Một số người tin rằng Phật giáo là một hệ thống giáo
lý qúa cao siêu và vi diệu mà những ngươì nam nữ bình thường
trong thế giới của chúng ta không thể hành theo được. Và họ cũng
quan niệm rằng người ta muốn trở thành một Phật tử thuần thành
chân chánh thì anh ta phải xa lìa thế gian này để trú ẩn vào một
nơi tự viện, hoặc một vài nơi yên tịnh nào đó để tu học.
Đây là một quan niệm sai lầm đáng buồn rõ ràng là do sự thiếu
hiểu biết về lời dạy của Đức Phật. Một số lại vội vàng đi đến một
kết luận hấp tấp và sai lạc như thế là do kết quả chỉ nghe người
ta nói hoặc đọc cẩu thả, lấy lệ một tác phẩm Phật giáo do một số
tác giả viết, mà những người này do vì không hiểu vấn đề trên
mọi phương diện của nó,cho nên chỉ đưa ra một quan điểm phiến
diện và hời hợt thiên vị về vấn đề đó. Giáo pháp của Đức Phật
không chỉ dành riêng cho giới cư sĩ tại gia sống với gia đình,
bánh thánh đạo, một quy tắc, triết lý sống của Phật giáo, dành
cho tất cả mọi người để hành trì, mà không có một sự phân biệt về
chủng loại.
Song, không phải đại đa số chúng ta đều có thể xuất gia, hoặc
là ẩn tu trong những hang động hay rừng rú. Giáo lý của Đạo Phật
cho dù có cao thượng hay thanh tịnh như thế nào đi nữa, nó sẽ trở
nên vô ích đối đại đa số nhân loại trên thế gian này nếu họ
không thể thực hành những lời dạy ấy trong cuộc sống thường nhật
đối với thế giới đương đại. Nhưng nếu các vị hiểu được tinh thần
của Phật giáo đúng như bản chất của nó ( và không chỉ ở ngôn từ
hình thức) , thì chắc chắn rằng các vị có thể thực tập và hành
trì những lời dạy ấy khi đang hiện hữu như một con người bình
thường.
Cũng có thể có một vài người cảm thấy dể dàng hơn và thuận
tiện hơn để chấp nhận Phật giáo, nếu họ sống ở một trú xứ xa xôi,
cách ly với đời sống của mọi người khác trong xã hội. Một số
khác lại cảm thấy rằng sự ẩn dật, tránh né như thế là một sự ngu
xuẩn, và áp chế toàn bộ con người họ về mặt vật lý lẩn mặt tâm
linh. Do vậy, lối sống đó không thể đưa đến sự tiến bộ về đời
sống tinh thần và trí tuệ của họ.
Chân chánh xuất gia không có nghĩa là lánh xa cuộc đờivề mặt
vật chất. Xá Lợi Phất (Sàriputra) vị đệ tử chính của Đức Thế
Tôn, nói rằng một con người có thể sống trong rừng, chú tâm vào
việc thực hành những hạnh khổ hạnh, nhưng trong tâm vẫn chứa đầy
tư tưởng bất tịnh và nhiễm ô, cấu uế, trong khi đó một người khác
có thể trú tại một ngôi làng hay nơi thành thị, không thực hành hạnh
khổ hạnh, song tâm của anh ta có thể được thanh tịnh, và không có
nhiểm ô, cấu uế >> Trong hai loại người này, Xá
Lợi Phất nói, người sống một cuộc đời thanh tịnh ở nơi làng mạc
hay thành thị thì rõ ràng cao thượng hơn và vĩ đại hơn người sống
ở nơi rừng núi (1).
Tín ngưỡng thông thường rằng để thực hành lời Phật dạy, con
người phải trốn tránh cuộc đời, ẩn tu ở một nơi nào đó là một
quan niệm sai lầm. Đó thật sự là một sự chống lại lời dạy của Đức
Phật một cách vô thức. Trong nền văn học Phật giáo có vô số
trường hợp liên hệ đến giới cư sĩ tại gia ( ưu bà tắc, ưu bà di)
sống một cuộc sống bình thường, nhưng họ có thể thực hành lới dạy
của Đức Phật trong đời sống thường nhật của gia đình họ một cách
thành công và kết qủa là họ đã chứng đắc sự an lạc, Niết
Bàn.Trường hợp chàng du sĩ Vacchagotta, một lần chất vấn thẳng
với Đức Phật rằng liệu người cư sĩ tại gia thực hành giáo pháp
của ngài một cách thành công và chứng đắc những trạng thái tâm
cao chăng. Đức Phật phát biểu một cách quả quyết rằng không phải duy
chỉ có một, hoặc hai, một trăm, hai trăm hoặc năm trăm, mà có nhiều
hơn nữa giới cư sĩ sống tại gia thực hành lời dạy của ngài thành
công và chứng đắc những trạng thái tâm cao thượng .
