1) - NHÂN DUYÊN:
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức
Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối
ngôi. Vua Ba Tư Nặc nghĩ rằng: “Nay ta mới nối ngôi, ta nên cưới con gái
dòng họ Thích, nếu được cho cưới, thật vừa lòng ta, nếu không bằng
lòng, ta sẽ áp lực bức bách.”
Lúc ấy, Vua bảo một vị Quan đến thành Ca Tỳ La Vệ để làm sao cưới
được con gái dòng họ Thích, khi ấy Quan Đại Thần vậng lệnh Vua đến thành
Ca Tỳ La Vệ gặp các người dòng họ Thích và nói:
- Vua Ba Tư Nặc hỏi thăm sức khỏe quý vị, Vua muốn cưới con gái họ
Thích, nếu được chấp thuận gả cho thật là đại hạnh, nếu không gả, Vua sẽ
phải dùng áp lực.
Các vị dòng họ Thích nghe nói những lời ấy hết sức sân hận bàn riêng
với nhau: “Chúng ta là dòng dõi lớn, duyên cớ gì lại cùng tên hèn mọn
kết duyên”. Trong số đó, có người nói nên cho, có người nói không nên
cho, lại có người tên Ma Ha Nam nói:
- Chư vị chớ nên bực tức. Tại sao? Vua Ba Tư Nặc là người bạo ác, nếu
không gả con gái cho hắn, hắn sẽ đánh phá nước ta, để tôi sẽ đến gặp
hắn bàn về sự việc này, vì tôi đã có cách.
Trong nhà Ma Ha Nam có một nô tỳ nữ sinh được một đứa con gái diện
mạo thanh tú đẹp đẽ nết na hiếm có trên đời. Ma Ha Nam sai cho sửa soạn
son phấn mặc đẹp cho cô gái trông càng hấp dẫn, Ông dẫn con gái ấy theo
đến gặp Vua Ba Tư Nặc và nói:
- Đây là con gái tôi có thể cùng Vua kết duyên trăm năm.
Vua Ba Tư Nặc được cô gái đẹp đẽ như thế hết sức vui mừng, liền lập
làm đệ nhất Phu nhân, chưa bao lâu sau cô mang thai, trải qua hơn chín
tháng sinh một con trai đẹp đẽ thế gian hiếm có. Khi đặt tên, Vua mời
thầy coi tướng đặt tên, thầy tướng nói: “Lúc cầu hôn họ Thích, người bàn
nên cho kẻ bàn không nên cho khiến đây đó lưu ly, nay nên đặt tên là
Lưu Ly.
Vua Ba Tư Nặc yêu thương Thái tử Lưu Ly vô cùng, khi mới 8 tuổi Vua bảo Thái tử:
- Nay con đã lớn, nên đến Ca Tỳ La Vệ học bắn cung.
Rồi Vua cấp cho Thái tử những người hầu, cho cưỡi voi đến nhà Ông ngoại Ma Ha Nam dòng họ Thích nói rằng:
- Phụ Vương con sai con đến đây học cách bắn cung, cúi xin Ông ngoại dạy bảo.
Ma Ha Nam bảo:
- Muốn học thuật bắn cung phải khéo tập tành.
Rồi Ma Ha Nam tụ tập rất nhiều thiếu niên đến khiến cùng Lưu Ly học
tập bắn cung nỏ, bấy giờ dòng họ Thích mới xây dựng một giảng đường lớn
còn chưa xong hẳn, họ thiết trí bên trong giống như Thiên cung cõi Trời
để sẽ cúng dàng đức Phật và chúng Tỳ Kheo.
Khi ấy, Lưu Ly cùng với một số trẻ vào giảng đường lại leo lên tòa sư
tử ngồi. Những người họ Thích thấy thế hết sức tức giận, bèn chạy tới
cầm cánh tay kéo xuống khỏi chỗ ngồi, rồi lôi ra ngoài cửa, xúm nhau
mắng nhiếc rằng: “Đây là con nô tỳ, không ai dám vào đây mà đứa con nô
tỳ này dám trèo lên tòa sư tử ngồi!”
Rồi có người xô Lưu Ly ngã té lăn xuống đất. Lưu Ly đứng dậy than
thầm, rồi Lưu Ly thấy con Phạm chí là bạn chơi, người hầu tên Hiếu Khổ
đứng gần ngay đấy, liền đến sát bên bảo nhỏ Hiếu Khổ:
- Họ Thích hạ nhục ta đến thế này!, sau này nếu ta nối ngôi Vua, nhớ nhắc ta chuyện này.
