Những thành quả ấy đã giúp cho cuộc sống
con người tiện nghi hơn nhiều, khoảng cách về không gian được thu ngắn
lại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả ấy thì cũng nảy sinh những vấn
đề gây nhức nhối trong xã hội. Môi trường sống của con người đang bị
xuống cấp nghiêm trọng. Con người đang phải đối mặt với nhiều nguy hiểm
do thiên tai gây ra. Chưa bao giờ mạng sống của con người lại mong manh
như bây giờ, con người có thể bị ốm đau, bị mất khả năng lao động và
thậm chí là có thể bị mất mạng chỉ trong phút chốc do những phương tiện
hiện đại mà con người đã tạo ra. Nguy cơ hủy diệt loài người do chiến
tranh hạt nhân, chiến tranh sinh học đang rình rập và có thể xảy ra bất
cứ lúc nào.
Quan trọng hơn là vấn đề đạo đức, nhân phẩm của con người đang bị
xuống dốc nghiêm trọng. Con người càng ngày càng ích kỷ hơn và sống theo
bản năng nhiều hơn. Con người bị cuốn vào dòng xoáy của công việc, tiền
tài, danh vọng và địa vị. Vì chịu nhiều áp lực của cuộc sống, họ luôn
sống trong trạng thái căng thẳng, họ hiếm có được thời gian để thư giãn
cho thật bổ ích, họ sống vội, sống cuồng, tìm thú vui trong vật chất để
lấp đi khoảng trống trong tâm hồn, nhưng càng lấp thì càng cảm thấy
trống trải. Vì vậy họ luôn phải đối mặt với sự cô đơn, buồn khổ. Sống
trong biển lớn của vật chất mà vẫn luôn cảm thấy khát, cảm thấy thiếu.
Họ thiếu tình thương yêu và khát khao có được sự bình lặng của tâm hồn.
Hơn bao giờ hết, đây chính là lúc để cho các tôn giáo thể hiện chức năng
của mình. Trong đó, vai trò của Phật giáo không kém phần quan trọng. Vậy
thì Phật giáo phải làm gì, phải truyền bá giáo lý của mình như thế nào
để có thể góp phần đưa nhân loại vượt qua được những khó khăn trong hiện
tại?
Giáo lý mà đức Thế Tôn đã giảng dạy là cả một kho tàng vô cùng phong
phú và quí báu. Mặc dầu đã trải qua hơn 25 thế kỷ, nhưng những lời dạy
ấy mang lại nhiều giá trị, phù hợp với con người trong hiện tại và giúp
ích rất nhiều cho xã hội.
Vì thế, những người đệ tử Phật phải là những tấm gương sáng trong
việc học hỏi và thực hành theo những lời đức Phật dạy và phải chung sức
với nhau để truyền bá đạo Phật, để giúp cho nhiều người biết đến đạo
Phật, biết đến giáo lý của đức Phật và được tắm gội trong biển giáo pháp
ấy.
Nhiệm vụ hoằng truyền giáo pháp của đức Phật là nhiệm vụ chung của
những người đệ tử Phật, chứ không riêng gì tu sĩ. Tu sĩ cũng như cư sĩ
đều có thế mạnh riêng của mình trong công cuộc hoằng truyền giáo pháp.
Dẫu rằng tu sĩ là lực lượng nòng cốt, nhưng số lượng tu sĩ so với cư sĩ
thì không đáng là bao. Hơn nữa, cư sĩ lại là những người trực tiếp tham
gia vào các hoạt động của xã hội, vì thế họ có điều kiện tiếp xúc với
nhiều người và môi trường sống, làm việc của họ rộng hơn nhiều so với tu
sĩ. Vả lại, cư sĩ thường am hiểu nhiều về các lĩnh vực khoa học và đời
sống. Nếu họ có nền tảng vững chắc về giáo lý đạo Phật thì họ sẽ rất dễ
thành công trong việc hoằng truyền chánh pháp đến với mọi người, dễ cảm
hóa người khác đến với đạo Phật. Chẳng hạn một giáo viên, trong lúc
giảng về các lĩnh vực khoa học mà có thể trích dẫn những lời dạy của đức
Phật để chứng minh, để giảng giải vấn đề và có thể lồng ghép một cách
khéo léo những tư tưởng của đạo Phật vào trong bài giảng thì rất dễ làm
cho người học cảm mến đạo Phật, tin vào đức Phật và niềm tin của họ kiên
cố hơn nhiều. Có thể là những học viên đó không chính thức trở thành một
Phật tử, không đi chùa, lễ Phật, nhưng không nhất thiết phải như thế.
Chỉ cần họ hiểu giáo lý của đạo Phật và sống theo giáo lý ấy thì họ
nghiễm nhiên đã là Phật tử rồi chứ không cần phải có lễ quy y. Tuy nhiên
nếu họ có thể quy y Tam bảo thì càng tốt.