Đối với một số người nào đó, họ có thể chấp nhận sống một cuộc
sống yếm thế ở một nơi yên tịnh cách ly với tiếng ồn và cảnh náo
nhiệt. Song chắc chắn đáng được tuyên dương, và can đảm hơn nếu
họ thực hành theo lời Phật dạy trong lúc đang sống chung với đồng
loại của mình, giúp đỡ họ, và sẳn sàng phục vụ họ. Đối với một
số trường hợp, có lẽ lợi ích hơn đối với một ai đó sống trong một
môi trường yếm thế trong một thời gian nhằm mục đích phát triển
tâm, và nhân cách của mình, như là sự tu tập giới luật và định để
trở nên mạnh mẽ hơn sau này để nhập thế giúp đỡ và phục vụ cho
đời. Nhưng nếu anh ta sống cả cuộc đời viễn ly, độc cư và yếm
thế, chỉ nghĩ về lợi lạc và hạnh phúc của bản thân và sự giải
thoát cho riêng mình, mà không hề bận tâm lo lắng cho đồng loại,
thì chắc chắn đây không phải là phù hợp với lời dạy của Bậc Đạo
Sư được căn cứ trên cơ sở tình thương, từ bi và sự phục vụ tha
nhân. Bây giờ người ta có thể thắc mắc :” Nếu một ai đó có thể tu
tập theo Phật giáo giữa lúc đang sống một cuộc sống trần tục,
thì tại sao Tăng già, Giáo hội, Tăng đoàn được Đức Phật thành lập
? Giáo hội Tăng già tạo cơ hội cho những ai sẵn sàng dâng hiến
cuộc đời mình không chỉ vì nhu cầu tiến bộ về mặt tâm linh mà còn
là sự phục vụ cho tha nhân, chúng sanh. Một người cư sĩ tại gia không
thể hy vọng để hy sinh cả cuộc đời mình nhằm mục đích phục vụ
chúng sanh, trong khi đó một người xuất gia, không bị ràng buộc bởi
những trách nhiệm của gia thất và những mối quan hệ ngoài đời
khác thì không ở vào thế mắc kẹt để dâng hiến, tận tụy cả cuộc
đời mình vì lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc, an lạc cho quần
sanh, theo lời khuyên của Đức Phật. Chính vì thế mà trong suốt
tiến trình lịch sử tự viện Phật giáo đã trở thành không những là
một nơi trung tâm đời sống tâm linh mà còn là một trung tâm giáo
dục và văn hóa.
Kinh Thiện Sinh (Sigala – Sutta – Trường Bộ Kinh – Kinh số 31)
cho thấy rằng Đức Phật rất tôn trọng cuộc sống của cư sĩ tại
gia, gia đình anh ta, và những mối tương quan trong xã hội.
Một chàng thanh niên trẻ tuổi tên là Thiệân Sanh (Sigala)
thường đảnh lễ sáu phương hướng : Đông, Nam, Tây, Bắc, Trên Và
Dưới theo di chúc của người cha anh ta trước khi ông qua đời. Đức
Phật dạy chàng trai thanh niên trẻ tuổi rằng “giới luật thánh
thiện” của lời dạy của Ngài thì sáu phương đó là : phương Đông
chỉ cho cha mẹ ; phương Nam chỉ cho sư trưởng ; phương Tây chỉ
cho vợ con ;phương Bắc chỉ cho bằng hữu, họ hàng và láng giềng ;
phương Trên chỉ cho Sa môn Bà la môn và Bậc Thánh ; phương Dưới
chỉ cho đầy tớ, người giúp việc. Đức Phật dạy :”lễ lạy”
(worship), rất là đặc trưng và có ý nghĩa,bởi vì anh ta lễ lạy một điều
gì thiêng liêng, một điều gì xứng đáng được tôn trọng và kính
ngưỡng.
Sáu nhóm quan hệ đối với gia đình và xã hội được đề cập ở
trên, trong Phật giáo, được xem là thiêng liêng đáng được tôn
kính và lễ lạy, tôn thờ. Nhưng người ta phải lễ lạy, tôn thờ
những mối quan hệ ấynhư thế nào? Đức Phật dạy rằng người ta có
thể lễ lạy và tôn thờ những điều ấy chỉ thông qua việc thực thi
trách nhiệm và bổn phận của anh ta đối với những điều ấy. Những
trách nhiệm và bổn phận này được giải thích trong bài pháp của
ngài cho chàng thanh niên Thiện Sinh.
Trước tiên, cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái, Đức Phật
dạy : cha mẹ được gọi là phạm thiên (Brahma) từ phạm thiên
(Brahma) ám chỉ một quan niệm cao nhất và linh thiêng nhất đối
với tư duy Aán Độ thời bấy giờ và Đức Phật liệt bố mẹ vào trong
đó. Do đó, trong một gia đình Phật tử thuần tín, đối với thời đại
ngày nay, đúng là con cái tôn thờ bố mẹ của chúng mỗi ngày, sáng
lẫn tối. Họ phải làm một số nhiệm vụ và bổn phận đối với bố mẹ
của họ theo giới luật thánh thiện : họ phải quan tâm chăm sóc bố
mẹ của họ ở độ tuổi xế chiều, phải làm bất cứ những gì họ phải
làm vì nhu cầu của bố mẹ, phải duy trì danh dự của gia đình và
tiếp tục phát huy truyền thống của gia đình, phải bảo vệ tài sản,
của cải do bố mẹ của họ kiếm được, và lo tổ chức tang đám khi bố mẹ
qua đời. Bố mẹ, ngược lại, phải có một số trách nhiệm đối với con
cái của ho. Họ phải giáo dục con cái tránh xa những việc làm xấu
xa, tội lỗi; hướng chúng vào những nghề nghiệp lành mạnh và có
lợi lạc; cho con cái ăn học đến nơi, đến chốn. Dựng vợ, gả chồng
cho chúng ở những nơi gia đình tốt, và giao của cải tài sản cho
chúng đúng lúc.
Thứ hai :mối quan hệ giữa thầy và trò : học trò phải cung kính
và vâng lời thầy, phải hỗ trơc thầy lúc cần thiết, phải siêng
năng học tập. Và ngược lại thầy đối với trò : phải rèn luyện và
dạy dỗ học trò nên người tốt; giới thiệu học trò cho bạn bè của
chúng, và cố gắng tạo việc làm đảm bảo sau khi học trò học xong.