LỜI BÀN:
Phàm là con người, đa phần hay có tính giận dữ khi thấy bất cứ việc
gì xảy ra không vừa ý, liền sinh ra nói ác (ác khẩu) nói lời độc ác, làm
cho người nghe đau đớn khổ sở tâm thần. Việc xô đẩy làm cho Lưu Ly ngã
xuống chỉ là phụ thôi, cũng như cho thêm dầu vào lửa khiến lửa cháy bùng
to lên, chính lời nói hạ nhục mới là lời dữ độc tệ hại nhất; nếu khéo
cư xử, trong trường hợp ấy, chỉ cần bảo nhỏ nhẹ là trẻ nhỏ nghe theo,
nếu không nghe theo mới phải bắt xuống khỏi tòa sư tử một cách nhẹ
nhàng. Rồi yêu cầu tất cả trẻ nhỏ đi ra ngoài chơi, nên đóng cửa lại
hoặc có người trông chừng không cho các em vào trong để phá; tuyệt đối
không nên hạ nhục các em dưới bất cứ hình thức nào, nhất là hành động
nắm lôi kéo xô đẩy hay đánh các em lại càng phải tránh, nếu cư xử được
như vậy thì đâu có những hậu hoạn nữa? Âu là do nghiệp báo xui khiến,
nên những người họ Thích mới nói ra (miệng) và hành động (thân) như thế
để có duyên cớ cho Lưu Ly hành động sau này. Chúng ta theo dõi tiếp câu
chuyện dưới đây:
2) – HẬN THÙ XƯA:
Từ đó, Hiếu Khổ thường không quên nhắc Thái tử, đến khi Vua Ba Tư Nặc qua đời, Thái tử Lưu Ly được làm Vua, Hiếu Khổ nhắc tâu:
- Vua hãy nhớ khi xưa bị họ Thích làm nhục.
Khi ấy Lưu Ly nổi cơn giận dữ, liền triệu tập Quần Thần rồi hỏi:
- Nay chúa tể nhân dân là ai?
Quần Thần đều thưa:
- Ngày nay do Đại Vương thống lãnh.
Vua Lưu Ly ra lệnh:
- Vậy thì các ông hãy sửa soạn binh mã, quân xa, bốn bộ, ta muốn đi chinh phạt dòng họ Thích.
Sau khi quân mã các binh chủng sẵn sàng đầy đủ, Vua Lưu Ly đẫn đoàn
quân đông đảo hùng mạnh tiến đến nước Ca Tỳ La Vệ. Bấy giờ, một số Tỳ
Kheo nghe tin trên liền đến thưa với đức Phật, Ngài nghe xong đi đến
ngồi kết già dưới một gốc cây bên đường mà Vua Lưu Ly sẽ đem quân đi
ngang qua. Khi Vua Lưu Ly đến gần trông thấy đức Phật, liền xuống xe đi
bộ đến chỗ Ngài ngồi cúi lạy rồi thưa:
- Có những cây lá tươi tốt xum xê, sao Ngài lại ngồi dưới cây khô này?
Đức Phật đáp:
- Bóng mát của thân tộc hơn hẳn người ngoài.
Lưu Ly nghĩ:
- Hôm nay Thế Tôn vì thân tộc, vậy hôm nay ta nên trở về, chẳng nên chinh phạt Ca Tỳ La Vệ nữa.
Nghĩ rồi, Vua ra lệnh rút quân, Vua cúi đầu chào Phật xong trở về, một thời gian sau, Hiếu Khổ lại tâu Vua:
- Đại Vương hãy nhớ khi xưa bị dòng họ Thích làm nhục.
Vua nghe lời này liền nổi giận, ra lệnh bốn quân khởi binh đi chinh
phạt nước Ca Tỳ La Vệ lần thứ hai, lần này cũng vậy, sau khi các Tỳ Kheo
báo cáo thưa trình sự việc, đức Phật cũng đến gốc cây ngồi kiết già.
Vua Lưu Ly trông thấy đức Phật cũng đến cúi đầu lễ Ngài và nói tương tự
như lần trước, Đức Phật cũng bảo: “Bóng mát của thân tộc hơn người
ngoài”, rồi Ngài nói kệ:
Bóng mát của thân tộc,
Từ họ Thích có Phật,
Đều là cành lá Ta,
Nên ngồi dưới cây này.
Bấy giờ Lưu Ly nghĩ: “Thế Tôn xuất phát từ dòng họ Thích, ta không
nên trừng phạt mà hãy quay về”, nghĩ rồi, Vua liền ra lệnh lui quân, và
cúi đầu chào Phật trở về.
Một thời gian sau, Phạm chí Hiếu Khổ lại nhắc Vua về sự bị làm nhục
thuở xưa ấy, nghe xong Vua lại triệu tập đại quân bốn binh chủng tiến
đến nước Ca Tỳ La Vê. Lúc ấy, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nghe tin liền
đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ xong thưa:
- Hôm nay, Vua Lưu Ly lại triệu tập bốn binh (Gồm: Quân cưỡi voi,
quân cưỡi ngựa, quân ngồi trong xe, và quân đi bộ), với áo giáp, cung
tên gươm đao giáo mác v.v... rất hùng dũng. Tuy nhiên, con có thể đủ sức
khiến Vua Lưu Ly và bốn binh kia không làm gì được bằng cách đưa tất cả
dân thành Ca Tỳ La Vệ đến thế giới khác.
Đức Phật bảo:
- Thầy có thể đem túc duyên của họ đưa sang thế giới khác được sao?
Suy nghĩ vài giây, Tôn giả thưa:
- Thật không thể đem túc duyên của họ mà đặt vào thế giới khác, nhưng con có thể đem cả thành Ca Tỳ La Vệ để lên hư không.
Đức Phật bảo:
- Thầy hãy về chỗ ngồi đi, Thầy có thể đem túc duyên của họ Thích đặt lên hư không sao?