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, có không ít những vị cư sĩ là giáo
thọ sư, có công lao rất lớn trong công cuộc hoằng pháp. Họ không chỉ
giảng dạy cho cư sĩ mà họ còn là bậc thầy của những vị tu sĩ. Thời đại
Lý Trần thì có Tuệ Trung thượng sĩ, thầy của Sơ tổ Trúc Lâm Trần Nhân
Tông. Trong công cuộc chấn hưng Phật giáo vào đầu thế kỷ XX thì có Bác
sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, có bác Chánh Trí Mai Thọ Tuyền, cư sĩ Thiều
Chửu, v.v… Những vị ấy có sức ảnh hưởng lớn không kém gì các vị cao
tăng, thạc đức. Vì thế, các vị cư sĩ cần ý thức được vai trò và trách
nhiệm của mình trong công cuộc hoằng truyền giáo pháp, cư sĩ cũng có thể
giảng đạo, cũng có thể truyền bá chánh pháp. Và không nhất thiết phải
“thăng tòa thuyết pháp” mới là giảng đạo. Họ có thể truyền bá chánh pháp
dưới bất cứ hình thức nào và bất cứ ở đâu, đôi khi chỉ cần một lời an
ủi, động viên, chỉ cần lắng nghe và tâm sự với bạn bè, người thân… cũng
đã là truyền bá chánh pháp.
Một điều hết sức quan trọng mà những người truyền bá chánh pháp phải
luôn luôn ghi nhớ, giáo lý của đức Phật không phải là triết thuyết,
không phải để luận bàn suông. Giáo lý ấy là giáo lý thực nghiệm, tri
hành hợp nhất. Vì thế, tự thân mình phải biết vận dụng những lời dạy của
Ngài vào trong cuộc sống, phải là những người mẫu mực trong giáo pháp
của Phật. Truyền bá chánh pháp không chỉ bằng lời nói mà bằng hành động,
hay nói cách khác là không chỉ có “khẩu giáo” mà còn phải có cả “thân
giáo”. Trong đó, thân giáo có sức cảm hóa lớn hơn nhiều. Và khi mình đã
thực tập thì mình sẽ có được kinh nghiệm tu tập. Kinh nghiệm ấy sẽ giúp
ích rất nhiều cho mình trong việc giảng dạy hay chia sẻ với người khác.
Để cho tất cả Phật tử đều có thể trở thành sứ giả của Như Lai, có thể
giảng giải cho người khác hiểu giáo lý của Phật thì họ cần được đào tạo.
Ít nhất là phải giúp họ hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản, những giáo
lý nền tảng, cốt yếu của đạo Phật. Vì thế, bên cạnh công việc tất yếu là
phải đào tạo những vị tu sĩ trẻ, chăm lo cho thế hệ tương lai của Phật
giáo, cần phải tổ chức những khóa tu tập, các lớp học để giảng dạy giáo
lý cho hàng ngũ Phật tử tại gia. Vấn đề này cũng không kém phần quan
trọng. Còn về phía Phật tử tại gia thì phải có tinh thần học hỏi giáo
lý, phải biết thao thức trước vận mệnh và tương lai của đạo pháp. Phật
tử cần phải biết tận dụng mọi cơ hội để có thể học hỏi giáo lý và mở
rộng tri thức, kinh nghiệm của mình. Những lúc Phật tử đến chùa lễ Phật,
gặp gỡ quý thầy cô, trò chuyện cùng quý thầy cô là những dịp tốt để Phật
tử học hỏi giáo lý, họ có thể nêu lên những nghi vấn của mình hoặc là
nhờ các vị ấy giảng giải thêm về những giáo lý mà mình còn mập mờ, chưa
hiểu thấu đáo… Nếu làm được như thế thì không chỉ người Phật tử hiểu sâu
về đạo Phật, mà họ còn tạo ra động lực thúc đẩy các vị tu sĩ tích cực
học tập và nghiên cứu giáo lý, chuyên tâm áp dụng những giáo lý đã được
học tập trong đời sống của mình.
Việc giảng dạy giáo lý cũng như giảng dạy những kiến thức khác, phải
tùy theo đối tượng mà lựa chọn những nội dung và phương pháp truyền thụ
thích hợp. Tính phù hợp là nhân tố quyết định sự thành công của bài
giảng. Để đánh giá một bài giảng hay thì không chỉ dựa vào nội dung của
nó mà còn phải dựa vào tính phù hợp của nó nữa, tức là bài giảng đó được
người học tiếp thu ở mức độ nào. Đành rằng nội dung hợp với chân lý,
chuyển tải nhiều kiến thức, nhiều thông điệp là điều quan trọng. Nhưng
nếu như khi nghe nội dung ấy, người nghe không hiểu, hoặc là hiểu rất mơ
hồ thì không thể xem là thành công được. Do đó, không phải cứ trích dẫn
cho thật nhiều kinh sách, chú thích nhiều ngoại ngữ, nêu lên thật nhiều
những giáo lý cao siêu là đạt. Phải tùy theo đối tượng để rồi truyền đạt
những nội dung phù hợp với họ. Có khi cần phân tích, đào sâu giáo lý,
nhưng đôi khi chỉ cần những câu nói mộc mạc, đơn giản, những ví dụ cụ
thể, gần gũi với cuộc sống cũng có thể giúp cho người nghe hiểu được vấn
đề. Chính vì vậy, người truyền đạt cần phải linh động, cần phải nhạy cảm
trước đối tượng của mình, phải nắm bắt được đặc điểm của đối tượng để có
thể làm cho bài giảng của mình đem lại nhiều lợi ích cho người nghe. Để
làm được điều đó thì có một vài vấn đề mà người truyền đạt cần phải đặt
ra cho mình và phải giải quyết được chúng trước khi đến truyền đạt cho
người, đó là phải biết: Giảng dạy cho ai? Giảng dạy những gì? Giảng dạy
như thế nào? Giảng dạy như thế thì có thể giúp ích gì cho người nghe?
