- Theo
dòng chảy triết họ Đông – Tây: thời tiền Socrate, con người bị lãng
quên, triết học đi tìm bản thể vũ trụ mang tính thiên nhiên hơn, đến
khi Socrate đặt phạm trù cái đẹp thì ông lại nhầm với cái lợi. Quả
thật, nếu gặp phải Dương Chu, há ông đã được một cái Đẹp vô cùng lớn –
cả thiên hạ; nhưng Dương Chu đã khẳn khái từ chối: "bạt nhất mao dĩ lợi
thiên hạ, ngã bất vi." Dẫu sao môn đệ nổi tiếng của ông là Platon, cũng
đã phủ định ông từ thuở ấy, với câu hỏi hóc búa: "Thưa Thầy! Cái sọt
phân cũng là cái đẹp." Socrate đành ngẩn ngơ. Nhưng cái sọt phân cũng
Đẹp đấy! Nếu ông ta không nhìn bằng hữu ngã lưỡng biên mà thấy "bản lai
thường tự tịch diệt tướng" và " thị pháp trú pháp vị" thì chắc chắn ông
không ngẩn ngơ như thế. Đến Platon, triết học rẽ sang một hướng khác,
Platon bất lực trước "dịch biến" của Héraclite và hiểu nhầm "hữu thể"
của Parmenide thì thế giới lý niệm của Platon xuất hiện. Bây giờ mọi
hiện hữu dưới mắt Platon chỉ là một ảo ảnh của thế giới lý niệm ấy. Một
Thượng đế hiện hữu trong triết học. Cả trường kỳ nhà thờ trung cổ, Chúa
nắm quyền kiểm soát con người. Ngay cả Aristote, Descarte, Kant, Hegel
thì cũng là một thứ triết học bị phóng thể: thay vì họ giúp con người
suy nghĩ chính mình thì lại khuyến khích quên mình mà lại đi tìm lẽ
huyền vi của tạo hóa. Phải đến Marx, con người mới có chỗ đứng, rất
tiếc là chỉ đứng cho xã hội mà quên chỗ đứng chính mình. Và, nếu xã hội
cọng sản xuất hiện thì là bước đường cùng của nhân loại khi luật hủy
thể của ông được áp dụng một cách triệt để. Sau khi Kiekegaard cảnh
tỉnh cái thôi làm người của triết thuyết, tôn giáo; cũng như Nietzsche
giết chết Thượng đế để kéo con người xuống lại trần gian; và tiếp nối
trường phái Hiện sinh xuất hiện thì con người mới có chỗ đứng cho chính
mình. Rất tiếc họ đặt con người đứng trong chán chường với kẻ lạ mặt
trong thế giới buồn nôn của cõi người ta . để rồi khi giao cho họ tự
quyết định thân phận của mình, thì con người lại tìm phương thức tự tử
hơn là tìm lại chính mình, chủ nghĩa cá nhân độc đoán ra đời. Ở phương
Đông, nền triết học được xem là hướng nội, nhưng Bà-la-môn giáo đưa con
người vào cơn ngủ say và triệt tiêu ý thức-ý thức cái để làm người lại
bị chối bỏ; làm sao còn là người! Và đạo Lão thì mơ màng cùng hồ điệp
trong lẽ sống tự nhiên. Thế nhưng:
"Lưu thủy há sơn vô hữu ý
Bạch vân xuất tụ bổn vô tâm."
(Trần thái Tông)
Con người không thể vô tâm theo kiểu mây nước. Cuối cùng đạo Lão đành
lánh đời để tìm cuộc sống bất tử trong chốn bồng lai tiên cảnh. Tất cả
đều bất thành.
Khi chưa có cái nhìn đúng về con người
trên cơ sở Người thì không thể kiến tạo một cuộc sống Đẹp mang tính
Người.