Thứ ba : mối tương quan giữa vợ và chồng : tình yêu giữa vợ và
chồng được xem như rất là tôn giáo và thiêng liêng. Nó được gọi
là “Sadara – Brahmacariya” ( đời sống gia đình thiêng liêng). Ở
đây cũng vậy, ý nghĩa đặc trưng của từ “Brahma” nên được hiểu là :
sự tôn trọng cao nhất đối với mối quan hệ này. Vợ và chồng phải
chân thành tin tưởng lẫn nhau, tôn trọng và hết mình vì nhau, và họ
có một số trách nhiệm đối với nhau : người chồng phải tôn trọng vợ
và không bao giờ thiếu sự tôn trọng đối với vơ; anh ta phải yêu
thương vợ và chung thủy, chân thành với cô ta; đảm bảo vị trí và
tiện nghi của vợ, và làm cho vợ vui lòng bằng cách thường mua áo
quần và nữ trang cho cô ta. (Sự kiện Đức Phật đề cập những món
quà như thế do người chồng tặng cho vợ, chứng tỏ Ngài hiểu và
thông cảm những cảm xúc và tình cảm thế gian của Ngài đối với
tình cảm bình thường của con gnười). Ngược lại, người vợ nên giám
sát và chăm lo công việc nội trợ nhà cửa; đón tiếp khách khứa,
bạn bè, bà con, họ hàng, và người làm thuê; thương yêu và trung
thành với chồng mình; bảo vệ của cải do chồng kiếm được, và phải
sáng suốt và nhiệt tâm trong tất cả các công việc.
Thứ tư : mối quan hệ giữa bạn bè, họ hàng quyến thuộc và hàng
xóm : họ phải hiếu khách và nhân từ đối với nhau, nói lời vui vẻ
và dễ chịu, làm việc lợi lạc cho nhau, đối xử bình đẳng với nhau,
giúp đỡ nhau trong những lúc cần thiết, và cưu mang lẫn nhau khi
gặp khó khăn, hoạn nạn.
Thứ năm : mối tương quan giữa chủ và tớ : người chủ có một số
trách nhiệm đối với người giúp việc của mình : công việc được
giao cho phải phù hợp với khả năng và năng lực của họ; trả tiền
công thích đáng; điều trị người giúp việc khi họ có bệnh hoạn, ốm
đau, thỉnh thoảng cho nghỉ phép. Người giúp việc trở thành bạn
của mình. Nếu không đối xử đúng đắn thì người giúp việc sẽ trở
thành người thù của chủ. Ngược lại, đối với chủ, người giúp việc
hay người làm thuê phải thức khuya dậy sớm, siêng năng và không
giải đãi; trung thành và vâng lời chủ và không phản bội chủ mình;
tự bằng lòng với những gì chủ cho; khéo đảm đang công việc, và
đem danh tiếng tốt về cho chủ
Thứ sáu : mối quan hệ giữa Sa môn, Bà la môn và cư sĩ tại gia :
người cư sĩ phải quan tâm chăm lo những nhu cầu về đời sống vật
chất của các Bậc Đạo Sư, Sa Môn ... với tình thương và sự kính
trọng. Sa môn, Bà la môn thương xót chúng sanh với tâm từ bi, dạy
dỗ những điều chưa biết và ngăn không cho làm điều ác, khuyến
khích làm điều thiện, và làm cho thanh tịnh những điều đã nghe.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng cuộc sống tại gia của người
cư sĩ, với những quan hệ gia đình và xã hội trong “ giới luật
thánh thiện” và nằm trong khuôn mẫu của một lối sống theo tinh
thần Phật giáo như Đức Phật đã vạch ra.
Cũng thế, trong Kinh Trường Bộ, một trong những bộ kinh bằng
ngữ hệ Pali cổ nhất, Sakkra, vua của cõi trời (devas) tuyên bố
rằng ngài tôn kính không chỉ những người xuất gia sống một cuộc
đời phạm hạnh mà còn những người đệ tử tại gia (upàsaka), gieo
trồng những công đức, phước điền, có phạm hạnh, và duy trì gia
đình sống theo lối sống chân chánh.
Nếu một ai muốn ước ao trở thành một phật tử, thì sẽ không có
một buổi lễ kết nạp (hoặc lễ rửa tội nào) mà anh ta phải trải qua
(nhưng để trở thành một Tỳ kheo (Bikkhu), một thành viên của
Tăng già (member of the Sangha), thì anh ta cần phải trải qua một
quá trình tu tập và học hỏi lâu dài, còn nếu ai muốn tìm hiểu
lời Phật dạy và tin chắc rằng giáo pháp của ngài là chân đạo và
nếu cố gắng thực hành những lời dạy đó, thì lúc đó anh ta trở
thành một người Phật tử. Nhưng theo phong tục và truyền thống xưa
ở các nước Phật giáo, một người được coi là Phật tử nếu người ấy
qui y Phật (Buddha), quy y Pháp (Dhamma) quy y Tăng (Sangha) – gọi
chung là Tam Bảo. (The Triple Gem). Khi thọ lễ quy y, người ấy
lãnh thọ Ngũ giới (Pãnca – Sila) – trách nhiệm về mặt luân lý đạo
đức tối thiểu của một người cư sĩ tại gia .Năm giới đó là : 1 –
không được sát hại sanh mạng; 2 – không được lấy của không cho; 3
– không được tà dâm; 4 – không được nói láo; 5 – không được rượu
chè say sưa. Vào những buổi lễ truyền giới, Phật tử tại gia vâng
tập và thường đọc tụng những giới điều dưới sự hướng dẫn của một
vị thầy xuất gia.
