Chỉ cần biết
rằng những môn đồ của các bậc đạo sư huyền thuật đó rất ít khi gặp được sư phụ.
Thời gian giữa những lần gặp gỡ kéo dài hay mau đều tùy thuộc vào sự tiến bộ
của môn đồ, hoặc khi có những vấn đề về tâm linh cần đến sư phụ khai thị.
Khoảng thời gian giữa những lần tiếp xúc của hai thầy trò kéo dài vài tháng, có
khi vài năm. Mặc dù xa cách và ít khi gặp nhau, nhưng thầy trò - đặc biệt là
đối với những vị có công phu đạo hạnh cao - vẫn có một phương pháp liên lạc với
nhau mỗi khi cần thiết.
Thiên lý truyền tâm hay khả năng viễn cảm là một
trong những pháp môn thần bí của người Tây Tạng. Dường như khắp nơi trên những
núi non cao ngất của “Xứ Tuyết” này đều được phủ đầy bởi hiện tượng thiên lý
truyền tâm, giống như vai trò mà ngành điện tín vô tuyến đã thực hiện từ lâu ở
phương Tây. Trong khi ở đất nước phương Tây, những thiết bị máy móc truyền tin
có xu hướng thiên về đại chúng, thì ở nơi đây, sự truyền đạt những thông điệp
tế vi theo cánh gió(2) lại thuộc thẩm quyền của một thiểu số tu sĩ
đã thụ pháp.
Khả năng thiên lý truyền tâm không phải là điều xa
lạ với phương Tây. Những tổ chức nghiên cứu tâm linh đã nhiều lần ghi nhận các
hiện tượng thiên lý truyền tâm. Tuy nhiên, phần lớn các hiện tượng này đều xảy
xa ngẫu nhiên và người trong cuộc lại hoàn toàn chẳng hay biết gì cả.
Kinh nghiệm cho thấy khi cố gắng thực hiện phương
pháp thiên lý truyền tâm một cách có chủ ý thì kết quả lại rất đáng ngờ, vì
chúng không thể lặp lại thông điệp chính xác như mong đợi.
Đối với người Tây Tạng thì vấn đề này lại khác. Họ
cho rằng thiên lý truyền tâm là một bộ môn khoa học, và cũng như mọi bộ môn
khoa học khác, nó có thể được giảng dạy bởi những người đã được giáo huấn bài
bản, đầy đủ và thấy mình có đủ khả năng thực hiện.
Người ta cũng chỉ ra thêm những phương pháp khác
nữa đều nhằm mục đích đạt đến khả năng thiên lý truyền tâm, nhưng quan điểm của
các tu sĩ bậc thầy trong pháp môn này lại không nhất trí với nhau về quan điểm
cho rằng nguồn gốc của hiện tượng này là sự tập trung tư tưởng cao độ đến mức
xuất thần.
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào
khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn
tinh thần để tập trung tư tưởng một cách mãnh liệt vào một đối tượng duy nhất,
từ đó quyết định sự thành công của hiện tượng này.
Vai trò của “trạm thu sóng” có ý thức - vốn luôn
sẵn sàng cảm ứng với những dao động sóng thiên lý truyền tâm cực kỳ vi tế - khó
khăn chẳng kém gì vai trò của “trạm phát sóng”. Trước tiên, người muốn trở
thành “trạm thu sóng” phải có khả năng tương thông với trạm phát sóng mà từ đó
nó muốn nhận những thông điệp gởi đến.
Tập trung tư
tưởng vào một đối tượng duy nhất, đến mức mọi đối tượng khác đều biến khỏi phạm
vi nhận thức, đó là một trong những cột trụ trong việc luyện tâm của những tu
sĩ Lạt ma. Mặt khác, việc luyện tâm cũng bao gồm các phương pháp giúp phát
triển khả năng nhận thức những dòng năng lượng khác luôn xô đẩy vũ trụ chuyển
động theo mọi hướng.