Trở lại Phật giáo, đạo Phật xây dựng một cuộc
sống đẹp ngay trong chính con người và trên cõi đời này. Con người là
đối tượng trung tâm của hệ thống giáo lý này. Đức Phật đã khuyến khích
chúng ta "Hãy tự mình thắp đuốc mà đi, hãy nương tựa vào chính mình, vì
Như lai chỉ là người dẫn đường." (kinh Niết-bàn). Đức Phật cũng dạy rất
rõ là không thể tìm cảnh giới Niết-bàn (cuộc sống đẹp) bên ngoài con
người và cõi người.
"Này hiền giả, ta tuyên bố rằng
tại chỗ nào không bị sanh, không bị già, không bị chết, không có từ bỏ
đời này, không khởi lên đời khác thời không thể đi đến để thấy, để
biết, để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới. Nhưng này hiền giả, trong
cái thân dài mấy tấc này, với những tưởng, những tư duy của nó, ta
tuyên bố về thế giới, tập khởi của thế giới, thế giới đoạn diệt và con
đường đưa đến thế giới đoạn diệt." (Thích Minh Châu dịch, Tăng chi I)
Thế giới đoạn diệt ở đây, hiểu như là sự đoạn tận toàn bộ khổ đau;
Niết-bàn. Như vậy, Niết-bàn không ở đâu xa mà ngay trong con người và
thế giới người. Câu chuyện con chồn hoang trong công án của ngài bách
Trượng là một cảnh tỉnh cho ai tìm Niết-bàn bên ngoài cuộc đời này.
Đồng thời giáo lý duyên khởi cho ta cái nhìn đúng về con người và xã
hội của nó. Tất cả quan hệ trong mối tương quan duyên khởi, không đẳng
lập và cũng không đồng nhất mà là biện chứng trong thống nhất. Với
nguyên lý:
-
"Cái này có, cái kia có
cái này không, cái kia không
cái này sanh, cái kia sanh
cái này diệt, cái kia diệt."
(Thích Minh Châu dịch, Trung bộ I)
Đó là cái nhìn về con người. Và khi hệ thống này cho ta hiểu chữ
Buddha: Giác với ba nghĩa: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, thì
con người càng tăng thêm giá trị của mình. Tinh yếu của Phật giáo ở
trong chữ Giác này.
Giáo lý duyên khởi được trình bày
không nhằm lý giải vũ trụ quan cũng như nhận thức luận, mà nó cung cấp
một cái nhìn vô ngã – không tự tánh – không tánh trong mọi hiện hữu,
mọi hiện tượng giới. Từ đây kiến tạo con đường giải thoát, an lạc – xây
dựng cuộc sống Đẹp, Niết-bàn. Niết-bàn là cứu cánh tối hậu của thế giới
quan Phật giáo. Đó là cái Đẹp nhìn từ góc độ thẩm mỹ. Nhưng phải khẳng
định từ đầu Niết-bàn không phải là nơi chốn, do vậy, những từ nhập
Niết-bàn hay cõi Niết-bàn nếu không hiểu thì dễ gây ngộ nhận. Vì
Niết-bàn chẳng từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu (vô sở tùng lai diệc vô
sở khứ – kinh Kim Cang).
Cái Đẹp thể hiện trong tư
tưởng Phật học như thế nào? Chúng ta thử tìm hiểu hai phạm trù: Diệt đế
và Đạo đế.
DIỆT ĐẾ: CÁI ĐẸP
Diệt đế: dịch nghĩa từ nguyên chữ: Nirbbana; dịch âm: Niết-bàn. Vậy
Niết-bàn là gì? Hay hỏi cách khác Đẹp theo Phật học là gì? Một câu hỏi
ra vẻ đơn giản và khá tự nhiên, nhưng càng trả lời nhiều thì càng nhiều
rắc rối. Vì rằng, Niết-bàn đơn giản, chúng ta chưa có kinh nghiệm này.