Suy nghĩ vài giây, Tôn giả lại thưa:
- Thưa không thể làm được, vậy xin phép Thế Tôn cho phép con biến hóa
ra lồng sắt lớn chụp lên thành Ca Tỳ La Vệ để bảo toàn sinh mạng của
dòng họ Thích, được không?
Đức Phật lại bảo:
- Thế nào Mục Kiền Liên, có thể lấy lồng sắt chụp lên túc duyên chăng?
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên suy nghĩ rồi thưa:
- Quả là không thể, thưa Thế Tôn.
Đức Phật nói:
- Thầy hãy về chỗ ngồi đi, hôm nay túc duyên đã chín, sẽ phải thọ báo.
Rồi đức Phật nói kệ:
Muốn hư không làm đất,
Lại khiến đất thành không,
Chỗ duyên xưa trói buộc,
Duyên này không hư hoại.
LỜI BÀN:
Vua Lưu Ly có người bầy tôi trung thành không quên nhắc Vua về nhục
xưa, nên Vua Lưu Ly đã hai lần tiến quân rồi lại quay về vì hai lần đều
gặp Phật. Vua Lưu Ly vì sự tôn kính của Vua cha là Vua Ba Tư Nặc đối với
đức Phật, nên ông phải kính nể theo mà rút quân.
Một điểm đáng để ý là Vua Ba Tư Nặc là Phật tử thuần thành, nhưng ông
lại có người con không biết gì về Phật pháp, nên đã để sự thù hằn riêng
tư của mình dẫn dắt, nếu là người học Phật thuần thành đã không hành
động trả thù, để rồi tạo ác.
Khi Vua Lưu Ly đem quân đi lần thứ ba, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên đề
nghị với đức Phật cho Tôn giả được phép dùng thần thông để mang dòng họ
Thích đến thế giới khác, hoặc giấu họ Thích trên không, hoặc biến hóa ra
lồng sắt lớn chụp khắp thành Ca Tỳ La Vệ để bảo toàn sinh mạng dòng họ
Thích; Đức Phật đã bác bỏ tất cả, vì không thể dùng thần thông để đối
phó với nghiệp báo nhân quả được.
Đức Phật hỏi Tôn giả: “Có thể lấy lồng sắt chụp lên túc duyên sao?”
Túc duyên là gì? Là duyên đã đầy đủ rồi, tức là cái nghiệp xưa
đã tạo ra, nay đã chín mùi rồi nên phải nhận; cũng như gây duyên trồng
cây, cây sẽ dần dần lớn lên, rồi sinh hoa kết quả, quả lớn dần lên, tới
thời quả chín, tự nhiên nó phải rụng, không thể làm cách nào cho quả
không rụng được, tạo nghiệp ác cũng giống như vậy. Chúng ta theo dõi
đoạn Kinh kế tiếp:
3) – CHIẾN TRANH:
Lúc ấy các người họ Thích nghe tin Vua Lưu Ly đem quân đến đánh, họ
huy động tụ tập bốn bộ quân trong một do tuần (Khoảng từ 15 đến 20 cây
số = 10 dặm Anh) để cự địch. Khi họ trông thấy rồi, từ xa bắn qua chỗ
Vua Lưu Ly, nhưng họ lại bắn vào mũ và tóc, không làm tổn thương đầu,
hoặc bắn vào áo giáp không làm tổn thương thân. Hoặc bắn vào cung cho
gẫy không hại đến người, hoặc bắn vào xe, vào cờ quạt, không hại mạng
quân địch v.v...
Vua Lưu Ly thấy thế sợ hãi và bảo quân thần:
- Phải cho họ chết hết mới nên trở về Xá Vê.
Lúc ấy Phạm chí Hiếu Khổ tâu Vua:
- Đại Vương đừng sợ! vì sao? Vì: những người họ Thích đều trì giới
của Phật, côn trùng họ còn không muốn hại huống chi lại là người, Đại
Vương không cần phải sợ, nay ta cứ tiến quân lên, ắt có thể phá được họ.
Do đó Vua Lưu Ly mạnh dạn hơn, tiến dần lên, họ Thích phải rút về
thành. Lúc ấy ở ngoài thành, Vua Lưu Ly cho quân sĩ truyền nói vọng vào
bảo rằng:
- Mau mở cửa thành, nếu không sẽ giết chết cả thành.
Bấy giờ, trong thành Ca Tỳ La Vệ có một thanh thiếu niên tuổi mới 15,
16 tên Xà Ma thấy hai bên đánh nhau, liền mặc áo giáp, cầm gậy, một
mình ra khỏi thành đánh nhau với quân của Lưu Ly. Thanh thiếu niên ấy có
sức khỏe và võ nghệ, nên giết nhiều binh lính của Lưu Ly, làm cho quân
bộ của Lưu Ly chạy tán loạn, lúc ấy Lưu Ly sợ hãi phải chạy tránh vào
một hố đất, rồi hỏi quần thần:
- Trông giống như một đứa bé mà sao nó đi tới đâu quân ta rạt ra tới đấy, đó là Trời hay Quỷ Thần mà ghê gớm thế?