Không có hình thức lễ nghi bên ngoài mà một người Phật tử phải
thực hành. Đạo Phật là một triết lý, con đường sống, và những gì
quan trọng và cần thiết là việc thực hành Bát Thánh Đạo. Tất
nhiên, tại các quốc gia Phật giáo, vào những dịp lễ có những hình
thức lễ nghi giản đơn nhưng đẹp, và mang ý nghĩa thiêng liêng.
Có những điện thờ hình tượng của Đức Phật, bảo tháp (stupa) và cây Bồ
đề (Bodhi tree) trong các tu viện nơi mà giới Phật tử chiêm
ngưỡng, dâng hương hoa cúng dường. Điều này không giống với sự
cầu nguyện trong các tôn giáo hữu thần, đó chỉ là một cách đãnh
lễ thành kính để tưởng nhớ một Bậc Đạo Sư người đã chỉ ra con
đường đưa đến giác ngộ.Những sự biểu hiện này, mặc dù không quan
trọng và không cần thiết, song có giá trị của chúng trong việc
làm thỏa mãn những cảm xúc tôn giáo và nhu cầu của những ai hơi
kém về mặt tri thức và tinh thần, và hỗ trợ họ từng bước từng
bước thực hành theo con đường.
Những ai nghĩ rằng Phật giáo chỉ quan tâm về mặt ý tưởng cao
cả, tư tưởng triết lý và luân lý cao siêu, và cho rằng Phật giáo
làm ngơ trước những lợi ích về mặt kinh tế và xã hội của con
người, thì hoàn toàn sai lầm. Đức Phật rất quan tâm đối với mưu
cầu hạnh phúc an lạc của con người. Theo Ngài, hạnh phúc an lạc
không thể đạt được nếu như không sống một cuộc đời thanh tịnh
phạm hạnh dựa trên những nguyên tắc luân lý đạo đức và tâm linh.
Song Ngài biết rằng sống một cuộc đời như thế thì sẽ gặp khó
khăn, không gặp những thuận duyên về những điều kiện vật chất và
xã hội.
Đạo Phật không xem lợi ích vật chất như là một sự cứu cánh
giải thoát tự thân.Nhưng đó chỉ là một phương tiện đưa đến sự cứu
cánh giải thoát – một sự giải thoát cao hơn và thánh thiện hơn.
Nhưng đó là một phương tiện kiên quyết không thể thiếu được trong
sự thành đạt một mục tiêu cao hơn cho hạnh phúc của con người.
Vì vậy, Đạo Phật nhận diện nhu cầu của những điều kiện vật chất
tối thiểu nào đó tạo thuận duyên cho sự thành đạt về mặt tâm linh
– thậm chí những nhu cầu của một tu sĩ thực hành thiền định ở
một nơi xa xôi hẻo lánh nào đó.
Đức Phật không tách rời cuộc sống khỏi bối cảnh nền tảng xã
hội và kinh tế, Ngài xem xét nó như là một tổng thể, nhìn về tất
cả mọi mặt như xã hội, kinh tế và chính trị. Những lời dạy của
Ngài về những vấn đề đạo đức luân lý, tâm linh và triết học rất
là nổi tiếng. Nhưng con người thời đại, đặt biệt trong xã hội
phương Tây biết rất ít về giáo lý của Ngài về những vấn đề xã
hội, kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, có một số bài pháp đề cập
đế những vấn đề này rải rác khắp các bài kinh cổ xưa. Chúng ta
hãy lấy một vài thí dụ để minh chứng.
Kinh Cakkavattisihanada thuộc Trường Bộ Kinh (kinh số 26)
khẳng định rõ ràng nghèo khổ là nguyên do của hành động phi luân
lý đạo đức và các tội ác như : trộm cắp, lừa đảo, bạo lực, thù
oán, và tàn ác ... Các vị vua thuộc các triều đại xưa cũng như
chính phủ ngày nay cố gắng trừ diệt tội ác thông qua những hình
phạt. Kinh Kutadanta thuộc Trường Bộ Kinh, giải thích sự vô hiệu
đối với biện pháp như thế. Phương pháp này không bao giờ có thể
có hiệu quả được. Thay vì, Đức Phật đề nghị rằng, để diệt trừ tội
ác, điều kiện kinh tế đời sống của người dân phải được cải thiện
và nâng cao.Cung cấp các thứ hạt giống và phương tiện canh tác
cho nhà nông, cung cấp vốn cho những người kinh doanh đầu tư, trả
lương thích đáng cho người công nhân làm thuê. Do vậy khi mà dân
chúng được tạo ra cho những cơ hội để đạt được đủ lợi tức, thì
họ sẽ vừa lòng, sẽ không sợ hãi hay lo lắng và kết quả là xứ sở
được an bình, ra khỏi tội ác.
Do lý do này mà Đức Phật dạy cho giới cư sĩ tại gia
thấy được tầm quan trọng của việc cải thiện đời sống kinh tế của
họ. Tất nhiên điều đó không có nghĩa là Ngài tán thành việc tích
trữ của cải với tâm ham muốn và chấp thủ, trái lại với lời dạy cơ
bản của Ngài, Ngài cũng không tán thành mỗi một phương cách sống
của con người. Có một số nghề nghiệp như sản xuất và buôn bán vũ
khí giết người, điều đó Ngài lên án gắt gao và cho đó như là
một cách sống ác độcvà tội lỗi.
Một người đàn ông tên là Dighajánu một hôm viếng thăm Đức Phật
và nói : Bạch ngài, chúng con là những cư sĩ tại gia sống đời
thường vối vợ con. Mong Đức Thế Tôn có thể dạy cho chúng con một
số bài pháp khiến cho chúng con đạt được hạnh phúc, an lạc trong
kiếp này và hậu kiếp.