Câu chuyện ngụ ngôn Rùa và Cá vẫn là một minh họa sống động cho kết
luận này. Làm sao cá hiểu nổi khái niệm đất liền là gì! Dù rùa có dùng
hữu ngôn hay vô ngôn thì cá cũng đành chịu thôi! Chúng ta, cũng vậy,
không thể nào hiểu Niết-bàn là gì khi chưa thật chứng Niết-bàn. Ngôn
ngữ không phải bất lực trong diễn đạt mà do chúng ta chưa có kinh
nghiệm Niết-bàn, thì dù diễn đạt bằng phương tiện nào cũng chỉ là một
ảo giác về nó. Câu chuyện Rùa và Cá cốt để cảnh tỉnh cho những ai đi
tìm chân lý trên bình diện ngôn ngữ chứ không nói đến cái bất lực trong
cung cách diễn đạt của ngôn từ – tác dụng của ngôn từ là diễn đạt. Đó
là cái dụng chứ không phải bản thể, cái thể của ngôn ngữ cũng thường tự
tịch diệt tướng; thường vắng lặng.
Trên đại thể, nếu
không muốn nói "Pháp nhĩ như thị" thì chúng ta vẫn có quyền giả lập
Niết-bàn trên bình diện ngôn ngữ qua tương quan với khổ. Như vậy
Niết-bàn là sự chấm dứt khổ; điều này quá rõ ràng trong các kinh. Nói
theo Mỹ học là sự giải phóng triệt để cái bi. Niềm vui của sự chấm dứt
khổ này mà kinh điển đã không ngớt thốt lên rằng: đó là hạnh phúc tối
thượng và rằng bước đi hướng về mục đích ấy điều có niềm vui không bao
giờ giảm:
"Vui thay, chúng ta sống
Không bệnh, giữa ốm đau
Giữa những người bệnh hoạn
Ta sống không ốm đau."
(Thích Minh Châu dịch, kinh Pháp Cú, câu 198}
Cái Đẹp theo Mỹ học được xác lập trên cơ chế thăng bằng nội tại, hài
hòa, một thể thống nhất giữa hình thức với nội dung thì Niết-bàn là sự
thể hiện hài hòa giữa nhận thức của chúng ta với quy luật, giữa hành vi
sống với nguyên tắc sống, giữa cảm thọ với những đối tượng cảm thọ. Nếu
cái bi theo Phật học là sự tha hóa bởi tham dục, vô minh thì cái Đẹp là
sự đổ vỡ toàn bộ thiết kiến của vô minh và tham dục. Như thế, Đẹp trong
Phật học là sự giải thoát mọi ràng buộc, chấp thủ về ngã và ngã sở:
"Không sở hữu, chấp trước
Ta nói người, Niết-bàn."
(kinh Lăng Già. Trích Phật học khái luận T.C.T.)
Không còn tham dục khát ái:
"Do đoạn tận khát ái
Được gọi là Niết-bàn."
(sđd)
Là sự giác ngộ, thấy như thật, sự đổ vỡ của vô minh:
"Này Mahamati, Niết-bàn là thấy như thật."
(sđd)
Nói tóm lại Đẹp là sự vắng mặt của tham, sân, si, sự đổ vỡ của thế giới
hữu ngã. Tất cả những gì gây nên đau khổ, khi chúng bị đoạn trừ là
Niết-bàn, là Đẹp. Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều
chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu
ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến theo lộ trình ấy cho đến lúc
viên mãn. Niết-bàn, như vậy là giác ngộ, giải thoát khỏi những cùm xích
của ngã và ngã sở. Đó là cái Đẹp. Một cái Đẹp như vậy thường được tán
thán với những ngôn từ diễm lệ:
"Một hoa sen bừng nở
trong biển trí, không chút bợn phiền não, như vầng nhật nguyệt đánh bạt
hết bóng vọng tưởng, như vầng trăng dập tắc lửa tội lỗi nung đốt người
đời."
(Mã Minh, Phật sở hành tán, trích Thiền luận I, Trúc Thiên dịch)
Như thế cái Đẹp rực sáng trong nhân cách, trong nhận thức bằng sự phủ
định tất cả những gì gây nên khổ đau. Tuy nhiên, những nghĩa trên về
cái Đẹp chỉ cho ta khái niệm cái Đẹp trong tư cách tiêu cực. Chúng ta
sẽ tìm hiểu thêm giá trị tích cực của nó được thể hiện trong tư tưởng
Đại Thừa.