Dựa trên sự kiện này, một số người khẳng định rằng
công phu thiên lý truyền tâm cũng như viêm công, hay nhiều năng lực hữu ích
khác, chỉ là những kết quả tùy sinh từ việc luyện tâm, do đó thật là vô bổ nếu
xem nó là pháp môn riêng biệt để khổ luyện.
Một số người lại nhìn nhận sự việc theo cách khác.
Họ công nhận rằng những năng lực thần thông đạt được từ việc luyện tâm cho phép
thực hiện khả năng thiên lý truyền tâm cùng nhiều công phu huyền bí khác; nhưng
họ thêm rằng, những người dầu không đạt đến quả vị cao siêu trong Mật pháp hoặc
không khao khát cầu pháp vẫn có thể luyện thành công bất kỳ pháp môn tùy sinh
nào.
Nói chung thì các đạo sư Mật tông tán đồng điều này
ở một mức độ nào đó, và có một số đạo sư chuyên dạy cho môn đồ pháp môn thiên
lý truyền tâm.
Một số nhà ẩn tu, dù không luyện tập bài bản theo
hệ thống, vẫn có thể đón nhận được những thông điệp khai thị của các đạo sư
truyền đi bằng pháp môn thiên lý truyền tâm. Điều này được xem là do lòng tôn
kính sâu xa của họ đối với sư phụ. Chỉ có một số ít mới đạt được khả năng
truyền đi thông điệp một cách tự nhiên.
Về phương pháp luyện tập của pháp môn thiên lý
truyền tâm, có thể phác thảo sơ qua những nét chính như sau:
Trước tiên, hành giả cần phải thực hành những bài
tập tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất đến mức xuất thần, để hợp
nhất cùng đối tượng.
Song song với điều đó, cần phải luyện tập những bài
tập bổ sung về tập trung tư tưởng là “hư tâm”, nghĩa là vất bỏ tất cả sự
vật ra khỏi tâm trí, để cõi lòng lặng lẽ tịch nhiên tuyệt đối.
Tiếp theo đó hành giả phải quán tưởng và phân tích
những tác động đa dạng của các cảm xúc tâm sinh lý nảy sinh một cách đột ngột
khó hiểu, cùng những trạng thái tinh thần đặc biệt như vui buồn, sợ hãi, thêm
vào đó là những kỷ niệm bất chợt về người, về sự vật, về những biến cố dường
như chẳng liên quan gì với tư tưởng hoặc hành động của những người hiện ra
trong hoài niệm.
Sau khi đã tập luyện như thế được vài năm thì hành
giả mới được phép tham thiền với người thầy.
Hai thầy trò
sẽ ngồi thiền trong một căn phòng kín, lờ mờ sáng và cực kỳ yên tĩnh để cùng tập
trung tư tưởng vào một đối tượng chung. Cuối buổi hành công, người môn đồ sẽ
thông báo cho vị Lạt ma biết những tư tưởng, cảm xúc hoặc những nhận thức khách
quan nảy sinh trong các giai đoạn tham thiền. Hai thầy trò sẽ đem những điều
này ra đối chiếu với nhau để tìm hiểu những điểm tương đồng hay khác biệt giữa
hai người.
Giai đoạn tiếp theo, vị thầy sẽ không cho biết môn
đồ biết đối tượng cần quán tưởng, mà để cho môn sinh - trong nỗ lực giữ cho
lòng rỗng rang yên tĩnh không cho tư tưởng khởi sinh trong tâm trí - quan sát
những tư tưởng, tình cảm cùng những nhận thức xa lạ bất ngờ xuất hiện. Cũng như
giai đoạn trước, người môn đồ sẽ thông báo cho vị Lạt ma biết những tư tưởng,
hoặc hình ảnh nảy sinh trong quá trình tham thiền, và đem chúng ra để đối chiếu
với những gì mà vị sư phụ đã gợi ý cho mình bằng phương thức tâm truyền.