Đức Phật dạy anh ta rằng trên đời này có 4 điều đưa
đến hạnh phúc của con người . Một là : anh ta phải thiện xảo, kỹ
năng, hiệu quả, siêng năng và nổ lực trong bất cứ công việc gì
anh ta làm. Hai là : anh ta phải bảo vệ nguồn thu nhập đã kiếm
được một cách chính đáng, bằng mồ hôi nước mắt của mình (Aørakkha
– sampadhà) ( điều này có nghĩa là bảo vệ gìn giữ tài sản của
cải khỏi bị trộm cắp .v.v... Tất cả những ý tưởng này phải được
xem xét trong bối cảnh xã hội). Ba là : phải có những người bạn
tốt, trung thành, có học thức, có phạm hạnh phóng khoáng, độ
lượng và thông minh, những người sẽ giúp anh ta đi đúng chánh đạo tránh
xa các tội lỗi. Bốn là : phải chi tiêu một cách hợp lý tương ứng
với nguồn thu nhập của mình, không qúa nhiều mà cũng không quá ít
.v.v..., Không được tích trữ tài sản một cách hà tiện, cũng
không tiêu xài quá xá – nói cách khác phải sống theo phương tiện
của mình.
Sau đó Đức Phật thuyết giảng 4 đức hạnh đưa đến hạnh
phúc của một người sau khi chết : 1- Saddha : phải có niềm tin
vào những giá trị của Giới – Định – Tuệ ; 2 -Sila : tránh không
được hủy hoại và làm hại mạng sống; tránh trộâm cắp, chôm chỉa,
tránh hành tà dâm, nói dối và tránh rượu chè say sưa; 3 - Càga :
phải làm từ thiện, hành hạnh bố thí, độ lượng, không chấp thủ và
tham ái tài sản của mình; 4- pãnnà : phát triển trí tuệ – đưa đến
sự đoạn trừ hoàn toàn khổ đau, chứng đắc an lạc, Niết bàn.
Đôi khi Đức Phật thậm chí còn lý giải xa hơn, chi
tiết hơn về việc dành dụm tiền bạc và chi tiêu nó. Chẳng hạn khi
ngài dạy chàng thanh niên trẻ tuổi Thiện Sanh (Sigala) rằng anh
ta nên chi một phần tư nguồn thu nhập của anh ta cho việc chi
tiêu hằng ngày, đầu tư một nửa cho công việc làm ăn buôn bán và
để dành một phần tư cho những lúc cần thiết khẩn cấp.
Một hôm Đức Phật dạy trưởng giả Cấp cô độc
(Anàthapindika), một trong những vị đệ tử thuần thành nhất của
ngài, người đã cúng dường cho ngài một tịnh xá nổi tiếng tại Kỳ
đà lâm, tại Sàvathi, rằng một người cư sĩ sống tại gia, có 4 loại
hạnh phúc:
Hạnh phúc thứ nhất là sự hưởng thụ sự an ổn về kinh tế
hay đầy đủ tài sản có được bằng chánh mạng (atthi – sukha); hạnh
phúc thứ hai là sự chi tiêu tài sản đó một cách phóng khoáng
thoải mái, cho chính bản thân, gia đình họ hàng và bằng hữu và
chi tiêu vào việc làm phước bố thí (bhoga – sukha); hạnh phúc thứ
3 là không có nợ nần (anana – sukha); thứ 4 là sống một cuộc
sống chân chính, và phạm hạnh không phạm các điều xấu ác trong thân,
khẩu, và ý (anavajja – sukha).Ơû û đây chúng ta cần phải chú ý
rằng 3 trong 4 loại hạnh phúc này mang bản chất kinh tế, và rằng
Đức Phật cuối cùng nhắc nhở người chủ cho vay rằng hạnh phúc về
kinh tế và vật chất không xứng đáng một phần 16 của hạnh phúc
tinh thần phát sinh từ một cuộc sống phạm hạnh không tội lỗi.
Qua một vài trường hợp ví dụ được nêu trên chúng ta
có thể thấy rằng Đức Phật xem lợi ích kinh tế như là một điều
kiện cho sự hạnh phúc của con người, nhưng rằng ngài không thừa
nhận sự tiến bộ như là thực sự và chân xác. Nếu nó chỉ là vật
chất, trống rỗng những cơ sở về luân lý đạo đức và tâm linh.
Trong khi khuyến khích sự tiến bộ về mặt vật chất, Phật giáo luôn
luôn nhấn mạnh vào sự phát triển và tiến bộ về yếu tố luân lý
đạo đức và tâm linh nhằm thiết lập một xã hội an bình, hạnh phúc
và thỏa mãn.
Đức phật cũng rất thông hiểu về vấn đề chính trị, về
chiến tranh và hòa bình. Ơû đây rất rõ ràng được lập đi
lập lại rằng Phật giáo ủng hộ và nói về thái độ phi bạo lực và
hoà bình như là thông điệp toàn cầu của Phật giáo. Và hẳn nhiên
là Phật giáo không tán thành bất kỳ hình thức bạo lực hay sự hủy diệt
sự sống.