Nếu người giảng thông suốt được những vấn đề này thì chắc chắn bài giảng
sẽ thành công. Và những vấn đề này cũng nên đặt ra cả khi trò chuyện với
người khác.
Trong xã hội hiện tại, mọi người đang chạy đua với thời gian, vùi đầu
vào công việc, vì thế họ ít có thời gian để đến chùa nghe pháp. Do vậy,
để có thể tổ chức những lớp học giáo lý tập trung cho Phật tử là vấn đề
không phải dễ. Mà có tổ chức được thì hầu hết những người tham dự là
những người Phật tử đã thuần thành. Để có thể rộng truyền chánh pháp
trong thời đại ngày nay, chúng ta phải biết tận dụng những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, phải biết tận dụng các phương tiện truyền thông hiện
đại trong việc hoằng pháp, chẳng hạn như mạng lưới Internet, băng, đĩa,
sách, báo, và cả vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền hình nữa. Đấy là
những phương tiện hỗ trợ rất đắc lực cho việc truyền bá chánh pháp đến
với mọi thành phần, mọi tầng lớp trong xã hội.
Có một thực trạng đáng buồn trong Phật giáo hiện tại, có một bộ phận
không nhỏ những người Phật tử không hiểu gì về giáo lý của đạo Phật,
hoặc là hiểu rất mơ hồ. Họ đến với đạo Phật với niềm tin không đúng đắn.
Phật hay Bồ-tát đối với họ là những vị thần có thể ban phước giáng họa,
là những vị thần tài, thần hộ mạng. Họ lễ Phật để cầu mua may bán đắt,
để cầu tai qua nạn khỏi, tật bệnh tiêu trừ,… Họ rất sùng mộ đạo Phật,
nhưng cũng rất dễ bỏ đạo, trở lại phỉ báng đạo. Như thế thì thật là tội
nghiệp cho họ và nguy hiểm cho đạo vô cùng. Họ không biết được rằng, đức
Phật chỉ là người thầy chỉ đường, Ngài không có uy quyền gì để ban phước
giáng họa cả. Họa hay phước là do chính mình tạo ra. Tất cả đều vận hành
theo định luật nhân quả. Họ chỉ có thể đạt được niềm an vui, hạnh phúc
khi chính họ biết áp dụng những lời dạy của Phật vào trong đời sống của
bản thân. Nguyên nhân chính của thực trạng trên là do sự thiếu hiểu
biết. Ý thức là nhân tố ảnh hưởng, tác động đến hành động. Khi ý thức đã
được thay đổi, có sự hiểu biết đúng đắn thì hành động cũng theo đó mà
thay đổi dần dần. Vì thế, để giúp họ có được chánh tín đối với Tam bảo,
trở thành một Phật tử chơn chánh thì phải tạo điều kiện cho họ học hỏi
giáo lý, giúp họ hiểu giáo lý và biết cách áp dụng giáo lý vào trong
cuộc sống, giúp họ cảm nhận được những lợi ích thiết thực từ việc thực
tập giáo lý của đức Phật. Làm được điều đó thì không lo gì không có được
những người Phật tử chơn chánh, có tâm huyết với đạo.
Đạo pháp được trường tồn là nhờ sự có mặt của chúng đệ tử xuất gia
lẫn tại gia. Cả hai chúng ấy đều có trách nhiệm trong việc hoằng truyền
chánh pháp, cộng tác với nhau và hỗ tương cho nhau để truyền dạy giáo lý
đến với mọi người một cách hiệu quả nhất. Nếu thiếu một trong hai chúng
đó thì đạo Phật không thể nào tồn tại ở thế gian được. Trong xã hội hiện
tại, rất cần có sự cộng tác giữa tu sĩ và cư sĩ, rất cần có một lực
lượng đủ mạnh có tâm huyết với đạo, có hiểu biết về giáo lý và có kinh
nghiệm tu tập để có thể đem đạo vào đời. Mong sao những người đệ tử Phật
sẽ sát cánh bên nhau để xiển dương đạo pháp, góp phần xây dựng cuộc sống
ngày thêm tươi đẹp.■
Nguồn:
phapluanonline.com