Những người họ Thích ở trong thành trông thấy binh lính của Lưu Ly bị
giết, bị bại, chạy rạt ra như thế, họ hỏi ra được biết thanh thiếu niên
đó là người từ trong thành ra đánh giết, nên họ Thích liền cho người
gọi vào thành mà bảo:
- Ngươi còn nhỏ cớ sao làm nhục dòng họ Thích chúng ta, há Ngươi
chẳng biết họ Thích tu hành pháp lành sao? Chúng ta có thể phá tan quân
địch kia, chúng ta có thể một người giết nhiều quân địch, nhưng như thế
sẽ giết hại chúng sanh vô số kể. Đức Thế Tôn đã nói: “Phàm giết người
khi chết sẽ vào địa ngục”, nếu Ngươi hiểu, Ngươi hãy rời khỏi đây ngay
đi, không được hại người nữa; bấy giờ Xà Na liền đi ra khỏi thành đến
nước khác.
Vua Lưu Ly thấy đứa bé vào trong thành rồi không thấy ra đánh nữa nên
mừng trong bụng. Sau một thời gian, Vua lại cho lệnh quân binh nói lớn
yêu cầu trong thành mở cửa, không được chần chờ chậm trễ nữa, khi ấy,
các người họ Thích bàn nhau nên mở cửa hay không nên nở cửa, làm sao cho
phải, họ chưa quyết định được. Bấy giờ, tệ Thiên Ma Ba Tuần biết được
sự tình, liền biến nhập vào một người dòng họ Thích, bảo mọi người:
- Các Ông nên cho mở cửa thành, chứ chịu vây khốn mãi sao?
Họ Thích liền cho mở cửa thành, khi ấy, Vua Lưu Ly bảo quần thần:
- Nhân dân họ Thích rầt nhiều, chẳng phải đao kiếm có thể hại hết được, nên đem chôn chân xuống đất, rồi cho voi dữ đạp chết.
Bấy giờ quần thần vâng lệnh Vua, liền ra lệnh cho quân binh thi hành
và cho voi giầy đạp chết những người họ Thích, Lưu Ly còn ra lệnh:
- Các Ông mau chọn 500 con gái sinh đẹp cho ta.
Quần thần vâng lệnh Vua, liền tìm bắt 500 thanh thiếu nữ đẹp đem nhốt
vào một chỗ cho Vua, khi ấy Thích Ma Ha Nam đến chỗ Lưu Ly bảo:
- Hãy theo ý nguyện của tôi.
Vua Lưu Ly nói:
- Ông muốn nguyện những gì?
Ma Ha Nam bảo:
- Nay tôi lặn xuống đáy hồ nước, tùy lúc lặn mau hay chậm, Vua để các
người họ Thích được quyền chạy trốn, nếu tôi nhô lên ra khỏi nước thì
tùy ý giết họ.
Vua Lưu Ly nói:
- Việc này rất hay.
Thích Ma Ha Nam già cả liền đi xuống lặn dưới nước, Vua ra lệnh cho
quân lính tạm ngưng giết trong chốc lát; khi ấy, các người họ Thích
trong thành chạy trốn, nhưng người ở cửa Đông chạy qua cửa Tây, người ở
cửa Tây chạy qua cửa Đông, người ở cửa Nam chạy qua cửa Bắc, người ở cửa
Bắc chạy qua cửa Nam. Vua Lưu Ly chờ lâu quá không thấy ông Ngoại Ma Ha
Nam trồi lên, nên bảo quần thần:
Tổ phụ Ma Ha Nam cớ sao lặn xuống nước lâu rồi không thấy lên, tại
sao?, quần Thần cho người lặn xuống tìm kiếm, mò mãi mới đem được xác Ma
Ha Nam đã chết lên, thì ra Ma Ha Nam đã lấy tóc cuốn cột vào rễ gốc cây
ở dưới nước mà chết!, Lưu Ly mới hối hận nói:
- Ông của ta chết vì yêu thân tộc, ta chẳng biết nên để Ông chết, nếu biết thế này, ta chẳng chinh phạt họ Thích.
Lúc ấy, Vua Lưu Ly đã giết chín nghìn chín trăm chín mươi nghìn người
(9,990,000, tức 9 triệu 990 ngàn người), máu chảy lênh láng khắp quanh
thành Ca Tỳ La Vệ, rồi Vua Lưu Ly đến vườn Ni Câu Lưu chỗ giữ các thiếu
nữ dòng họ Thích, đến rồi bảo các cô gái:
- Các cô cẩn thận, chớ sầu lo, ta là chồng các cô, các cô sẽ là vợ ta, phải nên tiếp đãi nhau.
Nói xong, Lưu Ly liền vươn tay nắm một cô, ý đùa cợt. Cô gái ấy hỏi:
- Đại Vương muốn làm gì?
Lưu Ly nói:
- Muốn cùng cô vui vầy.
Cô gái nói:
- Cớ sao phải cùng con của đầy tớ chung vui?
Lưu Ly liền tức giận ra lệnh:
- Mau đem người này chặt chân tay rồi đẩy xuống hầm sâu.
Năm trăm cô gái thấy thế liền đồng thanh mắng nhiếc Lưu Ly:
- Ai mà đem thân này cùng con của đầy tớ thông giao?
Lưu Ly giận dữ ra lệnh chặt hết tay chân 500 cô gái ấy, rồi xô xuống hầm sâu hết thảy!
