng điều duy nhất được tính đếm bằng cách này hay cách khác trong
quyển sách tính là những gì được nhìn thấy và có thể được phán đoán bởi
những người khác.
Chúng ta bằng lòng sống với loại tư tưởng đó, không bao giờ nhận ra
những kết quả khủng khiếp mà nó đem lại. Ta tiếp tục dấn mình vào hoạt
động không dẫn tới giác ngộ, bởi ta không thấu hiểu chiều sâu và hậu quả
thăm thẳm mà nhân và quả đặt lên chúng ta. Ta có thể hành động trong
một cách thế khi người ta chỉ nhìn vào tâm ta, vào những chỗ bí mật của
ta nơi không ai nhìn, chúng ta ích kỷ, xét nét, thiếu lòng trắc ẩn, và
ganh tị. Tất cả những phẩm tính này ta cho phép hiện hữu trong tâm ta,
và ta không hiểu rằng nếu chúng hiện hữu trong dòng tâm thức chúng cũng
sẽ xuất hiện bằng cách này hay cách khác trong thực tại vật lý của ta.
Khi ôm giữ sự sân hận trong dòng tâm thức của ta, hay sự ganh tị, ích
kỷ, bám chấp, sự cảm thấy luôn luôn thiếu thốn, sự cảm thấy là ta phải
có thứ gì đó để được hài lòng, việc hành động trong một cách thế ích kỷ
trái ngược với giáo lý của Đức Phật – những điều này đem lại những kết
quả tương tự mà hoạt động thân xác của loại cảm xúc đó đem lại, mặc dù
ta có thể không thấy lập tức những hậu quả chắc chắn sẽ chín mùi.
Đức Phật dạy chúng ta rằng có những nguyên nhân khác nhau mà ta nắm giữ
trong dòng tâm thức của ta đã tạo nên những hoàn cảnh khiến ta bị tái
sinh trong sáu cõi khác nhau của luân hồi sinh tử.
Trái ngược với triết học Hiện đại nói rằng ta luôn luôn đạt được một sự
tái sinh cao hơn, hay do bởi giờ đây ta là con người ta có thể luôn luôn
hy vọng ở loài người trong những sự tái sinh trong tương lai, Đức Phật
dạy rằng chúng ta thành tựu sự tái sinh phù hợp với nội dung hay cơ cấu
của dòng tâm thức của ta. Ví dụ như nếu ta ôm giữ rất nhiều sự căm thù
hay giận dữ, ta có thể bị tái sinh trong những cõi thấp nhất được gọi là
các cõi địa ngục. Những cõi này cực kỳ khó chịu; chúng rất nóng hay rất
lạnh khiến không chịu đựng nổi. Việc sống ở đó thật quá sức chịu đựng
khiến ta không thể thực hành. Nó giống như việc bạn cố gắng thiền định
trong khi có người đang cưa đứt đầu gối bạn. Tất cả những gì bạn có thể
nghĩ tới là kêu la, gào thét, và làm thế nào nhanh chóng thoát ra khỏi
nơi đó. Đó là bản chất của các cõi địa ngục.
Nếu bạn kinh nghiệm rất nhiều sự tham muốn, bám chấp, và sự thiếu thốn,
bạn sẽ bị tái sinh trong nơi được gọi là cõi ngạ quỷ. Cõi giới này thì
tràn đầy sự thèm khát tới nỗi chúng sinh không có thân xác ở đó có những
cái miệng nhỏ xíu như một lỗ kim và bao tử của họ thì lớn như Núi Tu
Di. Không thể làm thoả mãn họ. Đó là kinh nghiệm của sự tham lam vô độ.
Chúng sinh ở đó rất trống rỗng và không thể hiểu được điều gì cần thiết.
Nếu chúng ta kinh nghiệm sự trầm trệ, ngu đần hay vô minh, chúng ta sẽ
bị tái sinh trong cõi súc sinh. Những thú vật được coi là không thể có
loại tư tưởng cần thiết trong việc lập nên những quyết định toàn giác.
Chúng là nạn nhân của bất kỳ đau khổ nào mà con người có thể đổ lên
chúng. Những con bò phải kéo những cỗ xe nặng nề suốt ngày với rất ít
thực phẩm, những con vật phải chịu đựng sự thí nghiệm – những con vật
này không thể tự cứu mình và đau khổ khủng khiếp. Những thú vật trong
chốn hoang dã bị ăn thịt hay bị những con vật lớn hơn săn đuổi mà không
biết nương tựa vào đâu. Ngay cả những con vật cưng của chúng ta cũng
không biết làm thế nào để tự lo cho mình. Nếu ta nuôi chúng thì chúng
được nuôi dưỡng, nếu ta quên chúng thì chúng bị lãng quên.
