Nói chung là dòng nghi lễ của Phật 
giáo Việt Nam phát triển từ Bắc đến Trung và vào Nam. 
Riêng ở
 miền Trung có được nét đặc biệt là trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân 
tranh, được các Tổ sư ở Trung Hoa sang đã cải cách những nghi lễ vốn 
đang được sử dụng khiến cho nghi lễ miền Trung mang đậm nét cung đình; 
còn nghi lễ từ Phú Yên trở vào thì mang đậm tính dân gian hơn. Nhưng 
phải nhìn nhận là nghi lễ của Phật giáo miền Nam phong phú hơn vì được 
thừa hưởng tất cả những dòng nghi lễ trên và nhờ vào những giọng điệu, 
âm điệu vốn có của người miền Nam nên đã tạo thành những phong cách 
riêng rất đa dạng và đặc sắc. Chẳng hạn, mỗi một bài “tán” ở miền Nam đã
 mang một điệu khác, không còn mang những nét nguyên thủy của Bình Định 
mà đã theo tiếng nhạc riêng của miền Nam.” (1)
Đây
 chính là tính cách tuỳ duyên của nghi lễ, bởi nó chuyển tải được tâm 
tư, tình cảm, tập quán cùng cách sống hài hoà của vùng đồng bằng Nam bộ.
 Riêng tại Sóc Trăng, là một tỉnh vùng ven gần cuối miền đất nước, được 
xây dựng và phát triển với 3 sắc dân tộc: Kinh – Hoa – Khmer. Vì thế, 
Ban nghi lễ Phật giáo Sóc Trăng ít nhiều cũng ảnh hưởng đến những cung 
bậc nhẹ nhàng thanh thoát như mây trôi nước chảy… của Phật giáo người 
Hoa. Cùng với nhịp điệu giản đơn bình dị với phong thái tự nhiên của 
Phật giáo Nam tông Khmer đã toát lên ý nghĩa “bản thể như nhiên.”
Từ
 sự đồng thuận với quan điểm của tác giả Lê Việt Nhân, người viết xin 
ghi đậm 4 điểm để nói lên tính tùy duyên của Nghi lễ “Nghi lễ Phật giáo 
trong đời sống văn hoá tâm linh.”
01.
 Những yếu tính cần thiết của người hành trì: Người hành trì là tác nhân
 chủ yếu có thể làm tăng vẻ trang trọng cho pháp hội hay ngược lại. Vì 
yếu tính của nghi lễ là tác động đến tâm thức của người nghe, do vậy 
muốn cho nghi lễ làm hay thì người hành trì nghi lễ phải có đời sống nội
 tâm (tâm linh) cao. Người có đời sống tâm linh cao chừng nào thì hành 
trì nghi lễ hay chừng ấy. Hơn thế nữa, nghi lễ chỉ hay khi người hành 
trì hòa mình vào các nhạc khí và giọng điệu của mình để đánh vào tâm 
thức người nghe. Những điệu “tán,” “tụng” chỉ có tác dụng thu hút mọi 
người khi người hành trì nghi lễ tập trung tâm trí của mình vào việc 
hành lễ. Trái lại, nếu người nào chỉ biết tán tụng mà không có đời sống 
nội tâm cao thì việc hành lễ sẽ chẳng thu hút được mọi người, chỉ khiến 
cho họ điếc tai mà thôi. Cũng giống như trong hát dân ca, người nghệ sĩ 
phải nhập vai mới thu hút được người xem, và phải gửi gắm tâm tư tình 
cảm vào bài hát mình trình diễn.
Lâu
 nay, có người không hiểu vai trò đó, nên chỉ chú trọng luyện giọng cho 
tốt, không chú trọng đến định lực, chánh niệm nên cuối cùng không chuyển
 tải được tác dụng nào về mặt hoằng pháp cả. Do đó, muốn hành trì nghi 
lễ hay cần phải hội đủ 4 yếu tố sau:
(a) Phải có chánh niệm, định lực; 
( b) Phải tham cứu giáo lý khi ứng dụng khoa nghi, phù hợp với khoa học;
(c) Phải có nghệ thuật điêu luyện đúng mức về giọng điệu;
(d) Phải mang tính quần chúng, đậm nét văn hóa Phật giáo và Dân tộc.
Thiếu
 một trong 4 yếu tố trên, người hành trì nghi lễ không thể đem nghi lễ 
phổ cập được, nhất là làm giảm lược ý nghĩa tôn quý của nghi lễ Phật 
giáo.
02.
 Nghi lễ ảnh hưởng không nhỏ cho việc phát triển Phật giáo: Nếu như 
người hành trì nghi lễ không chịu học giáo lý, không chú tâm vào đời 
sống tâm linh và sử dụng nghi lễ như một phương tiện kiếm sống... thì 
đồng nghĩa với việc ngăn trở bước phát triển của Phật giáo. Cụ thể như 
các nước: Trung Hoa, Đài Loan, Nhật Bản... nghi lễ phát triển song hành 
với mọi sinh hoạt của Phật giáo. Cũng thế, Phật giáo Việt Nam có một 
giai đoạn phát triển vào giữa thế kỷ 19, trong đó có sự góp mặt của Nghi
 lễ Phật giáo. Câu nói rất gần gũi của Phật giáo là “tùng sự hiển lý.”