LỜI BÀN:
Dòng họ Thích đã không biết dã tâm của Vua Lưu Ly là đánh để trà thù
tiêu diệt, chứ chẳng phải để chiếm đất nước cai trị (Do đó nước Ca Tỳ La
Vệ đã bị xóa tên vì chết hầu hết). Nếu họ Thích biết rằng sau khi Lưu
Ly đánh thắng sẽ giết hết mọi người như thế thì chắc chắn họ đã không mở
cửa thành, mà phải hô hào mọi người chống trả tới cùng, dù có phải giết
địch để bảo vệ mạng sống của nhân dân họ. Nếu họ biết dã tâm của Lưu Ly
độc ác như thế, thì họ đã không ngăn cản thiếu niên yêu nước thương nòi
một mình xông pha nơi trận địa, đã không khích lệ khen thưởng, còn bị
mạt sát đuổi đi! Âu là nhân duyên diệt vong cho dòng họ Thích đã tới như
lời đức Phật đã nói, nên xui khiến như vậy!
Cũng là tới “số”, nên Thiên Ma mới xen vào, mà Ma thì luôn luôn thấy
chỗ nào làm cho chết chóc là có mặt, nên Ma mới nhập vào người của họ
Thích để nói lời Ma muốn; cũng vì không biết lòng ác độc của Lưu Ly, nên
những người họ Thích đã cho mở cửa thành để lãnh thảm họa của hận với
thù.
Một điều cần để ý nữa là Thích Ma Ha Nam dùng kế chịu chết để cứu
những người dòng họ Thích chạy thoát, nhưng những người này lại chạy từ
cửa thành này qua cửa thành khác, chứ không chạy đi, nên tất cả đều bị
giết. Tại sao họ không thể chạy trốn khỏi?, đây là Thiên Ma làm, Ma dẫn
đường vào chỗ chết. Đây cũng là nghiệp tận số cùng đã đến, cái mà đức
Phật gọi là “Túc duyên”, túc duyên dẫn dắt họ chạy lòng vòng vào chỗ
chết. Thê thảm thay! thương thay!
Vụ hành xác chặt chân tay 500 cô gái nguyên do từ đâu? Việc chinh
phạt là do sự xỉ nhục trước kia, nay các cô gái nhắc lại sự xỉ nhục ấy,
nên đã làm cho Lưu Ly càng thêm giận dữ hơn lên gấp bội. Sự xỉ nhục ấy
cũng là do Lưu Ly đánh phá giết hại nhân dân Ca Tỳ La Vệ mà các cô vừa
chứng kiến; sự xỉ nhục ấy cũng là ác khẩu và thêm nghiệp nhân cho túc
duyên xưa mau thành khổ quả mà các cô phải nhận.
Vụ thảm sát do Vua Lưu Ly gây ra thời ấy đã làm chấn động thế giới Ấn
Độ thời đó vì đã giết quá nhiều người trong chỉ vài ngày. Máu chảy
thành sông hồ, thây chất thành núi! Thế giới đã xảy ra những vụ thảm sát
bạo tàn bao nhiêu lần trước, và bao nhiêu lần sau đó?
Nếu thế giới này, tất cả mọi người đều được học và thực hành giáo lý
của đức Phật, sự hận thù sẽ giảm đi rất nhiều, và như vậy mới mong thế
giới hòa bình được, những gì sẽ xảy ra sau chiến tranh, chúng ta tiếp
tục theo dõi đoạn Kinh kế tiếp dưới đây:
4) – SAU CHIẾN TRẬN:
Khi Vua Lưu Ly đã tàn hại hết nước Ca Tỳ La Vệ, rồi trở về thành Xá
Vệ. Lúc ấy Thái tử Kỳ Đà ở trong cung cùng các mỹ nữ vui chơi. Đi xa xa,
Vua nghe tiếng đàn ca liền hỏi tùy tùng về tiếng đàn ca ấy, nên được
biết là Thái tử đang vui chơi; Vua cho voi rẽ vào nơi cung ấy, người giữ
cửa tâu Vua khoan vào vì Thái tử đang vui vầy, Vua liền giết người ấy;
khi nghe tiếng ồn ào bên ngoài, nên Thái tử vội ra thấy Vua cha, chào
hỏi và mời vào cung nghỉ.
Vua Lưu Ly hỏi:
- Con có biết là ta cùng họ Thích đánh nhau không? Tại sao con mải vui chơi không chịu giúp ta?
Thái tử Kỳ Đà đáp:
- Con có nghe, nhưng con chẳng kham giết hại chúng sanh, nên không thể giúp được.
Lúc ấy Lưu Ly tức giận rút gươm chém chết Vương tử Kỳ Đà!
Đức Phật dùng Thiên nhãn thấy Kỳ Đà đã chết sinh lên cõi Trời Đạo Lợi, rồi Ngài nói kệ:
Hưởng phúc trong Trời Người,
Đức Vương tử Kỳ Đà,
Làm lành sau hưởng báo,
Đều do nhân hiện tại.
Trước khổ sau cũng khổ,
Lưu Ly hai chỗ lo,
Làm ác sau thọ dữ,
Đều do nhân hiện tại.