Đến lúc này, vị sư phụ sẽ để môn đồ ở cách mình
trong một cự ly không quá xa và truyền lệnh chính xác đến môn đồ. Nếu người môn
đồ hiểu được thông điệp này thì anh ta sẽ trả lời lại sư phụ hoặc thực hiện nội
dung của mệnh lệnh. Công phu này được lặp lại với khoảng cách giữa hai thầy trò
tăng lên dần theo thời gian. Sau khi đã ngồi thiền trong cùng một căn phòng,
hai thầy trò sẽ chuyển sang ngồi thiền trong hai căn phòng khác nhau của cùng
một tu viện, hoặc vị môn đồ sẽ quay về với thảo am hay thạch động của mình, rồi
chuyển xa dần khỏi chỗ ở của sư phụ thêm nhiều cây số.
Ở Tây Tạng, người ta tin rằng các đạo sư có pháp
lực thượng thừa có thể đọc được tư tưởng của người khác theo ý muốn. Đối với
các đạo sư này thì môn đồ của họ không cần phải gởi thông điệp tư tưởng đến sư
phụ bằng phương pháp thiên lý truyền tâm, vì sư phụ đã đọc được tư tưởng của họ
trước cả khi họ tham thiền để thực hiện điều này.
Dù điều này đúng hay sai đi nữa thì khi được gán
cho vinh dự là một doubtchén, nghĩa là một pháp sư pháp lực thượng thừa,
thì vị pháp sư đó phải hành xử ra vẻ như ông ta thực có những thần thông mà
người ta gán cho ông. Vì lý do này mà môn đồ của họ khi khởi đầu đạo nghiệp đều
luyện tập pháp môn thiên lý truyền tâm bằng cách gởi những thông điệp cho nhau.
Một nhóm khoảng hai ba người kết hợp với nhau để
luyện tập pháp môn này dưới sự hướng dẫn của vị Lạt ma sư phụ, và quá trình
luyện tập cũng na ná như những gì đã được mô tả.
Những môn sinh lão luyện hơn thì tự kiểm tra sự
tiến bộ của mình bằng cách gởi đi những thông điệp bất ngờ, nằm ngoài những bài
tập dự kiến, vào thời điểm mà người nhận đang rất bận rộn và hoàn toàn không
nghĩ đến việc đón nhận thông điệp.
Họ cũng cố gắng khơi dậy, bằng phương pháp thiên lý
truyền tâm, tư tưởng và hành động đối với những người mà họ chưa bao giờ luyện
tập chung. Một vài người lại cố gắng khơi dậy hành động nơi loài vật.
Luyện tập phương pháp này phải tốn rất nhiều năm
tháng. Thật khó lòng phỏng đoán chính xác có bao nhiêu người đã khổ luyện thành
công môn này. Hơn thế nữa, sẽ sai lầm khi tưởng rằng có đông đảo môn sinh theo
học pháp môn thần bí này, như ta thường thấy tại các tu viện lớn. Trong một
thung lũng hoang tịch như thế này, thì số lượng năm sáu môn đồ sống quanh thảo
am của một vị ẩn tu cũng được xem là đông rồi. Ngần đó đã là con số tối đa hiếm
khi đạt tới. Cách xa nơi đây, tại một hang núi khác ta có thể bắt gặp thêm một
vài môn đồ sống trong những thảo am sơ sài, ở quanh nơi ẩn tu của sư phụ họ cách
chừng vài cây số. Qua đó, ta có thể hiểu được nhiều bài luyện tập môn thiên lý
truyền tâm đã được một số ít hành giả thực hiện tại những địa điểm khác nhau.
Mặc cho những thành tựu mà các hành giả đã đạt được
khi khổ luyện môn thiên lý truyền tâm, các bậc chân sư Mật tông khả kính nhất
vẫn không hề khuyến khích điều này. Đối với các vị đó thì việc thành tựu những
năng lực siêu nhiên cũng chẳng khác gì trò chơi của trẻ con, hoàn toàn chẳng
đáng quan tâm.
Có vẻ như trên thực tế những bậc đại ẩn tu có thể tùy
ý truyền thông tư tưởng cho môn sinh bằng pháp môn thiên lý truyền tâm, và
người ta còn nói rằng các vị đó còn có thể truyền thông tư tưởng cho bất kỳ
loài hữu tình nào; nhưng như đã nói, những năng lực siêu nhiên đó chỉ là những
kết quả tùy sinh của tri kiến thâm huyền về những quy luật tâm lý và sự hoàn
thiện tâm linh.
