Truyện kể về cuộc đời của Đức Phật
từ khi đản sinh cho đến khi lập gia đình là năm 16 tuổi; năm 29 tuổi
thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) quyết chí xuất gia tu hành tìm đường
diệt khổ; đến năm 35 tuổi giác ngộ ra chân lý, đắc đạo và trở thành
Phật. Trong suốt 45 năm sau đó Ngài đi thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh
rồi cuối cùng viên tịch nhập niết bàn vào năm 80 tuổi.
Trong Phật giáo chia ra làm 2 trường
phái chính: Phật giáo Đại Thừa và Giáo lý Tiểu Thừa. Tiểu thừa
(Hīnayāna) nghĩa là cỗ xe nhỏ. Đặc điểm của giáo lý Tiểu thừa là không
đưa ra lí thuyết về Niết bàn, mà lấy sự giác ngộ bản thân làm trọng.
Trái lại, phật giáo Đại thừa (Mahāyāna) – tức cỗ xe lớn – thì đa dạng
hơn, tập trung vào việc mở đường giác ngộ cho chúng sinh.
Bản thân Đại thừa lại được chia ra nhiều
bộ phái khác nhau truyền qua các vùng Tây Tạng, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Nhật Bản và Việt Nam. Về mặt thời gian, Đại thừa Phật giáo gồm ba kỳ: Sơ
kỳ, Trung kỳ và Vãn kỳ. Phật giáo Tây Tạng là sự khai triển độc đáo của
Đại thừa Mật giáo thời Vãn kỳ kết hợp uyển chuyển với những nét văn hoá
lâu đời của người bản xứ đã có mặt trước đó trên cao nguyên Thanh –
Tạng hàng trăm năm, trải qua quá trình sàng lọc, tôn vinh, và cả những
cách tân, biến cải, song song là sự giao thoa liên tục với Phật giáo
Nepal và Trung Quốc; đã xây dựng nên một thế giới tâm linh huyền bí, một
tinh hoa Phật giáo có lẽ là rực rỡ nhất trong lịch sử nhân loại!
a. Thời Phật giáo Tiền truyền:
Đi ngược dòng thời gian, sử cũ chép
chuyện vua Nam Nhật Tùng Tán (hay Luân Tố Tán, Namri Songtsen) – vị vua
đời thứ 32 của Tây Tạng – đã xây dựng vương triều Nhã Lung (Yarlung)
trong lòng thung lũng Nhã Lung, quân đội của người Tạng khi đó hung
mãnh, bách chiến bách thắng. Nhưng phải đến thời con trai ông là vua
Tùng Tán Cương Bố (hay Khí Tông Lộng Tán, Songtsen Gampo) (629-650) thì
quốc gia Thổ Phồn mới thực sự thống nhất và hùng cường. Sau khi tiêu
diệt nước Thổ Cốc Hồn (1 hãn quốc ra đời trong loạn Ngũ Hồ thập lục quốc
của Trung Hoa – nay thuộc tỉnh Thanh Hải), ông tiến về phía Đông và
bang giao với nhà Đường (nhắm vào thời kỳ vua Đường Thái Tông). Bước
ngoặt lịch sử bắt đầu từ đây, vua Đường Thái Tông đem cháu gái của mình
là công chúa Văn Thành (Princess Wencheng) gả cho vua Songtsen Gampo.
Cùng lúc đó, trong cuộc chiến đánh xuống phía Nam chinh phục nước Ni Bạc
Nhĩ (hay Nepal ngày nay), vua kết hôn với công chúa Nepali Ba Lợi Khố
Cơ (Princess Bhrikuti Devi). Hai cuộc hôn phối với hai công chúa đều là
đệ tử Phật giáo, lại thêm những ảnh hưởng tất yếu đến từ vùng biên ngoại
(mà ở đây là Ấn Độ và Trung Quốc), đã hun đúc tinh thần Phật giáo từ từ
nhưng mạnh mẽ giữa lòng Tây Tạng – mà khi đó vẫn còn theo quốc giáo cũ
Bon.
Vua Songtsen Gampo sau đó cho ban hành
Thập Hiền Thiện (mười điều hiền thiện) và Thập lục Yếu (mười sáu yếu
luật) lấy Phật giáo làm kim chỉ nam để răn dạy dân chúng. Còn hai hoàng
hậu của ông mang theo những tài sản vô giá từ đất nước mình như tượng
Phật A Súc Kim Cương, tượng Phật Di Lặc, tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, tượng
thái tử Tất Đạt Đa, tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng kinh luận
và văn vật khác, kèm theo các Tăng Ni tháp tùng. Có lẽ là nhân duyên
hay cũng là định mệnh lịch sử, sự khác nhau về hình thái và triết lý
Phật giáo của Ấn Độ – Nepal – Trung Quốc không những không bài trừ nhau
mà còn dung hoà, bổ sung cho nhau, tô thắm sắc màu đa dạng của Phật giáo
Tây Tạng. Do đó, người ta sau này ghi công khai phá Phật giáo lớn nhất
cho vua Tùng Tán Cương Bố, và tất nhiên không thể quên vinh danh hai
hoàng hậu của ông. Họ sùng bái hai bà như Đa La Thiên Nữ (Tara), là
người mẹ cứu độ chúng sinh (Độ Mẫu nữ tôn của Mật tông): coi công chúa
Văn Thành là hoá thân của Thanh Đa La (Green Tara), và công chúa Ba Lợi
Khố Cơ là hoá thân của Bạch Đa La (White Tara). Cũng phải để ý rằng, từ
đây người dân Tây Tạng không chỉ sùng bái Phật giáo mà còn coi trọng các
vị vua của họ ngang với Phật, coi các vị vua và những người nổi tiếng
là hoá thân nhiều kiếp của Phật.