Bấy giờ 500 cô gái họ Thích ở trong hầm sâu đau đớn kêu tên hiệu Như Lai và nói rằng:
- Như Lai ra đời từ nơi này xuất gia thành Phật, thế mà Ngài chẳng
nhớ đến chúng con đang gặp khổ nạn nơi đây, chịu đau đớn thế này sao?
Lúc ấy, đức Phật dùng Thiên nhĩ nghe các cô gái họ Thích than thở kêu oán, Ngài liền bảo các Tỳ Kheo:
- Tất cả các Thầy hãy theo Ta đến xem thành Ca Tỳ La Vệ cùng các người họ Thích bị giết.
Rồi đức Phật cùng các Tỳ Kheo đi đến thành Ca Tỳ La Vệ, các cô gái
thấy đức Phật và các Tỳ Kheo từ xa đến đều sinh hổ thẹn, khi ấy có Vua
Trời Đế Thích tay cầm phất trần đi phía bên phải, Tỳ Sa Môn Thiên Vương
đi phía bên trái cầm lọng báu che cho Phật. Đức Phật thấy thế liền quay
qua bảo Vua Đế Thích:
- Những cô gái kia đều hổ thẹn.
Đế Thích đáp:
- Đúng thế, thưa Thế Tôn.
Đế Thích liên lấy áo trời che lên thân thể các cô gái, lúc ấy, đức Phật bảo Tỳ Sa Môn Thiên Vương:
- Các cô gái này đói khát, Ông nên làm cách nào ban bố cho họ.
- Xin vâng, Thế Tôn.
Tỳ Sa Môn Thiên Vương liền sai các Quỷ Thần bày biện mang các thức ăn
tự nhiên của Trời cho các cô gái đều được no đủ. Rồi đức Phật thuyết
pháp cho 500 cô gái nghe:
- Tất cả rồi sẽ ly tán, hội ngộ rồi sẽ biệt ly, nên biết năm ấm của
con người đều chịu sự khổ đau phiền não. Phàm thọ thân phải có nghiệp
báo, phải có hành báo, nên có thụ thai, đã thọ thai rồi sẽ chịu quả báo
khổ vui bệnh già chết. Nếu không có 5 ấm sẽ không thọ thân nữa, nếu
không thọ thân nữa thì không sinh không bệnh, không già, không chết, nên
không có hội họp biệt ly, không có khổ não.
Rồi Ngài nói về khổ, nguyên nhân gây ra khổ, cách diệt khổ, và con
đường đạo; khổ là do ái dục tham lam, sân hận ngu si gây ra, nên cần
phải dứt bỏ.
Các cô gái đều được tâm ý khai mở, dứt hết ô uế của cuộc đời, được
tâm thanh tịnh, mỗi cô ở chỗ của mình mà qua đời, đều được sinh lên
Trời, lúc ấy đức Phật nói kệ:
Tất cả hành vô thường,
Có sinh ắt có chết,
Chẳng sinh thì chẳng diệt,
Diệt này là vui nhất.
Lúc ấy, đức Phật bảo các Tỳ Kheo:
- Ngày xưa Ta ở vườn Ni Câu Lưu này thuyết pháp cho các Tỳ Kheo, nhân
dân sung túc, mấy vạn chúng ở đây đắc đạo, được pháp nhãn thanh tịnh,
nay ở đây trống rỗng chẳng còn nhân dân, từ nay Như Lai sẽ không trở lại
nơi đây nữa.
Đức Phật nói rồi bèn rời nơi ấy, các Tỳ Kheo đi theo về vườn Cấp Cô Độc rừng Kỳ Đà.
LỜI BÀN:
Đọc đến đây, chúng ta thấy Vua Ba Tư Nặc là Phật tử thuần thành, tới
con là Vua Lưu Ly lại là người không hiểu Phật pháp, nên đã hành động
theo bản tính thường tình, đó là bị sự giận dữ thù hằn sai khiến nên đã
làm một việc đại ác giết người không thương tiếc như thế!
Tới cháu đích tôn của Vua Ba Tư Nặc là Thái tử Kỳ Đà lại là Phật tử
thuần thành, hiểu rõ Phật pháp, nên đã nói với Vua Lưu Ly rằng: “Con
chẳng kham giết hại chúng sinh, nên không thể giúp được”. Tức là chẳng
nỡ, chẳng đành lòng giết hại chúng sanh, nên không thể đi giết người để
giúp Vua cha; vì vậy, Lưu Ly đã nổi điên lên liền rút gươm giết luôn con
mình không cần suy nghĩ!
Mặt khác, 500 cô gái họ Thích đã bị chặt chân tay rồi bỏ trong hầm
sâu rất đau đớn, nhưng chưa chết được. Một điểm cần nêu ra ở đây là việc
làm vô cùng ác độc của Lưu Ly và quân lính, đã chặt tay chân còn lột
hết quần áo khiến các cô gái đều lõa thể trần truồng. Đây là thú tính
của con người tàn ác dã man nên mới làm như thế!
Khi các thanh thiếu nữ ấy thân bị vứt nằm ngổn ngang trong hầm đau
đớn kêu than cầu Phật nhớ đến họ, Ngài và các đệ tử đã đến để an ủi và
độ cho các cô gái còn đang như những đóa hoa rực rỡ muôn màu trong xuân
tươi mát bị chà đạp rập vùi bởi những bàn tay hung tàn độc ác trên cõi
đời tục lụy trần gian!