Được tái sinh trong cõi người được coi là hoàn cảnh tốt lành nhất bởi ở
đây người ta có thể thực hành Phật Pháp và kinh nghiệm sự giác ngộ đích
thực. Mặc dù cần có rất nhiều công đức mới được tái sinh trong loài
người, nhưng cũng có một nguyên nhân tiêu cực đối với sự tái sinh này,
và đó là sự nghi ngờ. Là con người chúng ta thường xuyên kinh nghiệm sự
hoài nghi. Nó lan rộng tới nỗi ta không hiểu sự hoài nghi của ta to lớn
ra sao. Nếu ta thực sự khảo sát bản thân, ta sẽ khám phá rằng ta suy
nghĩ và cảm xúc khác biệt với cách ta tin tưởng về mặt trí thức. Ta có
thể theo một triết học nào đó, nhưng ta không bao giờ theo bất kỳ triết
học nào một cách bền bỉ bởi ta quá đầy ngập sự hoài nghi. Trong việc
theo giáo lý Đạo Phật thì cũng thế. Ta sẽ theo nó ở bề ngoài, nhưng
không kiên định cho tới khi ta tới gần sát sự chứng ngộ và có thể tự
mình hiểu biết đầy đủ và trọn vẹn về những mối liên hệ nhân quả.
Nếu chúng ta kinh nghiệm rất nhiều sự ganh tị và tranh đua, nếu tâm ta
có một đặc tính thích tranh đấu, ta sẽ tái sinh ở nơi được gọi là một
cõi trời ganh tị. Chúng sinh ở đó có rất nhiều năng lực với những kinh
nghiệm siêu-nhiên. Họ rất mạnh mẽ, thường xuyên gây chiến tranh. Không
có hoà bình, không có sự an toàn, không có thì giờ để suy nghĩ, cảm xúc
hay thương yêu. Chỉ có một nhu cầu thường xuyên là tự bảo vệ mình để đối
phó với sự xúc phạm và tấn công, và một nhu cầu thúc bách là gây hấn
khi ôm giữ bất kỳ điều gì có vẻ là của bạn.
Cái cuối cùng trong sáu cõi là cõi trời. Nó được coi là cõi cao nhất bởi
nó là cõi nhiều lạc thú nhất và hỉ lạc nhất. Chúng sinh ở đây tuyệt đẹp
với những mùi hương kỳ ảo, những màu sắc chói lọi, và âm nhạc hoan lạc
tới nỗi nếu ta nghe thấy ta sẽ lập tức lành bệnh. Thân thể các vị trời
thuần khiết và ngát hương. Không có một chút tàn tạ, mồ hôi, vi khuẩn,
tuổi già hay bất kỳ tiến trình nào khiến ta có những mùi hôi. Đó là một
vẻ đẹp vượt khỏi sự hiểu biết của ta, hoàn toàn không có sự xấu xí hay
suy hoại nào. Kiêu ngạo là nguyên nhân chính để bị tái sinh ở đây, và
mặc dù những vị trời sống hàng ngàn năm, nhưng cuộc đời ở đó không tồn
tại mãi. Thực sự là cần có một khối lượng khổng lồ thiện nghiệp và đức
hạnh thanh tịnh để được tái sinh trong cõi trời, nhưng trong thời gian ở
đó bạn dùng cạn mọi thiện nghiệp bạn tích tập được rất nhanh chóng,
giống như một chiếc máy V-8 khổng lồ đốt ga chạy lên đồi. Thình lình sau
một thọ mạng rất dài, sự suy hoại bắt đầu. Đức hạnh mà ta tích tập được
trở nên cạn kiệt và cái chết tới gần. Thật là khủng khiếp đối với họ
bởi là những người không kinh nghiệm điều gì khác ngoài sắc đẹp, việc
không có mồ hôi, sự hỉ lạc, âm nhạc kỳ diệu, và thực phẩm của cõi trời,
giờ đây họ sắp sửa trải qua nỗi đau khổ ghê gớm. Sự vô thường này là nỗi
khổ trội vượt nhất trong cõi trời.