(Ảnh vua Songtsen Gampo và hoàng hậu Văn Thành bên phải, hoàng hậu Ba Lợi Khố Cơ bên trái)
Để có nơi thờ cúng và lễ kính Tam Bảo
(Tam Bảo bao gồm Phật Bảo Buddha – nơi thờ Phật, Pháp Bảo Dharma – lưu
trữ kinh sách giáo pháp, và Tăng Bảo Sangha – nơi học tập tu dưỡng của
tăng ni), vua Songtsen Gampo đã lấy vùng Lạp Tát (Lhasa) làm trung tâm
và cho dựng hành cung Bố Đạt La (Potala). Đồng thời để có sự phân biệt
giữa hai hoàng hậu, vua đã cho xây 2 ngôi chùa: Đại Chiêu Tự (Jokhang
Temple) và Tiểu Chiêu Tự. Đại Chiêu Tự dành cho công chúa Văn Thành thờ
tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, còn Tiểu Chiêu Tự dành cho công chúa Ba Lợi
Khố Cơ thờ đức Đông Phương A Súc Phật (Kim Cương Phật). Nếu bạn đọc hứng
thú tìm hiểu sâu hơn nữa có thể tham khảo cuốn truyện Mật mã Tây Tạng
của dịch giả Lục Hương vừa ra mắt ở Việt Nam năm 2010, tuy câu chuyện
pha màu dã sử hư cấu nhưng ít nhiều đều dựa theo chính sử vùng Thanh –
Tạng mà chép lại. Đại Chiêu Tự ngày nay vẫn còn được bảo quản tốt và đón
du khách vào tham quan, chỉ có Tiểu Chiêu Tự đã bị huỷ hoại sau Cách
mạng văn hoá.
Vua Songsten Gampo mất đi, vương triều
Thổ Phồn lại tục truyền thêm 4 đời nữa và tiếp bước khuyếch trương Phật
giáo. Đến giai đoạn những năm 680-742, vua Xích Đức Tổ Tán (hay Khí Đãi
Xúc Tán, Me Agtsom) lại được vua Đường Trung Tông đem công chúa Kim
Thành (Princess Jincheng) gả cho. Kim Thành công chúa cũng là một Phật
tử, bà đã mang vào Tây Tạng vô vàn Phật điển và Dược học, Số học của
Trung Quốc. Từ đây các tài liệu quý báu này được dần dần dịch ra Tạng
văn và lưu truyền rộng rãi. Đặc biệt hơn, con trai bà, mà sau này trở
thành vua Xích Tùng Đức Tán (hay Cật Phiêu Song Đề, Trisong Detsen)
(755-780) là người có công lớn trong việc đưa Phật giáo lên một tầng
hưng thịnh nữa, thoát khỏi vòng suy vong do sự bài xích phe phái cũng
như áp lực ngầm của cổ giáo Bon. Sức mạnh quân sự của thời vua Xích Tùng
Đức Tán thậm chí còn vượt xa giai đoạn vua Tùng Tán Cương Bố; biên giới
Tây Tạng bành trướng ra Thanh Hải, Tứ Xuyên; có lúc quân đội Thổ Phồn
còn vây hãm Trường An và đánh sang Ấn Độ. Vua cũng là người cho xây dựng
Tu viện Phật giáo đầu tiên ở Tây Tạng: tu viện Tang Diên (Samye
Monastery), thuộc địa giới vùng U. Tu viện này được xây trong vòng gần
20 năm, có kiến trúc độc đáo gồm 3 tầng lớn mà tầng 1 theo phong cách
người Tạng, tầng 2 xây theo phong cách nhà Đường, và tầng 3 là dựa theo
cấu trúc Ấn Độ.
(Samye Monastery)
Một sự kiện quan trọng khác đó là việc
vua Xích Tùng Đức Tán khi còn tại vị đã thỉnh được đại sư Liên Hoa Sinh
(Padmasambhava) từ Ấn Độ sang Tây Tạng để truyền đạo. Không giống như
những người đã từng đi truyền đạo Phật ở Tây Tạng trước đó, đại sư Liên
Hoa Sinh đã là người đạt được đại thành tựu (Guru Rinpoche) về Mật tông,
hiểu được sự khác biệt của cổ giáo Bon so với Phật giáo: đó là sự tôn
sùng quỷ thần và bùa chú của Bon giáo! Ông cùng 25 đệ tử dùng lý luận
Phật môn kết hợp với Mật chú hàng phục yêu ma, đem sức mạnh yêu ma biến
thành uy lực hộ pháp cho cửa Phật, dần dần như thế đã cảm hoá và dẫn dụ
người dân Tây Tạng tình nguyên quy y Tam Bảo Từ đây đánh dấu sự ra đời
của tông Ninh Mã (Nyingma Sect) – tông đầu tiên của Phật giáo Tây Tạng
mang hoàn toàn bản sắc riêng của mảnh đất cao nguyên này Phái Ning Mã có
sắc phục mũ đỏ, nên còn được gọi là Hồng Mạo Giáo; Liên Hoa Sinh được
coi là sư tổ của tông phái này. Dấu ấn của phái Ninh Mã rõ ràng nhất ở
vùng Kham – phía Đông Tây Tạng, thể hiện ở những tu viện như Lamaling
Monastery (thuộc Nyingchi), Tsozong Monastery (trên hồ Basum-tso).