Đức Phật đã bảo các Vua Trời che thân thể và săn sóc các cô gái vào
lúc cuối đời của họ, Ngài còn thuyết pháp cho họ nghe, Ngài dạy: “Năm ấm
của con người đều chịu sự khổ đau phiền não.”
Năm ấm là gì? Năm ấm cũng gọi là năm uẩn, gồm có: Sắc, thụ,
tưởng, hành, và thức. Năm thứ ấm này hợp lại thành con người, được chia
ra như sau:
THÂN: Cũng gọi là Sắc là xác thân gồm bốn thứ: đất, nước, gió, lửa hợp thành thân thể các bộ phận tay chân con người.
Đất: là chất cứng như xương, móng, tóc, gân thịt.
Nước: là chất lỏng như máu, chất nhờn, nước bọt, nước tiểu.
Gió: là không khí như hơi thở, ợ, ngáp v.v...
Lửa: là hơi nóng trong cơ thể con người.
TÂM: Về tinh thần, gồm bốn thứ là thụ, tưởng, hành, thức.
Thụ là thọ là cảm giác vui buồn khi 6 căn là mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý tiếp xúc với 6 trần là hình sắc, âm thanh, mùi, vị, xúc
chạm, pháp (vạn vật).
Tưởng là tưởng tượng tưởng nhớ, là tri giác, là hình dung ngoại cảnh.
Hành là những hoạt động có tác ý, có ý muốn, do suy nghĩ sinh, do ý muốn mà có hành.
Thức do sự nhận biết phân biệt khi 6 căn tiếp xúc với 6 trần mà có.
Tại sao năm ấm của con người đều chịu sự khổ đau phiền não? Vì:
Về thân: Bốn thứ đất nước gió lửa trong cơ thể nếu không điều
hòa sẽ làm con người đau ốm. Ví dụ: Thiếu chất đất cứng sẽ bị bệnh loãng
xương gẫy xương, người lớn tuổi thường hay bị bệnh loãng xương, thiếu
chất lửa, chúng ta bị lạnh, nhiều chất nóng quá bị nhức đầu bị sốt,
thiếu chất nước (chất nhờn) khó cử động tay chân v.v...
Về Tâm: Tất cả thụ, tưởng, hành, thức phát khởi tức là các sự
nhớ tưởng, suy nghĩ, phân biệt đều đưa đến khổ đau phiền não cả. Như khi
mắt thấy hình sắc sẽ khởi yêu ghét, yêu thích cái sinh đẹp tìm cách đạt
cho được, đó là tham đắm, nên tạo khổ, ghét cái xấu thì chê bai, tìm
cách gạt bỏ, nên cũng tạo khổ.
Tai nghe lời nói ưa hay ghét, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc
chạm, ý nghĩ muôn việc cũng như thế, đều tạo khổ đau phiền não, nên đức
Phật nói: “Năm ấm của con người đều chịu sự khổ đau phiền não” là vậy.
Chúng ta theo dõi đoạn Kinh chót để biết nghiệp báo nhãn tiền.
5) - QUẢ BÁO NHÃN TIỀN:
Khi về vườn Cấp Cô Độc, rồi đức Phật bảo các Tỳ Kheo:
- Vua Lưu Ly và quân lính cùng tùy tùng của ông ta chẳng còn ở đời bao lâu nữa, sau bảy ngày sẽ bị tiêu diệt!
Bấy giờ Vua Lưu Ly nghe tin đức Phật thụ ký rằng “Vua Lưu Ly cùng
quân lính tùy tùng sẽ chết trong vòng bảy ngày” thì lo sợ bảo quần thần:
- Nay Như Lai huyền ký ta chẳng còn ở đời lâu, sau bảy ngày sẽ cùng
quân lính chết hết. Các Ông coi xét cho kỹ xem có giặc, lửa, nước, tai
biến xâm phạm đất nước chăng, vì sao? Vì Chư Phật không có hai lời,
không hư dối; các Ông phải cho canh phòng ngày đêm thật nghiêm ngặt,
chuẩn bị mọi thứ, sẵn sàng đề phòng mọi bất chắc có thể xảy ra bất cứ
lúc nào.
Phạm chí Hiếu Khổ tâu:
- Đại Vương không cần sợ hãi, bên ngoài không có giặc cướp đáng sơ,
cũng không có lửa nước tai biến nào cả, Đại Vương nên vui chơi.
Lưu Ly sai đếm từng ngày, đến đầu ngày thứ bảy, Vua vui mừng không
thể kìm giữ, đem các quân binh cùng quần thần và mỹ nữ đến bờ sông A Chi
La vui chơi, rồi nghỉ đêm tại đó.
Nửa đêm, bất ngờ có mây đen kéo đến, rồi mưa to gió lớn rất mau, Vua
Lưu Ly cùng bốn bộ quân binh và quần thần đều bị nước cuốn đi hết, tất
cả đều bị tiêu diệt sạch. Chết rồi, tất cả cùng vào địa ngục!
Lại có sấm sét gây lửa Trời khiến cung thành của Lưu Ly cháy thiêu rụi thành than!