Khi đã đạt đến giác ngộ thì không còn sự phân biệt
giữa ta và người, giữa chủ và khách, giữa năng
và sở mà tất cả đều viên dung nhất thể, cho nên pháp môn thiên lý truyền
tâm được thực hiện dễ dàng. Dù trong pháp môn này có một phần sự thật và một
phần tưởng tượng, song tôi thấy khôn ngoan nhất là đừng nên bàn gì về chúng.
Từ những quan sát đã thực hiện suốt nhiều năm
tháng, tôi có thể kết luận rằng, pháp môn thiên lý truyền tâm cũng như nhiều
pháp môn thần bí khác dường như đã tìm được ở Tây Tạng một vùng đất thuận lợi
để phát triển, hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới. Nói một cách chính xác thì
những điều kiện thuận lợi đó là gì? Trả lời dứt khoát câu hỏi này là một hành
động liều lĩnh, trong khi bản chất của những hiện tượng tâm linh siêu nhiên này
vẫn còn là điều huyền ẩn.
Có thể là do các hiện tượng tâm linh phải đối mặt
với ảnh hưởng địa lý của lãnh thổ cao ngất trời này. Có thể là do sự tịch lặng
mênh mông bao trùm lên toàn xứ sở. Nếu tôi dám tự cho phép mình sử dụng cách
diễn tả lạ lùng thì đó là sự tịch lặng diệu kỳ mà ta có thể nghe bàng
bạc vang trên những tiếng cuồng nộ thét gầm của thác ghềnh, sông suối. Cũng có
thể là các năng lực tâm linh hiển thị dễ dàng nhờ sự vắng bóng của những cụm
dân cư đông đúc, vì những hoạt động tinh thần tại những nơi này sẽ tạo ra vô số
cơn lốc năng lượng tinh thần làm rối loạn những làn sóng tế vi của hiện tượng
tâm linh.
Cho dù là vì nguyên nhân gì đi nữa thì sự truyền
thông tư tưởng bằng pháp môn thiên lý truyền tâm, một cách vô tình hay cố ý,
vẫn không phải là chuyện hiếm xảy ra tại Tây Tạng.
Bản thân tôi
cũng đã từng nhận những thông điệp thiên lý truyền tâm của vị Lạt ma mà tôi có
nhiều quan hệ. Có thể số lượng thông điệp nhiều hơn tôi tưởng. Nhưng tôi chỉ
giữ lại, xem như là những tư liệu quan sát quý giá, một số ít thông điệp mà
nhiều ngày sau hoặc nhiều tháng sau, vị Lạt ma hỏi tôi về kết quả của chúng mà
thôi.
Bên cạnh các phương pháp truyền thông tư tưởng mang
sắc thái liên quan đến yếu tố tâm linh, tuy không hẳn là phương pháp thiên lý
truyền tâm nhưng liên quan đến tính đồng nhất tư tưởng giữa sư phụ và môn đồ,
tôi xin kể lại hai câu chuyện bất ngờ mang sắc thái hoàn toàn khác.
Một trong hai câu chuyện này xảy ra tại lưu vực
sông Dainchine, trong cuộc hành trình của tôi đến Lhassa. Vị Lạt ma, tác giả
của những thông điệp mà tôi thấy giống như hiện tượng thiên lý truyền tâm, sống
tại tu viện Tcheudzong.
Yongden và tôi đã trải một đêm ngoài trời, trong
một cái hố tự nhiên do những cơn mưa liên tục xói lở đất tạo nên, nhưng giờ đây
đã khô và rắn lại nhờ sương giá. Vì không có chất đốt để nhóm lửa pha trà bơ
cho bữa điểm tâm quen thuộc, chúng tôi phải lên đường sớm để tìm chỗ lưu trú
thường ngày. Đến trưa, chúng tôi bắt gặp một vị Lạt ma vẻ mặt khả kính đang
ngồi trên tấm thảm lót yên ngựa3,
sát bên vệ đường. Ông ta vừa dùng cơm xong. Cùng với ông còn có ba tu sĩ trẻ (trapa)
vẻ mặt thông minh sáng sủa, tựa hồ là môn đồ chứ không phải là những kẻ tùy
tùng. Bên cạnh nhóm người này là bốn con ngựa dàm cương đang cố gặm đám cỏ khô.
