Đó là các ngọn gió lợi dưỡng và không
lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, chỉ trích, tán thán, vui sướng
và đau khổ.
Phật cũng nói cho chúng ta biết mọi thứ
trên thế gian này đều thay đổi, vôi thường, cần phải khéo nhận diện,
khéo suy tư tác ý thường xuyên để thoát khỏi cái họa khổ đau vì tâm tham
ái dính mắc. Ngài dạy rằng tất cả những gì mà con người nhận đượctrong
cuộc đời, dù tốt hay xấu, thích ý hay không thích, nếu thay đổi biến
hoại, không đáng cho ta nắm giữ trong tâm. Bởi vì, nếu cứ tham luyến nắm
giữ mọi thứ thì con người sẽ phải đau khổ triền miên do tâm cứ thuận
ứng (thích thú luyến ái với cái tốt, cái có lợi) và nghịch ứng (chán
ghét bực phiền đối với cái không tức là biểu hiện của tâm dao động mê
mờ, không tỉnh táo sáng suốt, thiếu cân nhắc gắn liền với các hậu quả
đầy phiền toái khổ đau.
Sự đời có hay không, được hay mất, tốt
hay xấu chỉ là hiện tượng tương đối diễn ra hoàn toàn không như ý mình
muốn, vì thế mà con người luôn học cách “biết đủ” (đối với cái được và
cái không có được) để cho tâm hồn được thảnh thơi và cần nhận ra cái
bản chất giới hạn, vô thường của hiện hữu để bớt phản ứng quay cuồng.
Còn phản ứng quay cuồng – thuận ứng và nghịch ứng – tức là còn nô lệ cho
dục vọng khổ đau. Đức Phật gọi thái độ thuận ứng và nghịch ứng đối với
thực tại sinh diệt biến đổi vô thường của dòng đời là vô minh, thất
niệm, biểu hiện của cái tâm nhỏ mọn.Thuận ứng với cái tốt, cái có lợi
thì tham có cơ hội dấy khởi đi đến tăng trưởng. Trái lại nghịch ứng với
cái không tốt, không có lợi thì sân có lý do sinh khởi, đi đến tăng
trưởng. Tham và sân là con đẻ của si và vô minh, tức sự mê mờ, không
thấy rõ bản chất vô thường bất toại của hiện hữu, nên tâm cứ phản ứng
quay cuồng – thuận ứng và nghịch ứng - trước mọi sự kiện sinh diệt vô
thường của cuộc đời. Như vậy, do si hay vô minh nên tâm cứ thuận ứng với
cái tốt, cái có lợi khiến tham dấy khởi đi đến tăng trưởng. Tương tự,
do si hay vô minh nên tâm cứ nghịch ứng đối với cái không tốt, không có
lợi khiến sân dấy khởi đi đến tăng trưởng. Tham, sân, si là ba độc tố
tàn hại sức khỏe và tâm trí của con người khiến con người mù lòa, rơi
vào điên đảo quay cuồng trong vòng xoáy của dục vọng hảo huyền, gây tạo
nên mọi ác nghiệp dẫn đến hậu quả khổ đau – khổ cho mình, khổ cho người,
khổ cho cuộc đời. Do đó, tham sân si mà dấy khởi và lớn mạnh trong con
người thì cuộc đời rơi vào chao đảo bất an. Trái lại, vô tham, vô sân,
vô si được nuôi dưỡng và phát triển thì đời sống trở nên hài hòa và an
lạc.
Để giúp cho mọi người nhận diện hậu quả
phiền toái khổ đau do tâm cứ thuận ứng và nghịch ứng đối với muôn sự
muôn việc ở đời. Phật nêu hình ảnh một kẻ vô văn phàm phu chưa có nhân
duyên học hiểu Phật pháp nên bị tám ngọn gió thế gian quấy rối phải chịu
khổ đau liên tục và một vị đa văn thánh đệ tử nhờ hiểu rõ và thực
hành lời Phật dạy nên không còn tám ngọn gió thế gian làm cho điên đảo.
Nói khác đi, Phật khuyên nhắc chúng ta rằng sự đời thực hư biến đổi khôn
lường, như gió thoảng mây bay, nên mỗi người hãy giữ tâm bình thản hay
tập buông xả đối với mọi thứ, thích ý cũng như không thích ý, để thoát
khỏi cái tâm phản ứng vùng vẫy mệt mõi mà sống thảnh thơi an lạc trên
cuộc đời, vì sớm muộn tất cả đều ra đi.
Sau đây là toàn văn lời giảng dạy của Đức Phật:
“Tám thế gian pháp này, này các Tỳ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này. Thế nào là tám?
Lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng. Chỉ trích và tàn thán, an lạc và đau khổ.
Với kẻ phàm phu không nghe pháp, này các
Tỳ-kkheo, có đặc thù gì, có sai khác gì giữa vị Thánh có nghe pháp và
kẻ phàm phu không có nghe pháp?
Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm
căn bản, lấy Thế Tôn làm chỉ đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương dựa. Lành
thay, Bạch Thế Tôn xin Thế Tôn giảng cho ý nghĩa của lời nói này. Sau
khi nghe Thế Tôn, các Tỳ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỳ-kheo, hãy lắng nghe và suy niệm kỹ, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn.