Đức Phật dùng Thiên nhãn xem thấy Vua Lưu Ly và bộ hạ bị mưa gió bão
tố lôi cuốn chết hết, rồi bị đọa vào địa ngục A Tỳ. Lúc ấy, Ngài nói kệ:
Tạo ác thật quá mức,
Đều do thân miệng làm,
Thân này chịu khổ não,
Thọ mạng cũng ngắn ngủi.
Nếu ở lại trong thành,
Cũng bị ngọn lửa thiêu,
Khi túc mạng đã hết,
Ắt sinh trong địa ngục.
Bấy giờ các Tỳ Kheo thưa với đức Phật:
- Nay Vua Lưu Ly đã chết rồi, ông ta sinh về đâu?
Đức Phật bảo:
- Vua Lưu Ly sinh vào địa ngục A Tỳ.
Có Tỳ Kheo thắc mắc hỏi Phật:
- Những người họ Thích xưa kia tạo nhân gì mà nay bị Vua Lưu Ly hại nhiều như thế?
Đức Phật nói:
- Ngày xưa về lâu xa, trong thành La Duyệt này có một làng to lớn
chuyên môn đánh cá, khi ấy đời sống hết sức nghèo đói, người phải ăn cả
rễ cây, tại làng ấy có một cái ao đầm lớn có rất nhiều cá, nhân dân
trong làng đều bắt cá ăn; dưới nước có hai loại cá, một loại tên Câu
Tỏa, một loại tên Lưỡng Thiệt (hai lưỡi).
Hai cá đầu đàn của hai loại cá ấy nói với nhau: “Chúng ta không có
lỗi lầm gì với những người trong làng này, họ bắt ăn bà con chúng ta hết
lớp nọ đến lớp kia, nếu chúng ta có phúc đức, sau này sẽ dùng vào việc
báo oán”. Chẳng bao lâu sau, hai cá lớn đầu đàn ấy cũng bị bắt, lại có
một đứa bé mới 8 tuổi không hại mạng cá, cũng không bắt cá, nhưng lúc
hai cá đầu đàn kia bị bắt, đứa bé trông thấy vui mừng.
Các Thầy nên biết, các Thầy chớ cho rằng nhân dân thành La Duyệt lúc
đó là những người nào, nay họ chính là những người họ Thích vậy, con cá
đầu đàn Câu Tỏa bây giờ là Vua Lưu Ly, con cá Lưỡng Thiệt nay là Phạm
chí Hiếu khổ. Đứa bé thấy hai cá đầu đàn (hai cá to lớn) kia bị bắt vui
cười lúc đó, nay chính là Ta. Các người ở thành La Duyệt hồi đó ăn cá,
nay chịu sự trả thù này, còn Ta vui cười nay bị nhức đầu. Vì Như Lai
không thụ thân sau nên qua hết các nguy nan, các Thầy nên giữ gìn hành
động từ thân miệng ý. Các Thầy nên học điều này.
LỜI BÀN:
Việc xảy ra cho Vua Lưu Ly thật là kỳ lạ ngoài sự dự đoán của mọi
người, lúc mới nghe tin đức Phật thụ ký như thế, Vua Lưu Ly đã thấy sợ,
nhưng có đại thần Hiếu Khổ tâu mọi việc giặc cướp nước lửa đều không có
gì đáng quan tâm vì đã đề phòng cẩn thận. Lại nữa, đến ngày thứ bảy mà
vẫn thấy êm thấm, Vua Lưu Ly đã tưởng là thoát, không có gì xảy ra, nên
mừng rỡ không thể kìm giữ, liền ra lệnh tất cả ra bờ sông ăn mừng. Đâu
có ngờ rằng đó là buổi ăn chơi cuối cùng chào biệt cõi đời của kẻ kiêu
ngạo ác độc cùng cực trên thế gian!
Trận giông tố bão bùng sấm sét mưa tuôn ấy chỉ trong ít giờ sau đã
quyét sạch sự kiêu căng cao ngạo của con người bạo tàn tiêu diệt gần 10
triệu sinh linh! nước mưa trong vũ bão đã cuốn đi rửa sạch máu và chôn
vùi thi thể oan khiên của nhân dân cả nước Ca Tỳ La Vệ sau cuộc thảm sát
chỉ trước đó mới 10 ngày. Đây là một thảm kịch của con người do lòng
thù hận, tính bạo tàn gây ra. Từ ngày ấy đến nay đã trên 2550 năm, nhưng
như lịch sử chứng tỏ con người vẫn tiếp tục giữ lòng hận thù, giữ tính
bạo tàn, nên đã có biết bao nhiêu sự thảm sát tiếp tục xảy ra trên thế
giới này!
Đoạn cuối bài Kinh, đức Phật kể tiền duyên, nghiệp xưa gây nên quả
báo, chúng ta thấy nghiệp báo nhân quả rõ ràng là một định luật thiên
nhiên, có nhân là có quả, quả đi theo nhân như bóng với hình, không đi
đâu tránh khỏi được; chỉ có tu hành mới có thể chuyển nghiệp được phần
nào, cho tới khi tu đạt đạo ra khỏi luân hồi sinh tử mới ra khỏi khổ
não, và ra khỏi nghiệp báo được mà thôi.
Toàn Không