Từ
 đây, có thể khẳng định được vai trò của ngành Nghi lễ Phật giáo. Chẳng 
hạn, trong lần Hội thảo đầu tiên với bao nhiêu dự tính, phương hướng tốt
 đẹp được nêu ra, giờ kiểm lại chúng ta đã thực hiện được những gì… từ 
việc thành lập Tiểu ban soạn thảo giáo án, giáo trình cho đến việc thống
 nhất những Lễ hội lớn từ trung ương đến địa phương. Ở đây, chúng tôi 
xin nêu lên một yêu cầu bức thiết, kính mong các ngành Giáo dục, Hoằng 
pháp, Văn hoá… hiểu và hỗ trợ cho Ban nghi lễ thể hiện được vai trò của 
mình, sau đó chúng ta mới có thể bàn đến việc phát triển Phật giáo.
03.
 Nghi lễ đồng hành với đời sống tu học của Tăng Ni: Có thể khẳng định 
rằng nghi lễ hiện nay đang bị bỏ quên, không có một phương hướng đào tạo
 cụ thể. Nếu có thì chỉ truyền dạy theo lối Tổ truyền và chỉ đi sâu vào 
những điệu “tán,” “tụng” chứ không chú trọng về tâm thức khi hành lễ. 
Ngày xưa, các vị Tổ sư đã dạy rằng: “Học kinh ba tháng, học tán ba năm.”
 Thế mà hiện nay, đối với Phật giáo Việt Nam vai trò của nghi lễ vẫn 
chưa được nhận thức đúng. Trong khi ở các nước Phật giáo trên thế giới 
thì môn học đầu tiên của các Tăng Ni khi vào chùa là phải học nghi lễ. 
Bởi họ quan niệm rằng “Tôn giáo mà không có nghi lễ sẽ trở thành học 
thuyết suông.”
Vâng,
 điều này luôn diễn ra hàng ngày trong sự sinh hoạt của Tăng Ni, là một 
sự thực đáng cần quan tâm - vấn đề vẫn là rất cần sự hợp tác của các ban
 ngành.
04.
 Nghi lễ cần phải sớm khôi phục và phát triển: Cần phải có một cái nhìn 
đúng về nghi lễ! Không chỉ Tăng Ni mà tất cả mọi người phải nhìn nhận 
rằng “Nghi lễ của thiền gia để hành trì chứ không phải để làm đám”... 
Cần loại trừ những tệ hại phát sinh từ nghi lễ. Muốn được như thế, thiết
 tưởng không thể không nhờ đến ngành Tăng sự, để sớm thanh lọc những tệ 
hại phát sinh từ nghi lễ, để mọi người nhìn thấy rằng đây cũng là một 
pháp môn như bao pháp môn khác cần tu tập. Nhất là cần được phổ biến 
truyền tụng cho tất cả Tăng Ni để mọi người ai cũng phải biết hành trì 
nghi lễ. Tuy rằng không chuyên, nhưng phải biết để thấy giá trị thật sự 
của nghi lễ, “Phật giáo còn thì Nghi lễ còn”.
Thật
 ra, không chỉ người Tây phương mà ngay cả những người Ðông phương, cho 
đến một số các Phật tử chính thống cũng quan niệm một cách lệch lạc về ý
 nghĩa lễ nghi và sự cầu nguyện trong Phật giáo. Trường hợp hiểu lầm 
việc cầu Phật, lạy Phật, cúng Phật để được Ngài ban bố tài lợi là một 
chuyện rất thường xảy ra trong giới Phật tử; chỉ biết Phật mà không có 
cơ hội học hỏi Phật pháp, không hiểu rõ nghĩa lý sâu xa của những biểu 
tượng lễ nghi và cầu nguyện trong Phật giáo. Ðây là nguyên nhân để cho 
một số người đứng ngoài Phật giáo vội kết luận rằng hình thức lễ nghi và
 cầu nguyện trong Phật giáo là một hình thức lỗi thời, lạc hậu, bày tỏ 
lòng yếu đuối, vọng cầu, thiếu tinh thần tự lực và tự giác ngộ. Nếu hiểu
 chính xác ý nghĩa cầu nguyện thì cầu nguyện là một phương pháp tu tập, 
có giá trị tương đương với phương pháp thiền định, quán chiếu tự tâm. 
(2)
Tóm 
lại, Nghi lễ là một phương tiện thiện xảo cho tinh thần nhập thế của 
Phật giáo. Hay nói cách khác, Nghi lễ Phật giáo là một phương pháp tu 
tập “tùng sự hiển lý,” qua những bài kệ, thơ văn… chuyển tải hành trạng 
tu tập của các bậc Tổ sư, chư vị Bồ tát… Kính mong chư Tôn đức quan tâm 
đúng mức để sớm khôi phục, làm sáng lại những công đức và đạo nghiệp của
 các bậc tiền nhân, nhất là mở lối cho người sau hiểu đúng, nhận rõ 
những giá trị muôn đời ấy. 
Chú thích: 
(1) Lê Việt Nhân - Nét đặc thù của nghi lễ Phật giáo Việt Nam.
(2) Nghi Lễ có phải là Tín ngưỡng không - Hoà thượng Thích Tịnh Từ.