Những lữ khách này đã dùng củi nhóm lửa, và một ấm
trà vẫn còn đang bốc khói trên than hồng.
Chúng tôi, trong bộ quần áo cải trang thành những
kẻ hành hương khất thực, lễ phép chào hỏi vị Lạt ma theo nghi thức. Khi nhìn
thấy bình trà, có lẽ sự thèm muốn uống trà hiện ra trên gương mặt chúng tôi. Vị
Lạt ma lẩm bẩm: “Nyingdjé” (Thật tội nghiệp!), rồi cất cao giọng mời
chúng tôi ngồi, bảo chúng tôi đưa bát để rót trà và cho bánh tsampa.
Một trapa liền rót phần trà còn lại vào bát
chúng tôi và đặt một đĩa bánh tsampa bên cạnh chúng tôi, rồi đi đến giúp
những người trong đoàn thắng yên cương ngựa để chuẩn bị lên đường. Một con ngựa
bất ngờ lồng lên bỏ chạy vì sợ hãi. Đây cũng là một biến cố thường xảy ra. Một trapa
khác liền cầm dây chạy theo để bắt nó lại.
Vị Lạt ma không phải là người hay nói, ông chỉ lặng
lẽ ngồi yên, đưa mắt theo dõi con ngựa đang tung vó chạy băng qua cánh đồng trơ
trụi. Chúng tôi tiếp tục ngồi ăn trong yên lặng. Tôi đảo mắt nhìn quanh và nhìn
thấy một bình gỗ chứa đầy sữa. Tôi đoán vị Lạt ma đã nhận bình sữa này từ một
trang trại mà tôi nhìn thấy trên đường đi, ở cách đây không xa.
Tôi nói thầm vào tai Yongden:
- Khi nào vị Lạt ma kia đi rồi, con hãy đến trang
trại kia xin một ít sữa.
Mặc dù tôi nói rất khẽ, nhưng dường như vị Lạt ma
kia hiểu được lời tôi nói. Ông đưa mắt nhìn tôi rất lâu với vẻ dò xét, rồi hạ
thấp giọng lẩm bẩm: “Nyingdjé” và ngoảnh mặt đi.
Con ngựa không bỏ chạy xa, mà tựa hồ như đang hứng
chí chơi đùa nên cứ nhảy nhót lung tung, khiến vị trapa kia không sao
đến gần được. Cuối cùng thì nó cũng đứng yên để vị tu sĩ trẻ quàng sợi dây
quanh cổ dắt về.
Vị Lạt ma vẫn ngồi bất động, đưa mắt đăm đăm nhìn
người môn đồ đang dắt ngựa. Người này đột nhiên ngừng lại, đứng yên một lúc,
thái độ có vẻ chăm chú, rồi dắt con ngựa buộc sau một tảng đá. Sau đó anh ta
quày quả đi bộ về phía trang trại. Một lúc sau tôi thấy anh ta quay trở lại chỗ
buộc ngựa, tay cầm một “vật gì đó” không rõ.
Khi anh ta đến gần, tôi mới nhận ra “vật gì đó”
chính là một bình gỗ đầy sữa. Anh ta không đặt bình sữa trước mặt tôi, mà đưa
mắt nhìn vị Lạt ma như muốn hỏi: “Sư phụ muốn con làm gì đây? Con phải làm gì
với bình sữa này?”
Trước những câu hỏi được lặng lẽ đặt ra, vị Lạt ma
chỉ khẽ gật đầu xác nhận và ra lệnh cho người môn đồ đưa bình sữa cho tôi.