Vô minh là nguồn khổ. Chính vô minh tạo nên
ảo giác về ngã rồi chấp thủ vào nó; dù chấp thủ vào Niết-bàn, Phật, thì
vẫn là chấp thủ. Còn ý niệm trước tướng vào một cái gì thì vẫn bị trói
buộc bởi ý niệm đó; còn bị vô minh chi phối. Do vậy, Niết-bàn ở đây
được thể hiện trong tinh thần vô đắc, vô sở đắc.
"Vô hữu Niết-bàn Phật
vô hữu Phật Niết-bàn
Viễn ly giác sở giác
Thị nhị tất câu ly."
(kinh Lăng Già)
Bỏ cho đến không có cái để bỏ, để đạt đến cái giữ tất cả mà không giữ
một cái gì. Do đó trú ở tất cả mọi chốn mà không trú ở chỗ nào là
Niết-bàn (Vô trú xứ Niết-bàn). Với vô chấp, vô trú, vô trước tướng thì
ở đâu cũng an nhiên tự tại, ở đâu cũng là đạo tràng thanh tịnh; cao lâu
tửu điếm giai vi thanh tịnh đạo tràng. Từ đó cho thấy một tư tưởng vô
cùng siêu phóng của Phật giáo. Đó là: sanh tử tức Niết-bàn, phiền não
tức Bồ-đề. Niết-bàn như thế là sự siêu việt lên mọi vọng tưởng lưỡng
biên để thành tựu tuệ giác Bát nhã. Bằng cái nhìn này thì thấy mọi hiện
hữu đúng như nó đang là; chư pháp thật tướng. Bây giờ tất cả mọi hiện
tượng đúng nguyên hình của nó. Nó như thế; như thị:
"Như thị tánh, như thị tướng, như thị thể, như thị lực, như thị tác,
như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị đẳng mạt
cứu cánh." (kinh Pháp Hoa)
Đẹp; Niết-bàn được định
nghĩa qua sự vắng mặt những khái niệm: ly dục, ly tham, vô trước tướng,
vô chấp ... như trên không có nghĩa là trạng thái hư vô của những người
chủ trương hư vô chủ nghĩa. Nhưng, nếu những gì do vọng tưởng, tham dục
tạo nên sự trói buộc trong đau khổ thì vắng mặt chúng là thoát khỏi sự
trói buộc bức xúc và sự quấy nhiễu của nó. Nói cách khác là tham-sân-si
không còn là đối tượng; "ba đào vô nộ tái không châu." (Nguyễn Công
Trứ). Để đạt đến trình độ này, rõ ràng phải có một bản lĩnh tự nội vững
chãi. Bản lĩnh ấy là một quá trình tự vượt thắng, một kỳ công của chiến
tích loại trừ khổ đau; cái bi. Đây là cuộc chiến đấu không để lại dấu
vết thành-bại, được-mất; chiến thắng chính bản thân mình. Một cuộc
chiến đấu gay go gấp vạn lần ngoài bãi chiến trường. Lẽ thường chúng ta
dễ dung túng mình, dễ tha hóa mình hơn là vượt thắng chính mình. Do
vậy, tự chiến thắng mình là một chiến công được ca ngợi, được xứng tụng:
"Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch
Tự thắng mình, tốt hơn
Thật chiến thắng tối thượng."
(Thích Minh Châu dịch, Pháp cú kinh, câu 103)
Nếu mỗi người trong chúng ta biết tự chiến thắng mình thì xã hội sẽ trở
nên hạnh phúc. Chiến thắng mình là chiến thắng của vô ngã. Chiến thắng
kẻ khác là chiến thắng của hữu ngã. Chiến thắng của vô ngã sẽ đem lại
sự tự tại, giải thoát, an lạc. Thực tại này thường được thể hiện qua
các từ ngữ chân thường; là siêu việt khái niệm thường và vô thường,
chân lạc; là siêu việt cả khổ lẫn vui, chân ngã; là siêu việt cả ngã
lẫn vô ngã, chân tịnh; là siêu việt cả nhiễm lẫn tịnh và nó còn mang
nhiều tên gọi khác nhau tùy theo phương diện hoạt động: Boddhi: Giác;
chỉ vào sự xả trừ vô minh, Niết-bàn; chỉ cho sự vắng bặt những nhiễu
động của phiền não, tịch tịnh; chỉ cho sự đoạn trừ tham dục, không;
nghiêng về phần nhận thức hơn và trong nghĩa khác là con đường giải
thoát.