(Lamaling Monastery)
Dòng thời gian lại trôi chảy, đến giai
đoạn 818-838, vua Tạng đời thứ 41 là Xích Tổ Đức Tán (Tri Ralpacan) lại
xây dựng sức mạnh quân sự của Thổ Phồn đến mức cực thịnh và tiếp tục
chiến tranh với nhà Đường. Khiếp sợ uy thế Tạng vương, nhà Đường với
nước Thổ Phồn đã đồng ý ký minh thệ Sinh Cửu Liên Minh Bia để thương
thuyết hoà bình cho vùng biên cảnh (the Sino-Tibetan treaty); cho lập 3
bia đá khắc lại văn kiện này: một bia giữ ở cửa đền Jokhang trong thành
phố Lhasa, một bia giữ ở biên giới 2 nước, và một bia giữ trong kinh
thành Trường An (Xian). Đến nay 2 văn bia sau đã mất, chỉ còn lại văn
bia trong Lhasa nhưng chữ khắc phần lớn đã mai một không đọc được. Theo
bản sao văn bia mà người Anh có ở London, trên bia khắc: “…Dân Phồn thổ
an nơi Phồn thổ, Hán tộc trọn vui nơi Đường quốc, ấy là nghiệp lớn của
vua hai nước. Đôi bên giữ gìn minh thệ, vĩnh viễn không đổi dời …”. Vua
Xích Tổ Đức Tán cũng chính là người cho dịch mới và dịch lại tất cả kinh
sách cho nghiêm trang và phù hợp với Tạng văn hơn, chuyển thể tất cả
những tinh tuý Phật môn từ tiếng Phạn (Sanskrit) sang tiếng Tạng
(Tibetan), từ đó tổng hợp thành Đại Từ Điển Phạn-Tạng (Mahàvyutpaatti)
nổi tiếng. Với những cống hiến to lớn ấy, người dân Tây Tạng luôn thờ
phụng vua Xích Tổ Đức Tán (Tri Ralpacan) cùng với vua Tùng Tán Cán Bố
(Songtsen Gampo) và vua Xích Tùng Đức Tán (Trisong Detsen) là Tam Tạng
Vương vĩ đại nhất (three Dharma Kings).
Nhưng phàm ở đời có Sinh có Diệt, có
Thịnh có Suy, Phật giáo Tây Tạng chứng kiến những thời khắc huy hoàng
trải qua mười mấy đời Tạng vương cũng đến lúc suy vi mà nguyên nhân
chính xuất phát từ hình thái xã hội phức tạp của Tây Tạng lúc bấy giờ.
Vì Phật giáo được vương triều hoằng trương, kéo theo sự ra đời của Tăng
chế và những quy định về Tăng dưỡng (cung phụng chu cấp cho Tăng ni), kế
đến là sự gia tăng của Tăng số đã đặt nặng gánh sưu thuế cho người dân.
Trong hoàn cảnh đó, vua Xích Tùng Đức Tán bị em trai mình là Lãng Đạt
Ma (Langdarma) – 1 người cổ xuý cho giáo pháp Bon – hãm hại. Sau khi lên
ngôi, vua Lãng Đạt Ma (839-841) ra tay bức hại Phật giáo, đốt hết kinh
sách, tiến hành bài Phật phá Phật trong vòng 5 năm, gần như thiêu huỷ
hết những công tích gây dựng được cho Phật giáo bởi các Tạng vương đời
trước!
Đến năm 842, vua Lãng Đạt Ma bị nhà sư
Kiết Tường Kim Cang (Pelgyi Dorje) nhân màn múa Black Hat Dance bắn tên
ám sát. Sau sự kiện đó, Phật giáo không những không được chấn hưng,
ngược lại đẩy Tây Tạng rơi vào giai đoạn tranh quyền đoạt vị, nội chiến
liên miên, cục diện thống nhất của vương triều Thổ Phồn đến đây coi như
chấm dứt, thay vào đó là tình trạng cát cứ kéo dài gần trăm năm.
b. Thời Phật giáo Hậu truyền:
Sau
300 năm từ khi đại sư Liên Hoa Sinh vào Tây Tạng và có công khai tông
lập phái cho Ninh Mã; người ta nhắc đến tên tuổi thứ hai: đại sư A Đề Sa
(Atisha) đến từ Thiên Trúc, Ấn Độ năm 1042, là người có công chấn hưng
Phật giáo lúc đó đang suy vong ở Tây Tạng. Từ đây trở về sau, lịch sử
chứng kiến sự ra đời của 3 tông phái lớn còn lại của Tây Tạng mà ít
nhiều đều chịu ảnh hưởng trực tiếp từ A Đề Sa.
Phái Ca Nhĩ Cư (Kagyupa Sect) là tông
lớn thứ hai của Phật giáo Tây Tạng, tên của phái có nghĩa là dòng khẩu
truyền được sáng lập bởi sư Mã Nhĩ Ba (Marpa Lotsawa) (1012-1097), học
trò của đại sư A Đề Sa. Học trò chân truyền của Mã Nhĩ Ba là Mật Lặc
Nhật Ba (Milarepa) là người rất giỏi thi ca với văn phong sắc diệu, đã
thuyết giảng Đại Thừa – Tiểu Thừa – Mật Thừa để giáo hoá dân gian, trở
thành người có công lớn trong việc hưng lại Phật giáo Tây Tạng, mà cụ
thể ở đây là dòng Ca Nhĩ Cư. Một số thiền viện nổi tiếng của dòng
Kagyupa Sect: Tsurphu Monastery (thuộc vùng U), Palpung Monastery (thuộc
Tứ Xuyên ngày nay).