Câu chuyện thứ hai tôi sắp kể đây không xảy ra tại
Tây Tạng, mà tại biên giới tỉnh Cam Túc và Tứ Xuyên của Trung Quốc.
Tại vùng biên của khu rừng mênh mông trải dài giữa
Tangan và ngọn đèo Kunka, có sáu người xin gia nhập vào đoàn chúng tôi. Vùng
này nổi tiếng là khu vực hoành hành của thổ phỉ Tây Tạng, cho nên mỗi khi đi
qua đây, khách đi đường thường phải kết hợp với nhau thành từng nhóm đông đảo
và vũ trang đầy đủ.
Năm trong số sáu người bạn đồng hành mới của chúng
tôi là thương nhân Trung Quốc, người còn lại là một phù thủy (ngagspa)
đạo Bön. Ông ta vạm vỡ, to lớn, mái tóc dài bó trong một tấm vải đỏ tạo thành
một dải băng dài.
Vì luôn tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu về giáo lý
và các nghi thức tôn giáo, nên tôi mời vị lữ khách cô đơn kia dùng cơm, với hy
vọng được nghe ông ta phiếm đàm về những đề tài tôi đang quan tâm. Tôi được
biết ông ta đang trên đường đến với vị sư phụ - một pháp sư đạo Bön đang thực
hiện đại nghi lễ thần bí doubthab trên một ngọn núi gần đây. Mục đích
của nghi lễ này là hàng phục một ác thần, và bắt y phá hoại một trong những bộ
lạc nhỏ trong vùng.
Sau vô số thủ thuật ngoại giao, tôi mới bày tỏ ý
muốn được yết kiến sư phụ ông ta, song vị môn đồ thẳng thừng tuyên bố không thể
được. Sư phụ ông ta tuyệt đối không thể bị quấy rầy trong trọn tháng âm lịch
này, vì phải dành trọn thời gian để tiến hành nghi lễ.
Tôi biết có nài nỉ cũng vô ích, nên định bụng sẽ
theo dõi vị ngagspa này khi ông ta rời đoàn chúng tôi, sau khi vượt qua
ngọn đèo. Nếu kín đáo tiếp cận vị pháp sư kia một cách bất ngờ thì không chừng
tôi có thể nhìn thấy được đàn tràng thần bí này cùng những thứ pháp khí khác
dùng trong nghi lễ.
Tôi thấy kế hoạch có vẻ ổn thỏa nên dặn dò những
người tùy tùng kín đáo bám sát vị ngagspa kia, đừng để ông lén lút bỏ
đi.
Hình như những người tùy tùng của tôi nói chuyện
với nhau quá lớn về chuyện này, khiến vị ngagspa biết được ý đồ của tôi
đối với đạo sư (gourou) của ông ta, nên lên tiếng cảnh báo tôi có cố
gắng làm cũng chỉ hoài công vô ích.
Tôi trả lời
rằng tôi không hề có ý đồ xấu, mà chỉ mong muốn được trò chuyện thân mật với vị
pháp sư để học hỏi thêm. Tôi dặn dò những người tùy tùng phải bám riết viên ngagspa
kia chặt chẽ hơn nữa.
Người bạn đồng hành của chúng tôi hiểu rằng ông ta
bị ép buộc để trở thành một tù nhân, nhưng vì thấy điều đó cũng chẳng gây hại
gì và nhất là được ăn uống thỏa thích - một điều mà người Tây Tạng rất xem
trọng - nên ông tham gia chuyến lữ hành với tâm trạng vô cùng vui vẻ.
- Đừng lo tôi bỏ trốn - ông ta bảo tôi - bà có thể
cho người trói tôi lại nếu bà muốn. Tôi chẳng cần đi trước để báo cho sư phụ
tôi biết bà đang đến, vì người đã được thông báo trước rồi. Gnais loung gi
téng la lén tang tsa (Tôi đã gởi cho người một thông điệp bằng pháp môn
thiên lý truyền tâm rồi).
Các ngagspa thường là những kẻ ba hoa khoác
lác rằng họ có những năng lực siêu phàm, nên tôi cũng chẳng quan tâm chi đến
những lời ông ta nói.