Theo quan điểm của Phật giáo, không có một cái gì mà có thể
được gọi là một cuộc chiến tranh hợp lý công bằng – đó chỉ là một
thuật ngữ sai lầm được đặt tên và đưa vào lưu hành nhằm làm thỏa
mãn và bào chữa sự thù địch, thô bạo, bạo lực và sự tàn sát giết
chóc. Ai là người có thẩm quyền quyết định những gì là công lý
và không công lý? Kẻ quyền thế mạnh hơn và kẻ chiến thắng là hợp
lý công bằng và kẻ yếu, phe đại bại là bất hợp lý và không công
bằng. Cuộc chiến tranh của chúng ta thì luôn luôn hợp lý và
chiến tranh của tha nhân thì luôn luôn phi lý. Đạo Phật không
chấp nhận quan điểm này.
Đức Phật không những dạy về bất bạo lực và hoà bình,
nhưng ngài thậm chí còn đích thân xông pha ra chiến trường và
đích thân ngăn chặn một cuộc chiến tranh, như trong trường hợp xung
đột và tranh cãi giữa hai bộ tộc Sakyas (thuộc dòng họ Thích Ca) và
Koliyas (dòng Câu Lợi) những người đang chuẩn bị tiến đánh nước
Bạt kỳ (Vajji). Và Thế Tôn cũng đã gián tiếp trả lời một số câu
hỏi mà sứ thần của vua A xà thế đặt ra để thăm dò ý kiến Thế Tôn
về việc có nên tiến quân đánh nước Bạt kỳ. Kết quả là lời dạy của
Thế Tôn đã ngăn chặn được cuộc chiến tranh ấy của vua A xà thế.
Vào thời Đức Phật, cũng như ngày nay có những vị cai
trị quốc gia của mình không hợp lý. Dân chúng bị áp bức và bị bóc
lột, hành hạ và bị ngược đãi, những khoảng thuế tăng quá đáng
được đặc ra và những hình phạt tàn bạo được gián cho . Đức Phật
rất là xúc động trước những cách đối xử vô nhân đạo ấy . Do vậy,
trong Dhammapadatthakathà có ghi rằng ngài đã chú ý đến việc cai
trị một quốc gia hợp lý . Quan điểm của ngài nên được đánh giá
trong bối cảnh xã hội, kinh tế chính trị thuộc thời của ngài .
Ngài chỉ ra cách mà toàn bộ đất nước có thể trở nên lạm pháp,
thoái hóa và bất hạnh khi mà những vị đứng đầu của một quốc gia,
chính phủ, là vua chúa, thủ tướng và nhân viên quản lý v.v... trở
nên lạm phát, và không công bằng . Để cho một quốc gia được an
lạc, hạnh phúc, điều này cần thiết là phải có một chính phủ hợp
lý công bằng . Cách để nhận diện ra một hình thức nhà nước công
bằng như thế được Đức Phật giải thích trong lời dạy của ngài về
“Mười bổn phận của một vị vua” , được trình bày trong Kinh Bổn
Sanh – Jàkata).
Tất nhiên từ vua (Ràja) trong các chế độ nhà nước xưa, ngày
nay nên được thay thế bằng từ “chính phủ”. Do đo,ù ”Mười trách
nhiệm của một vị vua” ngày nay được ứng dụng tất cả cho những ai
hình thành nên chính phủ như : Chủ tịch nước, các Thủ Tướng, Giới
chính khách, nhân viên lập pháp và quản lý … Mười điều mà nhà
vua và triều thần cần thực hiện để đem lại hạnh phúc cho nhân dân
:
1- Vua độ lượng, bác ái, bố thí, không khát ái, không
tham lam tiền của, tài sản, nhưng ngược lại nên phục vụ vì lợi
ích của nhân dân .
2- Giữ nước, không sát sanh, không bóc lột, không trộm
cắp, không tà dâm, không nói dối, không say sưa. Có nghĩa là vị
vua ấy phải giữ ít nhất ngũ giới của một người cư sĩ tại gia .
3- Hy sinh tất cả cho lợi ích của dân chúng . Vị vua ấy
sẵn sàng từ bỏ mọi tiện nghi cá nhân, danh tiếng và ngay cả vì
lợi ích nhân dân.
4- Thành thật và liêm khiết . Vị ấy phải tự do không sợ
hãi và ưu đãi khi thực hành những bổn phận của mình; phải thành
thật trong ý định và không được đánh lừa công chúng .
5- Nhã nhặn và hòa ái. Vị đó phải có tính khí vui vẻ chan hòa .
6 -Khắc khổ trong lối sống . Vị ấy phải sống một cuộc
sống giản đơn và không nên tham đắm một cuộc sống xa hoa phú quý .
Vị ấy phải tự chủ bản thân.
7 -Không được sân hận , không được tư thù . Vị ấy không được thù oán với bất cứ ai .
8 -Không bạo lực , nghĩa là không những không hại người
khác mà còn cố gắng đẩy mạnh sự hòa bình an lạc bằng cách tránh
né và ngăn chặn chiến tranh , và bất cứ điều gì liên quan đến bạo
lực và hủy hoại sự sống .
9- Nhẫn nhục, độ lượng khoan dung , hiểu biết. Vị ấy
phải có khả năng kham chịu mọi khó khăn, chỉ trích mà không để
mất bình tĩnh.
10 -Không chống đối , không trù dập,có nghĩa là vị ấy
không nên chống lại ý muốn của nhân dân , thuận theo ý dân ,
không được cản trở bằng các biện pháp mà có thể đưa đến phúc lợi
cho dân chúng . Nói cách khác vị ấy phải cai trị trong sự hài hòa
với dân chúng .
Nếu một quốc gia được cai trị bởi những con người có đầy
đủ những phẩm chất như thế , thì không cần phải nói nhiều rằng
quốc gia ấy được hạnh phúc biết bao. Thế nhưng đó không phải là
một điều không tưởng bởi vì có những vị vua trong quá khứ như
Asoka (A dục) của Aán Độ, người đã hình thành nên một vương quốc
căn cứ trên những ý tưởng này .