Phái Tát Ca (Sakya Sect) là tông lớn thứ
ba của Phật giáo Tây Tạng do đại sư Cổn Khúc Già Bảo (Konchog Gyalpo)
sáng lập nhằm thế kỷ 11, tương đương với nhà Bắc Tống bên Trung Hoa bấy
giờ. Ông cũng cho xây tu viện Tát Ca (Sakya Monastery) nổi tiếng ở
Shigatse thuộc vùng Tsang. Con cháu của ông sau này kế nghiệp tổ phụ
tiếp tục khuyếch trương giáo pháp, đồng thời lại giữ quan hệ giao hảo
với giới chính trị. Chính vì thế mà vào giai đoạn những năm 1260, khi
cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt dựng cơ đồ
Mông Cổ trong quan nội, Tây Tạng đã thần phục theo nhà Nguyên. Đây đánh
dấu một mốc lịch sử lớn mà người Tạng từ đó quy thuận theo Trung Hoa,
mất dần sự độc lập cường thịnh về chính trị quân sự so với mấy trăm năm
trước. Đi cùng với sự cuốn hút của Tát Ca phái theo chính trị là sự tha
hoá trong đạo đức và lối sống của các Lạt ma do cậy có nhà Nguyên bảo
hộ. Đến khi nhà Nguyên thoái trào cũng là lúc ảnh hưởng của Sakya Sect
mai một đi.
Ba tông: Nyingma Sect, Kagyupa Sect, và
Sakya Sect do đặc điểm trang phục tương tự nhau, dùng màu hồng đỏ làm
trọng, nên thường được gọi chung là Hồng Mạo Giáo. Như vậy là để phân
biệt với tông giáo thứ 4, cũng là tông giáo cuối cùng cực thịnh huy
hoàng nhất của Phật giáo Tây Tạng, để lại nhiều dấu ấn văn hoá nhất cho
đến cả ngày nay; đó là tông Cách Lỗ (Gelugpa Sect) hay còn gọi là Hoàng
Mạo Giáo (Yellow Sect).
Phái
Cách Lỗ (Gelugpa Sect) được 1 nhà cải cách lỗi lạc Tông Khách Ba
(Tsongkhapa) (1357–1419) sáng lập, khi đó nhằm vào thời Vĩnh Lạc Minh
Thành Tổ (con trai thứ hai của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương). Xung
quanh sự ra đời và tuổi trẻ của Tông Khách Ba có nhiều truyền kỳ và điển
tích, người viết sẽ điểm qua trong bài viết ngày cuối khi đi thăm tu
viện Taer Monastery ở quê ông thuộc vùng Amdo xưa, nay thuộc Tây Ninh,
tỉnh Thanh Hải. Tông Khách Ba vốn xuất thân từ Hồng Giáo, đã tu học qua
giáo pháp của cả Kagyupa và Sakya Sect nhưng chú tâm hơn vào chấn chỉnh
Phật giáo với mục đích đem các Lạt Ma đã bị thế tục hóa trở về lại đời
sống của Tỳ Kheo có đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Sự uyên bác về giáo
pháp, lại cẩn trọng nghiêm kính chuyên tâm tu học của Tông Khách Ba như
thổi luồng gió mới vào Phật giáo Tây Tạng mà các cựu phái chưa có được,
đã khích lệ Tăng lữ theo về rất đông. Sử chép trong Đại Tập Hội lần thứ
nhất (Monlam Great Prayer Festival) quy tụ gần 12,000 vị Lạt Ma dưới
tông Hoàng giáo. Sau này Gelugpa Sect lấy ngày rằm tháng giêng hàng năm
làm ngày đại hội nhưng đến giai đoạn thế kỷ 20 đã bị chính quyền Trung
Hoa cấm tổ chức.
Theo “Nhập Tạng Báo Cáo” của Ngô Trung
Tín viết năm 1940 có ghi rõ những tu viện chủ yếu của Tây Tạng thì Hồng
giáo có bảy ngôi, còn Hoàng giáo lên đến sáu mươi hai ngôi; cho thấy các
tông phái Tây Tạng, Hoàng giáo tuy đến sau nhưng đứng đầu về số tu
viện. Ngày nay những tu viện nổi tiếng nhất mà khách du lịch thường đến
thăm đều thuộc Hoàng giáo, ví dụ như: tu viện Cam Đan (Ganden Monastery)
ở Lhasa, tu viện Triết Phong (Deprung Monastery) ở Lhasa, tu viện Sắc
Nhạ (Sera Monastery) ở Lhasa, tu viện Trát Thập Luân Bố (Tashilhunpo
Monastery) ở Shigatse, tu viện Taer (Kumbum Monastery) ở Tây Ninh
(Xining). Ở các đại tu viện này đều thờ phụng đại sư Tông Khách Ba, coi
ông là đệ nhất tập đại thành, là bậc trí giả đã có thành tựu cải cách và
xiển dương phái Cách Lỗ cũng như Phật giáo Tây Tạng.