Con đường giải thoát là con đường đi đến
Niết-bàn. Nói theo Mỹ học là con đường đi đến cái Đẹp. Dây là phạm trù
thứ tư trong Tứ Thánh Đế.
ĐẠO ĐẾ: CON ĐƯỜNG THỂ HIỆN CÁI ĐẸP
Đạo là con đường thể hiện, là cách thể hiện. Cần phải xác lập rằng: là
cách chứ không phải nhân trong khái niệm nhân quả. Do vậy, Đạo đế không
phải là nhân để có quả Diệt đế. Ở tầng nghĩa thứ nhất Đạo là phương
thức chuyển hóa, chuyển hóa từ khổ đau đến an lạc; chuyển hóa từ cái Bi
sang cái Đẹp. Và tầng cao hơn, là lối sống như vậy không thể nào khác
được. Sống đúng như thế là Đẹp, là giải thoát, là Niết-bàn. Trong nghĩa
này khái niệm nhân quả trở nên lạc lõng và vô ngã không phải là
Niết-bàn mà là con đường thi thiết. Vẫn biết rằng không vô ngã thì
không thể có Niết-bàn và đã niết-bàn thì vô ngã. Thuật ngữ Đạo, chúng
ta thường nghe tám vạn bốn ngàn pháp môn, là con số biểu trưng cho
những ngõ đường bị diệt căn cơ của từng đối tượng trên lộ trình
Niết-bàn. Tất cả những thi thiết cho sự giải phóng khổ đau, cho cái bi
nội tại. Tuy ngõ đường có đa thù nhưng đều lập cứ trên vô ngã. Bước đầu
giải phóng ngã bằng tuệ quán vô thường. Nhìn mọi hiện hữu bềnh bồng
trên sinh-diệt, có-không, thay đổi từng giay phút:
"Hãy nhìn như bọt nước
Hãy nhìn như cảnh huyễn
Quán nhìn đời như vậy
Thần chết không bắt gặp."
(Thích Minh Châu, Pháp cú kinh 170)
Hay như ngài Vạn Hạnh thiền sư đã "Thị đệ tử" bằng thi kệ:
-
"Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô."
Với cái nhìn như vậy đưa chúng ta vào nhận thức sâu lắng hơn; rõ ràng
hơn về hiện hữu: Tuệ quán vô ngã:
- "Tất cả pháp vô ngã
Với tuệ quán như vậy
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh."
(Thich Minh Châu, kinh pháp cú 279) -
- Bằng
tuệ quán vô ngã, nhìn thấy thực tại rỗng tếch trong dòng hiện hữu và
biết rằng những mộng ảo của vinh hoa phú quý chỉ là vô nghĩa trước ngày
mai. Do vậy, ý niệm ngã và ngã sở không còn chân đứng thì chấp thủ cái
ta và cái của ta cũng không còn:
- Hoàn toàn với danh sắc
Không chấp ta, của ta
Không chấp không sầu não
Thật xứng danh Tỉ kheo."
(sđd)
- Và sự đoạn trừ khát ái, tham dục là con đường đưa đến an lạc:
-
Ai sống trong đời này
Ái dục được đoạn trừ
Sầu não khỏi người ấy
Như giọt nước lá sen."
(sđd)
Như giọt nước lá sen, một hiện hữu rực sáng bỡi sự trơn tuột tất cả
những vọng tưởng điên đảo, dục vọng si mê. Những con đường Đạo nhắm mục
đích đánh đổi si mê lầm lạc, tham dục vô lý ấy được gói trọn trong
Giới-Định-Tuệ. Đó là thế chân vạc; tương tác biện chứng trên lộ trình
ấy. Giới là nguyên tắc sống. Định là sự kiểm soát cảm thọ. Tuệ là cái
nhìn đúng như thật vào thực tại đang là: vô thường; vô ngã.