Là con người, chúng ta có trong dòng tâm thức của mình mọi hạt giống của
những đau khổ kỳ lạ và những đặc tính bất hạnh được liên kết với sáu
cõi luân hồi sinh tử. Đức Phật khuyên dạy ta đừng sử dụng giáo lý này
một cách tượng trưng, nhưng hãy dùng nó một cách tuyệt đối. Ngài có thể
thực sự nhìn thấy sáu cõi và có thể nhớ lại việc Ngài đã từng sống trong
những cõi đó. Sau khi đạt được sự giác ngộ cao quý, Ngài có thể nhớ lại
Ngài đã di chuyển từ những cõi này tới sự giác ngộ ra sao. Vị lãnh đạo
của dòng truyền thừa của chúng ta, His Holiness Penor Norbu Rinpoche, đã
nói rằng giá như bạn có thể vén lên những tấm màn ngăn che đôi mắt bạn,
giá như bạn nhìn thấy trong giây lát sáu cõi luân hồi sinh tử ra sao và
làm cách nào bạn đến và đi trong từng cõi giới, và bạn đã kinh nghiệm
điều gì và bây giờ bạn phải kinh nghiệm điều gì do bởi những phẩm tính
cố hữu trong sự suy tưởng của bạn – nếu bạn có thể thấu hiểu điều này
bạn sẽ không làm điều gì ngoài việc liên tục trì tụng thần chú OM MANI
PADME HUM. Bạn sẽ không bao giờ ngừng lại.
Thần chú của Đức Chenrezig (Quán Thế Âm) là OM MANI PADME HUM. Chenrezig
là Đức Phật của lòng Bi mẫn, và có trong dòng tâm thức của Ngài một sự
tỉnh giác trong trẻo và thuần tịnh như pha lê tương tự như tâm giác ngộ.
Hiện diện bẩm sinh trong tâm thái đó là những phẩm tính đem lại việc
chấm dứt sự tái sinh trong tất cả sáu cõi. Sự tỉnh thức thường xuyên về
Đức Chenrezig, và việc học tập để phát triển tâm ta như Đức Chenrezig
nhờ việc sử dụng sự quán tưởng, thần chú, sự trì tụng và ý hướng thanh
tịnh, có thể tạo nên việc chấm dứt sự tái sinh trong vòng luân hồi sinh
tử, ngay cả trong một đời người.
Tính chất luận lý ở đây là trong sự thực hành bạn là người phát triển
chính mình như Bồ Tát Chenrezig. Bạn thành tựu tâm thái thanh tịnh này
để làm lợi ích chúng sinh. Như vậy sự chấm dứt thực sự nỗi đau khổ có
thể được hiểu như năng lực của bạn để phát triển bản thân bạn như vị Bồ
Tát của lòng Bi mẫn đó, bằng cách ấy trở thành nguyên nhân cho sự chấm
dứt mọi nỗi khổ. Khi làm như thế, ta cũng đem lại sự chấm dứt đau khổ
của riêng ta.
Thần chú OM MANI PADME HUM của Đức Chenrezig có sáu âm. Mỗi âm có khả
năng tiệt trừ những nguyên nhân của việc tái sinh trong mỗi một trong
sáu cõi, bởi tự bản thân thần chú và mỗi một âm được coi là một sự cô
đọng kỳ diệu của trí tuệ. Nhờ hoạt động của Guru Rinpoche (Đức Liên Hoa
Sanh), chúng ta có thể kinh nghiệm trong việc lắng nghe hay trì tụng
những âm này và quán tưởng bản thân ta như Đức Chenrezig, sự tịnh hoá
toàn hảo những nguyên nhân cho việc tái sinh trong tất cả sáu cõi luân
hồi sinh tử. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được. Bạn được hứa hẹn
rằng nếu bạn thực hành điều này mỗi ngày bạn có thể thành tựu việc chấm
dứt sự tái sinh trong các cõi thấp. Và nếu nó được thực hành trong sự
nối kết với những thực hành khác thì nó là một bộ phận của một khoa kỹ
thuật đã được thử thách để chấm dứt đau khổ trong tất cả các cõi./.
Jetsunma Ahkon Lhamo
Nguyên tác: Life in the Six Realms, Om Mani Padme Hum, A Teaching from Jetsunma Ahkon Lhamo
http://tara.org/teachings.htm
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/saucoi_Ommani_padme_hum.htm