c. Giai đoạn sau đại sư Tông Khách Ba cho đến ngày nay:
Nên chú ý rằng sau khi vương triều Thổ
Phồn diệt vong, Tây Tạng chưa được thống nhất thành 1 chính thể. Phải
đến khi Hoàng giáo cường thịnh thì tông này mặc nhiên giữ vai trò quyết
định trong cả chính trị và tôn giáo toàn vùng; các triều vua Trung Hoa
sau này đều thương thuyết mọi việc quốc gia với tập đoàn đứng đầu Hoàng
giáo, coi đó là lãnh đạo tối cao của Tây Tạng – thể chế độc đáo này được
gọi là chính-giáo hợp nhất
Lãnh tụ tối cao của Phật giáo Tây Tạng
được gọi là Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama). Danh hiệu này thực ra phải đến
năm 1578 vua A Nhĩ Đát Hãn mới ban tặng cho Toả Lãng Gia Mục Thố (Sonam
Gyatso) – tương đương với đời Đạt Lai Lạt Ma thứ 3; chữ có nghĩa là đức
rộng như biển. Tổng cộng từ năm 1391 đến nay, Tây Tạng đã có tất cả 14
vị Đạt Lai Lạt Ma, từ vị đầu tiên là Căn Đôn Châu Ba (Gendun Drub) – vốn
là đại đệ tử của Tông Khách Ba – cho đến vị thứ 14 là Đăng Châu Gia Mục
Thố (Tenzin Gyatso); tương đương với các giai đoạn triều Minh, Thanh,
và Trung Hoa Dân Quốc. Người Tây Tạng luôn sùng kính Đạt Lai Lạt Ma, coi
đây là hiện thân của Phật sống và được đầu thai qua mỗi kiếp.
Đáng chú ý là vào đời Đạt Lai Lạt Ma thứ
5 La Bốc Tạng Gia Mục Thố (Losang Gyatso), ông đã phong tặng danh hiệu
Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama) cho thầy học của mình La Tang Khúc Kết
(Lobsang Choegyal), chữ có nghĩa là đại học giả. Danh hiệu “Ban thiền”
ra đời từ đó; Ban Thiền Lạt Ma luôn song hành với Đạt Lai Lạt Ma, trở
thành người giữ vị trí quan trọng thứ hai trong xã hội Tây Tạng, có
trọng trách đi tìm Đạt Lai Lạt Ma mới và ngược lại! Người Tây Tạng cũng
cho rằng Ban Thiền Lạt Ma là dòng tái sinh, sẽ được đầu thai qua nhiều
đời. Từ giai đoạn 1358 đến nay đã có tổng cộng 11 vị Ban Thiền Lạt Ma.
Giống như Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma đều thuộc dòng Hoàng Mạo.
Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 5 cũng là vị đại
sư nổi danh nhất và được kính trọng nhất trong cộng đồng Tây Tạng. Ngài
cũng là người đã cho trùng tu và mở rộng, xây mới lại cung điện Potala –
vốn được xây từ thời vua Tùng Tán Cán Bố (Songtsen Gampo) nhưng đã bị
huỷ hoại rất nhiều theo thời gian.
Quay trở lại dòng chảy lịch sử, giai
đoạn từ những năm 1391 đến nay, Phật giáo Tây Tạng gần như không chuyển
biến nhiều mà là sự duy trì và bảo tồn bản sắc riêng của tông phái
Gelugpa vốn đã bén rễ rất sâu vào tín ngưỡng người dân nơi đây. Tuy
nhiên, những biến động về mặt chính trị thì quả kinh người! Năm 1652,
vua Thuận Trị nhà Thanh vẫn còn giữ quan hệ giao hảo với đức Đạt Lai Lạt
Ma đời thứ 5; nhưng dần dần mối quan hệ Thanh-Tạng xấu đi. Khi Thanh
Triều sụp đổ, năm 1904, nước Anh đưa quân vào chiếm đóng Tây Tạng, biến
nơi đây thành xứ bảo hộ thuộc về Đế quốc Anh. Cũng trong giai đoạn này,
Trung Quốc nổ ra cuộc chiến Tân Hợi 1911 và liền sau đó là Thế chiến thứ
nhất (1914-1918 ) nên đế quốc Anh và Trung Hoa gần như ‘buông tha’ cho
Tây Tạng – khi đó nhằm thời Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 – Tây Tạng đứng trước 1
cơ hội lịch sử để lấy lại quyền tự trị và xây dựng chính thể độc lập
cho riêng mình! Tiếc thay cơ hội đó không được tận dụng triệt để; Tây
Tạng gần như không đủ thời gian để đổi mới và củng cố đất nước mà lý do
sâu xa nằm chính trong hình thái xã hội phức tạp của vùng này, kèm theo
đó là xích mích quyền lực giữa Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 13 và Ban Thiền
Lạt Ma đời thứ 9! Năm 1933, khi mọi việc còn đang dang dở, Đạt Lai Lạt
Ma đời thứ 13 viên tịch, Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 được tìm thấy vào năm
1940, khi đó Ngài chưa đầy 5 tuổi. 9 năm sau, Trung Hoa Dân Quốc gây
chiến và tiến vào Tây Tạng, tuyên bố đây là một vùng không thể tách rời
của Trung Quốc; chính thể độc lập còn mong manh chưa thành hình của mảnh
đất cao nguyên được cáo chung từ đây. Chỉ vọn vẻn trong hơn 50 năm
(1950-2000), Tây Tạng dưới sự trấn áp của chính quyền Trung Quốc chứng
kiến những trang tối tăm nhất trong lịch sử nhiều nghìn năm của mình,
trong đó có những dòng được viết bằng máu và nước mắt của người Tạng!