Giới-Định-Tuệ như thế là sự hòa điệu; hòa điệu giữa nhận thức chủ quan
với thế giới khách quan (tuệ); giữa hành vi với cuộc sống (giới); giữa
nhận thức với cảm thọ và cả ý chí (định). Con đường Giới-Định-Tuệ là
con đường Trung đạo, vượt lên trên mọi khái niệm bằng phủ định Nhất
thiết pháp không; vô ngã, thiết kiến trên giả danh thành tựu ở Không
tánh và phê bình Không tánh là hủy diệt bằng vô tự tánh xây dựng trên
giả danh thành tựu ở Trung đạo đệ nhất nghĩa. Trung đạo là vận hành
trên cơ chế thăng bằng, không thiên lệch. Thiên lệch là rơi vào biên
kiến, bên này là thường, bên kia là đoạn. Còn thường đoạn là còn hạn
hữu trong sanh tử, có không. Nói theo Mỹ học là còn bị tha hóa. Con
đường Trung đạo là con đường hủy diệt biên kiến đó; nó hủy luôn cả khái
niệm Trung đạo:
"Đại Thánh thuyết không pháp
Dĩ ly chư kiến cố
Nhược phục kiến hữu không
Chư Phật bất năng hóa."
(Trung quán luận, Long Thọ)
Giá trị của chữ Không này nó như ngọn lửa hủy diệt tất cả những gì trên
đường đi của nó; và khi không còn gì để hủy diệt thì nó cũng không còn
cơ sở để tồn tại. Trở về bản thể uyên nguyên của nó. Nó là gì? Nói như
ngài Đức Sơn thì trả lời sai bị ba mươi hèo, mà đúng cũng bị ba chục
hèo. Ai đủ sức lấy được cây gậy trong tay của ngài Đức Sơn thì hãy trả
lời; nhưng lấy được cũng bị ba chục hèo, mà lấy không được cũng bị ba
chục hèo. Làm sao đây? Còn nói như Lăng Già kinh thì:
Tri nhân pháp vô ngã
Phiền não cập dĩ diệm
Thường thanh tịnh vô tướng
Nhi hưng đại bi tâm."
Trúc Thiên dịch:
"Khi quán tưởng pháp thân bằng trí và bi, người ta sẽ thấy tất cả bản
lai thanh tịnh, vô nhiễm (vô tướng); không tự tánh (vô ngã); trong
không có thế giới chủ quan (nhân) gây phiền não chướng, ngoài không có
thế giới khách quan (pháp) gây sở tri chướng (nhĩ diệm)" (Thiền luận I)
Như vậy, thiết kiến vô thường, vô ngã là thiết kiến nhằm trả lại đúng
vị trí cho con người, đưa con người vượt qua đau khổ để hưởng hạnh phúc
tối thượng - Niết-bàn. Nói theo Mỹ học là giải phóng triệt để cái bi để
trở về cái Đẹp. Một điều chúng ta cần lưu ý trong hệ thống này đòi ý
thức tự nguyện, tự giác cao độ từ ngay bước khởi đầu. Ý nghĩa cứu độ
trong Phật giáo chỉ có giá trị như là bản thiết kế của thầy mà học trò
phải tự mình thi thiết.