Thế giới ngày nay đang sống trong tình trạng luôn luôn
sợ hãi, nghi ngờ và căng thẳng . Khoa học đã sản xuất ra các loại
vũ khí có khả năng hủy diệt không thể tưởng tượng được . Bày ra
những công cụ mới của sự chết chóc, đầy khả năng và sức mạnh đe
dọa và thử thách lẫn nhau, khoe khoang một cách kiêu hãnh rằng
ngươiø ta có thể khiến cho sự hủy hoại và khổ nhiều hơn cho nhân
loại trên thế gian này so với những kẻ khác .
Họ đã đi suốt con đường của sự điên rồ để đạt đến một điểm
,mục tiêu như thế mà ngày nay , nếu họ tiến tới thêm một bước nữa
theo khuynh huớng đó thì kết quả sẽ là không điều gì hơn chỉ là
sự hủy diệt lẫn nhau cộng với sự hủy diệt hoàn toàn nhân loại .
Nhân loại trong tình trạng sợ sệt những gì chính bản thân họ đã
tạo ra , muốn tìm một lối thoát , và tìm kiếm một vài giải pháp
cho vấn đề . Nhưng không có một giải pháp nào ngoại trừ những lời
dạy của Đức Phật , thông điệp của ngài về từ bi và tình thương ,
bất bạo lực và hòa bình , khoan dung và thông cảm, chân lý và
trí tuệ , kính trọng sự sống giải thoát khỏi tính ích kỷ , thù
địch và bạo lực .
Đức Phật dạy :”Ơû thế gian này chẳn phải hận thù
trừ được hận thù , nhưng hận thù được trừ diệt bởi nhân từ . Đó
là định luật của ngàn thu.”
(PC-5)
- “Lấy không giận thắng giận,
- Lấy lành thắng lành ,
- Lấy bố thí thắng xan tham
- Lấy chơn thắng hư ngụy.”
( PC-223)
Sẽ không thể có hạnh phúc và hòa bình cho con người khi nào
anh ta còn ao ước và khát ái sau khi chinh phục và qui phục láng
giềng của anh ta . Như Đức Phật dạy :
- “Thắng lợi bị thù oán ,
- Thất bại bị đau khổ ;
- Chẳng màn đến thắng bại ,
- Sẽ sống hòa hiếu an vui .”
( PC-201)
Sự chiến thắng duy nhất mà có thể mang lại an lạc và hạnh phúc là sự tự thắng mình .
- “Thắng ngàn quân giặc ơ ûchiến trường ,
- Chẳng bằng người tự thắng .
- Người tự thắng là chiến sĩ oanh liệt nhất”.
(PC- 103)
Các vị có thể nói điều này thì rất là hoa mỹ , cao thượng và
vi diệu , nhưng phi thực tế . Liệu có thực tế để căm thù lẫn nhau
?Chém giết lẫn nhau ?Để sống trong một sự sợ hãi thiên thu và sự
hồ nghi giống như những động vật hoang dã trong rừng ?Liệu điều
này có thiết thực hơn và thoải mái hơn chăng ?Liệu tội ác được
chiến thắng bởi tội ác chăng ?Song có một vài trường hợp , tối
thiểu là những trường hợp cá nhân , ở đó hận thù có thể được trừ
diệt bởi tình thương và lòng từ bi và tội ác được chiến thắng bởi
cái thiện . Người ta cũng thể nói rằng điều này có thể đúng , có
thể thực hành đối với trường hợp của cá nhân , nhưng rằng nó
không bao giờ áp dụng có hiệu quả đối với lợi ích của quốc gia và
thế giới . Nhân dân bị làm mê mẫn , bị lúng túng và bối rối về
mặt tâm lý , mù quáng và bị lừa dối bởi thể chế chính trị và sự
tuyên truyền việc sử dụng một thuật ngữ như “tính quốc gia”
”quốc tế”hoặc là “tính dân tộc”. Như thế nào là một quốc gia có
đại đa số khối kết lại của những cá nhân ?Một quốc gia hay một
đất nước không có hành động , mà đó chỉ là cá nhân hành động .
Những gì cá nhân đó suy nghĩ và hành động thì đó là những gì quốc
gia và đất nước suy nghĩ và hành động . Những gì có thể ứng dụng
cho cá nhân thì có thể ứng dụng cho quốc gia , đất nước . Nếu
hận thù có thể tiêu diệt bởi tình thương và từ bi đối với phạm vi
cá nhân , thì chắc chắn nó có thể được ứng dụng trong phạm vi
quốc gia và quốc tế . Thậm chí trong trường hợp một cá nhân đơn
lẻ , để đáp ứng tình thương nhằm tiêu diệt hận thù , anh ta phải
có nhiều can đảm , tự tin và gan dạ , niềm tin tự chủ tự tín ở
sức mạnh của luân lý đạo đức .