Năm 1959 nổ ra xung đột ở thủ phủ Lhasa, hàng chục ngàn người Tạng đã bị
giết, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 phải rời bỏ Tây Tạng sống lưu vong ở
Dharamsala, Ấn Độ. Năm 1961, do những sai lầm về đường lối canh tác nông
nghiệp mà Trung Quốc áp đặt lên Tây Tạng, hơn 70,000 người Tạng đã chết
đói. Giai đoạn 1967-1976, cơn bão Hồng Vệ Binh (Red Guard) theo chân
Cách Mạng Văn Hoá (The Cultural Revolution) sau khi càn quét Trung Quốc
đã đổ ập lên Tây Tạng: những di sản văn hoá, tu viện, đền chùa cùng vô
vàn Pháp vật quý giá bị đốt phá, cướp bóc, thất lạc, vĩnh viễn biến mất
trong lịch sử nhân loại; ước tính gần 200,000 thường dân và tăng ni Phật
tử bị bức hại hoặc cầm tù. Chỉ đến giai đoạn sau 1980 thì trật tự mới
được lặp lại, Tây Tạng dần chuyển mình sang thời kỳ hiện đại hoá và phát
triển đi lên trong vai trò khu tự trị thuộc Trung Quốc; chủ đề Tây Tạng
cho đến nay vẫn là vấn đề thời sự nhạy cảm ở các quốc gia.
Đến đây người viết xin dừng phần Tổng
quan lịch sử tôn giáo Tây Tạng, hy vọng bạn đọc đã có cái nhìn rõ ràng
hơn về những biến chuyển theo thời gian đóng góp vào tiến trình hình
thành và phát triển của Phật giáo Tây Tạng. Nói tóm lại, Tây Tạng có một
nền văn hoá tín ngưỡng độc đáo lâu đời mà hạt nhân xuyên suốt nhiều thế
kỷ chính là nền Phật giáo Đại thừa Mật tông với lý luận mạch lạc khúc
chiết và không kém phần thâm sâu, ảo diệu; là minh chứng rõ ràng nhất về
tính dung và dị đặc thù của tông giáo; đồng thời bao hàm trong nó là sự
vượt trội về giá trị nghệ thuật, văn hoá, và trí tuệ thu hút không chỉ
riêng người Tạng mà nhân loại toàn thế giới. Phần viết này tham khảo tư
liệu từ các nguồn: Thư Viện Hoa Sen, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, sách
Tây Tạng Phật Giáo Sử Lược của Chương Gia, sách Lonely Planet – Tibet
(2008 ), sách The Potala (Unesco, 1993).
2. Văn vật trong Phật giáo Tây Tạng:
Phật giáo Tây Tạng cuốn hút với nhân
loại không chỉ bởi những tinh hoa pha trộn giữa Đại thừa phái
(Mahayana), Mật tông (Tantrayana), và tôn giáo cổ Tây Tạng (với Bon giáo
là điển hình) mà còn bởi những văn vật để lại cho đời. Có lẽ không nơi
đâu trên trái đất này lại quy tụ đầy đủ và nhiều di chỉ Phật giáo như
Tây Tạng, từ đền chùa thành quách đại viện tiểu viện cho đến tượng Phật,
kinh sách luật tuyển, cờ phướn; rồi đồ dùng trong lễ bái, tán tụng,
cúng dường, trì nghiệm, hộ ma, khuyến đạo … dường như không thống kê nào
kể xiết! Trong bài viết ngắn ngủi này, người viết không đủ khả năng và
cũng không có tham vọng tổng kết hết những tinh tuý của nơi đây, chỉ
muốn dành đôi dòng nhắc đến những văn vật thường gặp trên đường khám phá
Tây Tạng
a. Đại kỳ ngũ sắc:
Đi thăm Tây Tạng nói riêng và các quần
thể Phật giáo nói chung, du khách hay bắt gặp các cờ phướn 5 màu tung
bay trong gió. Nếu để ý kĩ, cờ ngũ sắc Tây Tạng có 5 màu (trắng, đỏ,
lục, vàng, lam) hơi khác so với lá cờ Phật giáo (trắng, đỏ, cam, vàng,
lam). Một trong các lý do có thể giải thích là: lá cờ Phật giáo chính
thức ra đời năm 1889, còn Phật giáo Tây Tạng mà ảnh hưởng bắt nguồn từ
Ấn Độ giáo thì đã có từ lâu đời, trải qua thời gian sẽ xuất hiện vài sai
khác, tuy nhiên điều này không làm thay đổi ý nghĩa biểu trưng.