Con đường vô ngã là con đường
hủy diệt cái bi để kiến tạo cái Đẹp. Thế nhưng đã lắm người cả Đông lẫn
Tây, Cổ cũng như Kim khi gặp phải giáo lý vô ngã này; và nhất là khi nó
từ chối trả lời những câu hỏi mang tính siêu hình: hữu, vô, phi hữu phi
vô, diệc hữu diệc vô; cũng như những lời dạy về khổ và con đường thoát
khổ thì lâm vào ngộ nhận; cho rằng Phật giáo bi quan yếm thế, hư vô chủ
nghĩa. Đặc biệt những ai tìm chân lý trên ngôn từ thì họ gặp phải những
tuyên bố sấm sét làm nổ tung toàn bộ kiến thiết của ngôn từ: "từ lúc
thành đạo đến nay ta chưa từng nói một lời." (kinh Niết-bàn) hay "bất
lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền."; "dĩ tâm truyền tâm." ... thì ngộ
nhận càng lún sâu vào vùng chỉ trích. Quả thật, những ai tư duy bằng
hữu ngã, duy lý tìm một định nghĩa trên hệ thống này đều bất lực, bất
thành. Vì rằng " tôn giáo khước từ mọi định nghĩa, vì định nghĩa là đặt
hạn giới cho sự thăng hoa nguồn sống đạo." (Tuệ Sỹ dịch-Thiền luận II).
Cho đến những câu hỏi đặt trọng tâm vào cốt tủy của hệ thống này thì
được đón nhận với thái độ im lặng. Dù có hỏi thế nào là vô ngã. Sau này
chư Tổ sư có trả lời nhưng các ngài trả lời một cách phi lý chẳng ăn
nhằm vào đâu; nhưng có điều, cách trả lời ấy lại là một hấp lực tuyệt
vời cho những ai thiết tha làm Người. Nếu hỏi thế nào là Phật, câu trả
lời là:
"Búp măng trên đá cao ba trượng
Cái chuổi lông rùa nặng mấy cân."
Hay một vị Tổ Việt Nam, ngài Tử Dung trả lời:
"lung linh nước chảy qua đèo
Ngựa đua dưới nước thuyền chèo trên non."
Khi ngài Liễu Quán hỏi:
"Xưa nay Phật Tổ truyền trao
Rằng hay Phật Tổ truyền trao vật gì?"
Những lý thuyết hoa mỹ có giá trị gì nếu không thực hành:
"Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc nhưng không hương
Cũng vậy lời nói khéo
Không làm sao kết quả."
(Thích Minh Châu, Pháp Cú kinh. 51)
Đặc biệt trong kinh Kim Cang, đức Phật chỉ thẳng hạng người đó là tà
đạo. Vì họ chỉ tìm lý thuyết, khái niệm:
"Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thinh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như lai."
Chúng ta hãy nghe nhà triết học hiện sinh Karl-Jaspers tâm sự:
"Muốn tham dự vào chân lý của đức Phật, chúng ta phải từ bỏ mọi hiện
thể của mình. Sự khác biệt này không nằm trong những lập trường thời lý
mà nằm trong toàn bộ quan niệm về đời sống và cách thức suy
tưởng."(trích lại tư tưởng Vạn Hạnh)
Thiết kiến của
ngôn từ lắm lúc cũng đành bất lực trong luận lý. Ngôn ngữ làm sao trả
lời nổi những nghịch kiến: từ "tất cả dân đảo Crète đều nói láo." của
Epimenide sống ở Crète, thế kỷ VII B.C, đến "mũi tên tung bay mà không
di chuyển." của Zenon d’Elee và chàng thanh niên nào đó "bị treo cổ mà
vẫn sống." của Brouwer, hay "nhất thiết pháp không." của Bồ tát Long
Thọ. Bạn làm sao chia hết một cho ba bằng số học; một dãy dài bất tận
0,333... Thế nhưng, đứa bé chưa từng học toán nó có thể chia một cái
bánh thành ba phần bằng nhau. Cũng thế, giáo lý Phật giáo là đến để mà
thực hành, thực nghiệm mới thấy giá trị thiết thực của nó:
"Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc lại thêm hương
Cũng vậy lời khéo nói
Có làm có kết quả."
(Thích Minh Châu, Pháp cú kinh. 52)
Quả thật:
"Có gì trong một cái tên đâu
Cái mà ta gọi đó là hoa hồng
Cho dù có gọi tên nào nữa
Vẫn tỏa mùi hương ngát dịu lòng."