Thế nhưng lần này tôi đã lầm.
Sau khi vượt qua ngọn đèo, chúng tôi tiến vào một
thảo nguyên. Trên vùng thảo nguyên bao la như thế này thì bọn cướp không còn
đáng sợ nữa, vì chúng khó tìm ra được chỗ để phục kích.
Những thương nhân Trung Quốc, suốt mấy ngày qua khi
còn ở trong rừng, cả ngày lẫn đêm đều không dám rời đoàn người của chúng tôi
nửa bước, giờ đây đã lấy lại sự tự tin và vội vã chuẩn bị lừa ngựa để từ biệt.
Tôi vẫn có ý định theo dõi vị ngagspa khi ông ta bỏ đi, thì một đoàn kỵ
mã khoảng sáu người đột nhiên xuất hiện trên một mô đất và phi nước đại về phía
chúng tôi.
Khi đến gần, họ liền xuống ngựa chào hỏi và tặng
cho tôi mấy cái khăn khadag(4) và một ít bơ. Sau khi kết
thúc nghi thức tặng quà, một tu sĩ lớn tuổi bảo tôi rằng vị đại pháp sư đạo Bön
cho đem lễ vật này đến tặng tôi để xin tôi từ bỏ ý định tiếp cận ông ta. Ông ta
không được tiếp xúc bất kỳ ai, ngoại trừ một trong những đệ tử đã thụ pháp,
không một ai được đến gần nơi ông ta đang triển khai đàn tràng huyền thuật.
Tôi buộc lòng phải từ bỏ kế hoạch của mình. Dường
như vị ngagspa kia đã thực sự gởi đi một thông điệp cho sư phụ ông ta
bằng phương pháp thiên lý truyền tâm. Tôi hiểu có ôm khư khư ý định cũng chẳng
ích gì.
Mặc dù người môn đồ đã cho tôi thấy bằng chứng về
những năng lực phi thường, tôi vẫn ngờ rằng chính vị sư phụ kia mới là người
dùng huyền lực để ngăn không cho tôi đến gần ông, song những người dân núi vạm
vỡ đeo súng bao quanh tôi đang đứng sờ sờ ra đấy, tôi không thể cho là họ những
ảo ảnh không có thực. Họ tỏ ra rất mực lễ độ, không hề có biểu hiện ác ý gì với
tôi, nhưng thái độ của họ chắc chắn sẽ thay đổi, nếu như tính ương bướng của
tôi đe dọa đến sự thành công của một đại nghi lễ đang thu hút sự quan tâm của
toàn bộ lạc.
Tôi cũng đưa cho vị ngagspa một tấm vải khadag
và một ít tiền để cúng dường cho sư phụ ông ta. Tôi chúc mừng cho những người
Tây Tạng kia đã may mắn có được một viên pháp sư thượng thừa, rồi chúng tôi
thân mật giã từ.
Dường như hiện tượng thiên lý truyền tâm bằng hình
ảnh cũng tồn tại đối với người Tây Tạng. Nếu như tin vào hành trạng của những
vị Lạt ma nổi tiếng, được truyền khẩu giữa những người Tây Tạng, ta sẽ thấy có
nhiều câu chuyện điển hình của loại này. Song trong những hành trạng đó, sự
thật và hư cấu trộn lẫn với nhau chặt chẽ đến mức thà nghi ngờ còn hơn là tin
hẳn những câu chuyện dị thường được kể lại trong đó.
Trong thời đại chúng ta, vẫn có những người khẳng
định đã từng ghi nhận những ảnh tượng được truyền đi bằng phương pháp thiên lý
truyền tâm.
Những hiện tượng này hoàn toàn khác với giấc mơ.
Đôi khi những ảnh tượng đột nhiên xuất hiện trong quá trình thiền định, nhưng
đôi khi lại xảy ra khi người nhận đang bận rộn với công việc thường ngày.