Số 5 không chỉ tượng trưng cho Ngũ Hành
(Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) tương sinh tương khắc làm nên vạn vật, còn
ứng với Ngũ Trí của Mật tông miêu tả về trí của con người (Pháp giới
trí, Đại viên kínha trí, Bình đẳng tính trí, Diệu quan sát trí, Bình
đẳng tác trí), đồng thời hợp với Ngũ Uẩn (Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức)
là 5 yếu tố tạo thành thân tâm, và là Ngũ Bộ Chú – nghi thức trì niệm
của Mật Giáo (Tịnh Pháp Giới, Văn Thù Nhất Tự Hộ Thân, Lục Tự Đại Minh,
Chuẩn Đề Cửu Thánh, và Nhất Tự Kim Luân Phật Đỉnh); nhưng trên hết là
biểu thị sức mạnh và sự thống nhất giữa Ngũ Phương và Ngũ Phật:
Ngũ Phật (Five Wisdom Buddhas) có thể
coi là biểu hiện siêu việt nhất trong thế gian, các vị này là thầy của
các Bồ Tát. Đồng thời, trong mỗi thời đại loài người, các vị lại hoá
thân thành Phật lịch sử – có hình dạng người sống trên thế gian. Trong
thời đại chúng ta, vị Phật lịch sử đó chính là Phật Thích Ca Mầu Ni
(Shakyamuni Buddha), còn vị Phật được tin rằng sẽ xuất hiện trong tương
lai (Future Buddha) là Phật Di Lặc (Maitreya Buddha). Vì thế mỗi khi
nhắc đến Ngũ Phương Phật, người ta sẽ nhắc đến vị Phật lịch sử và vị Bồ
Tát tương ứng:
- Trung ương: Đại Nhật Như Lai (Tathagata); Phật lịch sử là Ca-la-ca-tôn-đại (Krakuccanda) và Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra)
- Hướng Đông: Bất Động Như Lai (Aksobhya); Phật lịch sử là Ka-na-ca-mâu-ni (Kanakamuni) và Kim Cương Bồ Tát (Vajrapani)
- Hướng Nam: Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava); Phật lịch sử là Ca-diếp (Kasyapa) và Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapani)
- Hướng Tây: Di Đà Phật (Amitabha); Phật lịch sử là Thích-ca-mâu-ni (Shakyamuni) và Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara)
- Hướng Bắc: Bất Không Thành Tựu Phật (Amoghasiddhi); Phật tương lai là Di-lặc (Maitreya) và Phổ Chùy Thủ Bồ Tát (Vishvapani)
Quan niệm trên chỉ xuất hiện từ khi Đại
thừa Phật giáo ra đời, và càng được củng cố bởi Mật tông Tây Tạng, điều
đó cho thấy sự khác biệt và phức tạp, bao hàm muôn yếu tố trong Phật
giáo Tây Tạng. Đi khắp cao nguyên Thanh-Tạng, du khách sẽ gặp rất nhiều
nơi thờ cúng Ngũ Phật cũng như các Phật lịch sử và chư vị Bồ Tát, bên
cạnh các vị Tạng vương và Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma. Những sự sắp
xếp trên luôn có nghiêm luật chặt chẽ mà hiếm có ai hiểu được, thậm chí
phần lớn chúng ta không bao giờ hiểu rõ được mà chỉ biết chiêm bái để
kính phục trí tuệ, công sức và sự sáng tạo của người xưa!
b. Statues:
Tượng Phật Tây Tạng nổi trội hơn so với
bất cứ nơi nào trên thế giới bởi sự đa dạng phong phú về thể loại, mỗi
tượng lại xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau (Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc,
bản địa), hình thái phong cách dáng ngồi tay ấn nét mặt màu sắc trang
phục đều cực kỳ sinh động, toát lên những nét riêng của văn hoá Phật
giáo Mật tông huyền bí. Nhìn ngắm mỗi bức tượng Tây Tạng, du khách sẽ bị
thu hút bởi đôi mắt Phật không phải lúc nào cũng hiền từ nhìn xuống mà
đôi khi mở to nhìn thẳng hay nhắm mắt, tuỳ thuộc theo tư thế thiền định
và mỗi dáng ngồi, sau đó là những phù điêu trang trí nhiều tầng bao
quanh tượng và cả chân bệ. Người Tạng còn dùng vàng, bạc, đồng, các kim
loại quý và ngọc thạch, hổ phách, đá quý … để tô điểm thêm cho tượng,
nâng giá trị của các bức tượng lên tầm có một không hai, trở thành tài
sản vô giá của dòng Phật giáo nơi đây. Tây Tạng có những bức tượng cá
biệt đến vài nghìn năm tuổi được trưng bày bên trong cung Potala. Thường
các tu viện lớn và cung Potala đều cấm chụp ảnh nên cách tốt nhất có lẽ
là một lần đến Tây Tạng để được chiêm ngưỡng những bảo vật truyền đời
nơi đây.
(Tượng Thiên Vương chụp ở Shigatse)
c. Murals:
Murals hay các bích hoạ vẽ trên tường là
hình thức nghệ thuật nổi tiếng của Tây Tạng, không chỉ mang tính trang
trí làm đẹp với sắc màu cực kỳ sặc sỡ, những bức mural còn biểu hiện đức
tin cổ giáo của người Tạng vào trời đất cỏ cây sông hồ núi tuyết, đôi
khi là hình thức kể chuyện thuật lại tích cũ việc xưa trong quá trình
gây dựng và hoằng trương tông phái, có lúc lại khắc hoạ chân dung những
vị Phật, Bồ Tát, La hán, Hộ pháp, Tạng vương cũng như danh sư đạo Phật.
Được biết chất liệu để vẽ tranh tường đều dùng nguồn nguyên liệu sẵn có ở
mỗi địa phương, qua các công thức pha tạo màu cộng với chất liệu tự
nhiên khả năng bảo vệ bức tranh theo thời gian hàng trăm năm mà không
phai nhạt hay hư hại gì!