(dịch từ, Ruhula, Buddha and His Teaching)
Tất cả những gì được đề cập trong hệ thống này, mục đích là nhằm kiến
tạo con đường đưa đến cuộc sống hạnh phúc, là nhắm vào thực trạng chúng
ta đang hứng chịu để đoạn trừ nó. Tất cả những gì Phật dạy là kinh mà
kinh là phương tiện, không phải là cứu cánh; "Nhất thiết tu-đa-la giáo
như tu nguyệt chỉ." (Tất cả những lời Phật dạy như ngón tay chỉ mặt
trăng – kinh Lăng Nghiêm.) Đừng mãi mê theo ngón tay rồi không thấy mặt
trăng. Và khi đã thấy mặt trăng thì hãy quên ngón tay đi; vì "vì chánh
pháp còn bỏ huống chi là phi pháp." (kinh Xà Dụ). Do đó, Niết-bàn khi
được đề cập trong hệ thống này cũng chỉ là phương tiện thi thiết mà ở
kinh Lăng Già đức Phật đã dạy cho ngài Đại Huệ:
"Này
Đại Huệ, kinh nói ra tùy căn cơ của chúng sanh nên không thể hiển thị
được chân lý "Như thị"; lời nói hiển thị được cái như thật. Nó giống
như dương diễm (mirage) phỉnh gạt lũ thú đang khát vọng tìm nước uống ở
chỗ không có nước; cũng vậy, lời dạy của kinh nhằm thõa mãn trí tưởng
tượng của phàm phu nên không hiển thị được thực tại, nên nương theo
nghĩa, chớ chấp vào ngôn từ và giáo thuyết." (Trúc Thiên dịch – Thiền
luận I)
Đó cũng là lý do tại sao chư Tổ thường nhắc nhở
" Y kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan
Ly kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết."
Niết-bàn, như thế là một quá trình luôn luôn vượt qua; vượt qua những
gì có thủ đắc. Cho đến cái vượt qua ấy cũng phải được vượt qua; cũng có
nghĩa rằng chẳng vượt qua đâu cả. Vì chưa từng bám trụ ở chỗ nào thì
làm gì có chuyện vượt qua. Tất cả đều duyên sinh vô ngã:
"Chư Phật lưỡng túc tôn
Tri pháp thường vô tánh
Phật chủng tùng duyên khởi
Thị cố thuyết nhất thừa."
(kinh Pháp Hoa)
Cho nên:
"Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng."
Có thể nói rằng; sự chấm dứt khổ, như đã trình bày ở trên đó là cái Đẹp
theo thẩm mỹ Phật học mà các kinh điển đều hiển thị; dù Nguyên thủy hay
Đại thừa. Nhưng phải nói kinh Pháp hoa đã hiẻn thị cái đẹp này sinh
động nhất, qua hình tượng hoa sen. Hoa sen được dùng làm biểu tượng để
diễn đạt nội dung cái Đẹp. Đó là cái Đẹp của một cuộc sống biết vận
dụng tất cả những gì cho là ô trọc biến thành hương thơm ngát diệu tỏa
khắp muôn phương, là một nhân cách sống trong chốn bùn dơ nhưng không
bị cấu nghiễm bỡi bùn dơ. Không những thế còn đủ khả năng biến cấu uế
thành thanh tịnh. Một điều lý thú, nếu không có cái gọi bùn dơ ấy thì
chắc chắn không có giá trị của cái hương thơm. Sen làm nên bùn; bùn làm
nên sen; sen với bùn không hai không khác, để rồi sen và bùn thong dong
đi vào cõi bất cấu bất tịnh; bất tăng bất giảm. Đây là cái lí của sinh
tử tức Niết-bàn,
Cái Đẹp Phật giáo như thế đó. Trong
cuộc sống bình thường này và trong mỗi con người bình thường này. Đừng
tìm đâu xa; vì tất cả chỉ là không tưởng. Hãy thành thật với chính mình
thì sẽ biết mình là ai và phải làm như thế trong cuộc sống Người và
kiếp Người.
---o0o---
Thích Thiện Quang
Nguồn: daophatngaynay.com