Các Tỳ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Với kẻ phàm phu không nghe pháp, này các
Tỳ-kheo khởi lên lợi dưỡng, vị ấy không có suy tư: “Lợi dưỡng này khởi
lên nơi ta, lợi dưỡng ấy vô thường, biến hoại” . Vị ấy không như thật rõ
biết: “Lợi dưỡng này khởi lên nơi ta, lợi dưỡng ấy vô thường biến hoại,
“khởi lên không lợi dưỡng, vị ấy không có suy tư: “Không lợi dưỡng này
khởi lên nơi ta, không lợi dưỡng ấy vô thường, biến hoại”. Vị ấy không
như thật rõ biết: “Không lợi dưỡng này khởi lên nơi ta, không lợi dưỡng
ấy vô thường biến hoại”, [tương tự đối với các cặp khởi lên danh vọng và
khởi lên không danh vọng, khởi lên chỉ trích và khởi lên tán thán, khởi
lên an lạc và khởi lên khổ đau, vị ấy đều không có suy tư rằng các pháp
ấy khởi lên đều là các pháp vô thường biến hoại]. Vì vậy, lợi dưỡng xâm
nhập tâm của người ấy và an trú, không danh vọng xâm nhập tâm của người
và an trú, không danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, chỉ
trích xâm nhập tâm của người ấy và an trú, tán thán xâm nhập tâm của
người ấy và an trú, an lạc xâm nhập tâm của người ấy và an trú, đau khổ
xâm nhập tâm của người ấy và an trú”. Người ấy thuận ứng với lợi dưỡng
được khỏi lên và nghịch ứng với không lợi dưỡng; thuận ứng với danh
vọng được khởi lên và nghịch ứng với không danh vọng; thuận ứng và tán
thán được khởi lên và nghịch ứng với chỉ trích; thuận ứng với an lạc
được khởi lên và nghịch ứng với đau khổ. Người ấy đầy đủ thuận ứng,
nghịch ứng như vậy, nên không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não. Ta nói rằng, người ấy không thoát khỏi khổ.
Với vị thánh đệ tử có nghe pháp, này các
Tỳ-kheo, khởi lên lợi dưỡng, vị ấy có suy tư: “Lợi dưỡng này khởi lên
nơi ta, lợi dưỡng ấy vô thường biến hoại”. Vị ấy như thật rõ biết: “Lợi
dưỡng này khởi lên nơi ta, lợi dưỡng ấy là vô thường, biến hoại”; khởi
lên không lợi dưỡng, vị ấy có suy tư: “Không lợi dưỡng này khởi lên nơi
ta, không lợi dưỡng ấy vô thường biến hoại”. Vị ấy như thật rõ biết:
“Không lợi dưỡng này khởi lên nơi ta, không lợi dưỡng ấy vô thường, biến
hoại” [ Tương tự đối với các cặp khởi lên danh vọng và khởi lên không
danh vọng, khởi lên chỉ trích và khởi lên tán thán, khởi lên an lạc và
khởi lên khổ đau, vị ấy đều có suy tư rằng các pháp ấy vô thường, biến
hoại; vị ấy cũng như thật rõ biết rằng các pháp ấy khởi lên đều là các
pháp vô thường, biến hoại]. Do vậy, lợi dưỡng không xâm nhập tâm của vị
ấy và an trú, không lợi dưỡng không xâm nhập tâm cũa người ấy và an trú,
danh vọng không xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không danh vọng
không xâm nhập tâm của người ấy và an trú, chỉ trích không xâm nhập tâm
của người ấy và an trú, tán thán không xâm nhập tâm của người ấy và an
trú , an lạc không xâm nhập tâm của người ấy và an trú, đau khổ không
xâm nhập tâm của người ấy và an trú”. Người ấy không thuận ứng với lợi
dưỡng đucợ khởi lên và không nghịch ứng với không lợi dưỡng, không thuận
ứng với danh vọng được khởi lên và không nghịch ứng với không danh
vọng; không thuận ứng với tán thán được khởi lên và không nghịch ứng với
chỉ trích; không thuận ứng với an lạc được khởi lên và không nghịch ứng
với đau khổ. Vị ấy do đoạn tận thuận ứng, nghịch ứng như vậy, nên giải
thoát khỏi sanh già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng vị ấy
thoát khỏi khổ.
Đây là đặc thù, này các Tỳ-kheo, đây là
thù thắng, đây là sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm
phu không nghe pháp.
Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng,
Chỉ trích và tán thán,
An lạc và đau khổ.
Những pháp này vô thường,
Không thường hằng biến diệt,
Biết chúng, giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt.
Pháp khả ái, không động,
Không khả ái, không sân.
Các pháp thuận hay nghịch
Được tiêu tan không còn,
Sau khi biết con đường,
Không trẩn cấu không sầu,
Chơn chánh biết sanh hữu.
Đi đến bờ bên kia.
Chú thích:
1- Đại kinh Đoạn tận ái, Trung Bộ
2- Kinh Tùy chuyển thế giới, Tăng Chi Bộ
PHÓ ĐỨC HÙNG