Một vị Lạt ma tsipa (nhà chiêm tinh) kể cho
tôi nghe rằng, một hôm ông đang ngồi dùng bữa thì chợt thấy người bạn đồng tu
là một Lạt ma gyud (vị Lạt ma tốt nghiệp khoa huyền thuật), mà đã nhiều
năm qua ông chưa hề gặp lại. Người bạn đồng tu này đứng ngay trước cửa cùng với
một trapa trẻ tuổi, đeo một túi vải trên vai, điệu bộ giống như đang
chuẩn bị lên đường. Người thanh niên quỳ xuống đảnh lễ vị Lạt ma để giã từ, vị
Lạt ma mỉm cười nói vài câu gì đó rồi đưa tay chỉ về hướng Bắc. Vị trapa
ngoảnh mặt về hướng đó và quỳ xuống đảnh lễ ba lần. Khi đứng lên, vị trapa
cầm cái áo choàng zen, đã bị tụt xuống khi đảnh lễ, khoác lại lên vai.
Vị Lạt ma tsipa thấy một vạt áo zen đã bị rách. Sau đó ảnh tượng
kia biến mất.
Vài tuần sau, chính người thanh niên kia tìm đến,
cho biết vị Lạt ma gyud đã gởi anh ta đến đây để xin học về khoa chiêm
tinh.
Vị trapa kia kể lại rằng vào lúc lâm hành,
khi đang quỳ xuống đảnh lễ sư phụ - là vị Lạt ma gyud - thì anh ta nghe
sư phụ dặn dò: “Giờ đây, con sắp có thêm một sư phụ mới. Con nên đảnh lễ ngài
đi”, rồi đưa tay chỉ về hướng bắc, là nơi ở của vị Lạt ma tsipa.
Vị Lạt ma tsipa thấy một vạt áo zen
của người môn đồ bị rách, giống như ảnh tượng ông đã thấy trước đó.
Tôi hỏi có phải vị Lạt ma gyud muốn thông
báo cho người bạn đồng tu biết mình sắp gởi một đồ đệ đến hay không, nhưng vị
Lạt ma tsipa này không trả lời, bởi vì biến cố này vừa mới xảy ra, kể từ
khi xảy ra, ông ta chưa có dịp trả lời cho bạn.
Tôi phải nói rằng, người Tây Tạng thường tỏ ra ít
nhiệt tình trong việc tìm hiểu những hiện tượng tâm linh, và thái độ này của họ
cũng chẳng hề cản trở các công trình nghiên cứu. Đối với họ thì những hiện
tượng đó tuy khác thường, nhưng cũng không phải là cái gì quá đỗi dị thường,
đến mức khiến những người chứng kiến hay nghe kể lại phải vội vã tìm hiểu một
cách nghiêm túc. Trên thực tế, đầu óc họ không bị xáo trộn vì những khái niệm
chặt chẽ về quy luật tự nhiên, hay về những điều khả thi hoặc bất khả
thi, như người phương Tây.
Phần lớn người Tây Tạng, kẻ trí thức cũng như người
thất học, mặc nhiên chấp nhận rằng tất cả đều khả thi đối với những ai biết
thích nghi, và do đó, những hiện tượng dị thường, mà họ chứng kiến, chỉ khơi
dậy trong họ cảm giác ngưỡng mộ đối với người khéo tạo ra chúng mà thôi.
n
(1) Bản dịch được thực hiện theo nguyên bản tiếng Pháp Mystiques
et Magicciens du Tibet, NXB. PLON, 1929, các trang 236-248. Những ghi chú
là của người dịch, trừ ghi chú có ghi (T.g) là của nguyên tác.
(2) Nguyên là chữ rlung, (đọc là lung) vừa có
nghĩa là “không khí” vừa có nghĩa là “gió”, đôi khi còn có nghĩa là “hơi thở”
nữa. Ta có thể hiểu “rlung gi teng la” theo nghĩa “nương theo cánh
gió” hoặc “truyền qua không khí”… (T.g).
(3) Người Tây Tạng cưỡi ngựa trên yên gỗ có lót thảm (T.g).
(4) Một loại khăn vải mà người Tây Tạng dùng tặng nhau để bày tỏ thiện
chí và lòng tôn trọng (T.g).