(Bức mural chụp ở Shigatse)
d. Thangkas:
Thangka cũng là các bức tranh Phật giáo
bắt nguồn từ Nepal và du nhập vào Tây Tạng từ thời vua Tùng Tán Cương Bố
lấy công chúa Nepal Ba Lợi Khố Cơ. Thangka Tây Tạng có thể xem là đỉnh
cao của nghệ thuật tượng hình (Iconography) mà đề tài thường gặp là các
bức vẽ về cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni, Pháp luân, Phật Dược Sư, các tư
thế toạ thiền, các vị hộ pháp và quỷ thần … Được biết Thangka được vẽ
trên vải dệt sợi đay, rồi dùng mật của giống trâu Yawk trộn với bột đá
để bồi mặt vải cho mịn, sau đó căng tấm vải đã bồi lên khung gỗ và dùng
các loại màu khoáng hay bột vàng để vẽ. Tranh Thangka sau đó được khâu
vào khung bằng lụa để dễ dàng cuộn lại, tiện lợi cho việc di chuyển và
bảo quản.
Người ta tin rằng Thangka không chỉ cảm
nhận được bằng mắt mà còn bằng tâm, việc chiêm bái Thangka một cách
trang nghiêm sẽ giúp Phật tử nhập tâm, hoá thân với đối tượng được vẽ
trong tranh, cảnh giới này có lẽ chỉ được nội truyền trong các tông phái
mà không truyền cho người ngoài. Màu sắc sử dụng trong Thangka cực kỳ
sinh động, sặc sỡ và chi tiết tới từng đường nét nhỏ. Chính bởi tính độc
đáo của Thangka và ảnh hưởng tín ngưỡng của nó mà người đời sinh ra
sùng bái và ham thích sở hữu Thangka, phá vỡ quy luật gốc của tranh là
không được trao đổi mua bán! Ngày nay Thangka đã thương mại hoá, việc
sao chép, vẽ lại và buôn bán trở nên phổ biến tại thị trường các nước;
tuy nhiên vẻ đẹp và sự tinh xảo thì kém xa những Thangka hàng nghìn tuổi
của vùng Tây Tạng. Do đó đến Tây Tạng ngắm những bức Thangka cổ đại,
người ta vẫn rung động và trân trối bởi nét độc đáo đầy tính Chân Thiện
Mỹ toát lên từ mỗi bức tranh.
Trường phái Thangka Tây Tạng nổi bật lên
với 2 tên tuổi: Khentse Chenmu School và Menthang School, tác phẩm của 2
trường phái này du khách sẽ bắt gặp nhiều khi đi thăm quan hành cung
Potala
Mandala: Mandala cũng là những bức hoạ
hình giống như Thangka, điểm khác biệt ở đây là Mandala luôn chú trọng
vào các hình vẽ vòng tròn biểu thị cái nhìn của người Tạng về thế giới
và vũ trụ, trong đó hoạ hình các đức Phật hay Bồ Tát hoặc những biểu
tượng Phật giáo. Điểm độc đáo ở Tây Tạng là có những mandala cỡ lớn và
cực lớn bằng cát, có Mandala ba chiều mô phỏng các cung điện, và đặc
biệt là các tu viện được xây theo kiến trúc Mandala như tu viện Samye
(Samye Monastery) đã có dịp nhắc đến trong phần 1 về Phật giáo Tây Tạng.
(Bức Mandala lớn vẽ trực tiếp trên tường – ảnh chụp ở Shigatse)
e. Stupas:
Stupa (hay Chorten) xây theo dạng hình
tháp, được coi như ngôi nhà lưu giữ phần hồn, cũng giống như các pho
tượng được xây để lưu giữ phần xác vậy. Ở Tây Tạng, stupas có mặt ở khắp
mọi nơi, không chỉ là nơi chứa tro cốt di hài mà còn chứa những vật
dụng bình sinh được Đức Phật hay các môn đệ sử dụng; qua đó thể hiện sự
tôn kính của người dân đến di thể của Phật.
Stupa thường gặp gồm nhiều tầng: tầng
đáy thấp nhất tượng trưng cho 10 điều tâm niệm (Thập tâm hạnh), tầng
tiếp theo gồm 4 bậc tượng trưng cho Tứ Diệu Đế (Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế,
Đạo Đế) và Tứ Thần Túc (Dục, Tinh, Tâm Quán), phần trên nữa có dạng bầu
là biểu hiện của Ngũ Căn (Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Huệ
căn) và Ngũ Lực (Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Ðịnh lực, Huệ lực), phía
trên là 13 bậc thang dẫn lên cao tượng trưng cho đường tới cõi Niết bàn
chỉ có thể thông qua Bát Chính Đạo, và trên cùng luôn là mặt trăng và
mặt trời biểu thị sự minh triết soi sáng mọi vật.
Nổi bật phải kể đến bộ 8 stupa lớn
(Eight Great Stupas) kể lại những thành tựu trong cuộc đời tu hành đắc
đạo của Phật Thích Ca Mầu Ni; và các Stupa Tomb bằng vàng ròng cực lớn
của các đời Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng lưu giữ bên trong cung Potala:
Những chi tiết thú vị khác của văn vật
trong Phật giáo Tây Tạng sẽ được nhắc lại khi cùng bạn đọc đi qua những
địa danh ở Tây Tạng ở các bài viết tiếp theo.
Lê Minh Hưng - Nguồn: tổng hợp - icouple.sg)