Hiện nay, thật là một sự an ủi và một nguồn cảm hứng để nghĩ
rằng tối thiểu phải có những bật cai trị vĩ đại , nổi tiếng trong
lịch sử , người đã từng can đảm , dũng cảm , tự tin và ứng dụng
rộng rãi những lời dạy về phi bạo lực , hòa bình , và tình thương
ấy vào việc quản lý , cai trị một đế chế rộng lớn , cả về mặt
đối nội cũng như đối ngoại . Đó là vị vua Phật tử vĩ đại của Aán
Độ vào thế kỷ thứ 3 BC “người được các vị thần thương yêu” như
người ta đã gọi ngài . Thoạt đầu, vua noi theo gương của cha
(Bindusàra) và ông (Chandragupta) , và ước ao muốn hoàn tất sự
chinh phục bán đảo Aán Độ . Ngài xâm lăng và chinh phục bộ tộc
Kalinga, và thôn tính nó . Hàng trăm nghìn người bị giết và bị thương
,bị hành xác và bị bỏ tù trong cuộc chiến tranh này . Nhưng
sau này , khi vua trở thành một Phật tử , ngài được thay đổi và
chuyển hóa hoàn toàn bởi những lời dạy của Đức Phật . Trong một
trong những sắc lệnh nổi tiếng của ngài được khắc trên trụ đá
(sắc chỉ 13 trên đá , như hiện nay được gọi ), bản gốc của nó có
thể đọc được thậm chí cho đến ngày nay , đề cập đến sự chinh phục
bộ tộc Kalinga . Đại đế đã bày tỏ một cách rộng rãi công khai về
sự “hối hận” của mình và ày tỏ nỗi đau đớn vô cùng khi nghĩ đến
cảnh tàn sát ấy . Ngài tuyên bố một cách công khai rằng ngài sẽ
không bao giờ rút gươm ra để tiếp tục những cuộc chinh phục khác , mà
chỉ cầu mong tất cả nhân loại, cho thái độ phi bạo lực, được sống
tự chủ và thực hành sự yên bình và hòa nhã” . Tất nhiên điều này
được xem như là sự chinh phục chính yếu nhất bởi một con người
được thần thánh thương yêu như A dục, đó chính là sự
chinh phục bằng lòng kính ngưỡng giáo pháp . Không chỉ chính bản
thân ngài tuyên bố chấm dứt chiến tranh , mà ngài còn bày tỏ sự
mong muốn rằng “Các vị Thái tử của tôi và thế hệ kế tiếp sẽ
không nghĩ tới một cuộc chinh phục mới không xứng đáng để thành
công … hãy để cho chúng nghĩ về một cuộc chiến tranh mà cuộc
chinh phục đó chỉ bằng sự kính nguỡng giáo pháp . Chính điều đó
là có lợi cho thế giới này và thế giới mai sau .”
Trong toàn bộ lịch sử của nhân loại , đây chỉ là một trường
hợp điển hình của một sự nguời chinh phục chiến thắng , đạt tới
đỉnh cao của quyền lực , vẫn còn đủ sức mạnh để tiếp tục những
cuộc chinh phục những lãnh thổ khác , song đã từ giã chiến tranh
và bạo lực đểå quay về với tình thương , hòa bình và phi bạo lực .
Đây chính là một bài học cho thế giơiù ngày nay . Nguời cai
trị của một đế chế rộng lớn công khai từ bỏ chiến tranh và bạo
lực và thừa nhận thông điệp của hòa bình và phi bạo lực . Không
có một bằng chứng lịch sử nào cho thấy rằng bất kì vị vua láng
giềng nào lợi dụng tấm lòng mến mộ Phật pháp của vua A dục
(Asoka) để tấn công ngài bằng quân sự , vũ khí , hoặc rằng không
có bất cứ cuộc nổi dậy hay cuộc phản loạn nào trong suốt thời kì
ngài cai trị . Ngược lại, có sự hòa bình ngự trị khắp nơi , và
thậm chí những quốc gia bên ngoài sự cai trị của ngài dường như
vui lòng chấp nhận sự lãnh đạo hòa nhã của ngài .
Nói về sự duy trì nền hòa bình thông qua sự cân bằng của quyền
lực , hoặc là thông qua sự đe dọa của sự răng đe bằng vũ khí hạt
nhân là một thái độ ngu xuẩn .Sức mạnh của vũ khí hạt nhân chỉ
vó thể sản sinh ra sự sợ hãi chứù không phải hòa bình. Không thể
có một sự hòa bình thực sự và mãi mãi thông qua sự sợ hãi . Thông
qua sợ hãi chỉ có thể phát sinh hận thù , căm phẫn, và hiếu
chiến bị đè nén chỉ trong khoảng một thời gian nào đó mà có thể
sẵn sàng trổi dậy và có thể trở thành bạo lực bất kỳ lúc nào .
Hòa bình chân thật chỉ có thể xuất hiện trong một môi trường của
tình thương , mối quan hệ thân thiện giữa nguời với nguời , thoát
khỏi sự sợ hãi , hồ nghi và hiểm nguy .
Phật giáo hướng đến việc tạo ra một xã hội mà ở đó cuộc tranh
đấu hủy diệt vì quyền lực không còn hiện hữu , và nơi mà an tịnh
và hòa bình lan tỏa khắp, và chiến thắng sự chinh phục và thất
bại ; một xã hội mà sự hành hạ những người vô tội bị tố cáo , lên
án quyết liệt ; nơi mà chính người bị chinh phục bản thân mình
được tôn trọng hơn những ai chinh phục hàng triệu quân trên chiến
trường quân sự và kinh tế ; một xã hội mà hận thù được chinh
phục bởi tình thương , và ác bị đánh bại bởi thiện ; một xã hội
mà hiềm khích , thù địch , và tham lam không còn làm cho tâm con
người bị nhiễm ô ; một xã hội mà từ bi là động lực thúc đẩy hành
động ; tất cả sanh linh bao gồm những côn trùng nhỏ nhít được
đối xử côâng bằng , tôn trọng và thương yêu ; một xã hội mà cuộc
sống trong hòa bình , hài hòa , trong một thế giới bằng lòng về
mặt vật chất , được hướng đến một mục tiêu cao nhất và thánh
thiện nhất , sự hướng đến chân lý tối hậu an lạc , hạnh phúc và
Niết bàn (Nirvana).