Tôn
giáo nào không bảo vệ và tôn trọng sự sống của con người và chúng sinh,
mà trái lại khủng bố con người và giết người hàng loạt để vinh danh
Thần linh, thì Tôn giáo ấy không phải là Tôn giáo của con người và chúng
sinh; hoặc khi vị giáo chủ của Tôn giáo ấy ra đời, mà những tín đồ
phụng thờ vị giáo chủ ấy, giết hại chúng sinh để hiến tế hay ăn mừng,
thì Tôn giáo ấy cũng không phải là Tôn giáo của con người và cũng không
có ân đức gì với chúng sinh khi vị ấy xuất hiện. Tôn giáo ấy chỉ là Tôn
giáo của những kẻ thiếu nhân văn và cuồng tín.
Nó
trở thành độc hại, cản trở bước tiến của thế giới con người về nơi chân
thiện và vị tha. Đức tin cuồng tín và mù quáng thường dẫn sinh bạo động
và chiến tranh.
Lịch
sử của xã hội nhân loại đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều ấy.
Những kẻ kinh doanh Tôn giáo xưa và nay, đều lợi dụng đức tin mù quáng
và yếu hèn của tín đồ, để ru ngủ và mê hoặc bởi những điều hứa hẹn mơ
hồ, huyễn hoặc, nhằm kiếm lợi nhuận hay kích động những tính chất bạo
động nơi những người có đức tin Tôn giáo mù quáng, tạo nên những chiến
tranh dân tộc, thuộc địa, ý thức hệ hay tín điều mà thủ lợi không phải
là những người cầm súng ra chiến trường hay là những người tiêu thụ súng
đạn, mà nơi những nhà chủ trương sản xuất súng đạn và cổ vũ chiến tranh
dưới nhiều hình thức và danh nghĩa khác nhau để có lợi nhuận và quyền
uy.
Triết
học cũng không thể nào tự có, nếu con người không có tư duy. Nhưng
những tư duy sai lầm, sẽ tạo thành một hệ thống triết học dẫn xã hội con
người đến chỗ phá sản tri thức và nhân tính.
Người
dân chất phác, những tư duy của họ chỉ nghĩ về cơm ăn áo mặc, nhà ở mà
họ không có hệ thống triết học lý luận cho họ về nhà ở, áo mặc và cơm
ăn. Vì vậy, ai cho họ nhà ở thì họ theo, ai cho họ cơm ăn, áo mặc thì họ
cúi đầu và ai cho họ niềm tin thì họ thờ phụng.
Nhưng,
người có lương tâm, thì không nên sử dụng những phương tiện cơm ăn, áo
mặc, nhà ở, niềm tin mù quáng để dụ dỗ và mê hoặc lòng họ. Nói dối với
trẻ thơ, thì tội lỗi gấp mười lần so với nói dối với người lớn! Và nói
dối với nhân loại thì tội lỗi tăng lên gấp cả triệu lần so với sự tự lừa
dối chính mình.
Và
sự tự lừa dối chính mình, thì không có bất cứ khả năng nào để có thể tự
cứu rỗi và cũng không ai có thể cứu rỗi nổi người tự lừa dối.
Văn
hóa, học thuật và nghệ thuật cũng có gốc rễ từ nơi tư duy của con
người. Tư duy sai lạc, thì văn hóa, học thuật, nghệ thuật biểu hiện từ
tư duy ấy cũng chỉ là những sản phẩm phù phiếm, nửa vời, như những người
ngồi bên nầy bán cầu mà khen ngợi hay chỉ trích những gì đang diễn ra ở
bên kia bán cầu!
Những
người ở bên nầy bán cầu chỉ trích hay khen ngợi những gì đang xẩy ra ở
bên kia bán cầu, họ nào đâu có biết là ở bên kia bán cầu đang sinh hoạt
trong những thời điểm và những tư duy mà những múi giờ chuyển động của
địa cầu đang hoàn toàn chênh lệch và trái ngược, vì vậy mà bên nầy mọi
người đang ngủ thì bên kia mọi người đang thức, người đang thức có thể
nói gì với người đang ngủ và người đang ngủ nghe và hiểu được gì từ
những ngôn ngữ hay ý tứ của người đang thức!
Con người không có tư duy, thì chẳng có gì để gọi là văn hóa, học thuật và nghệ thuật cả.
Người
có tư duy hữu ngã và ích kỷ, thường muốn đem tư duy của mình áp đặt lên
tư duy của người khác và buộc người khác đi theo hướng tư duy của mình.
Họ biến con người trở thành những con bò và họ tự biến họ trở thành
những kẻ chăn bò và họ là kẻ chăn bò cho một người chủ duy nhất do họ
tưởng tượng.
Tưởng
tưởng về một ông chủ hay một bản ngã sẽ đưa con người đi tới với đời
sống của tham lam, thù hận, bạo động, chiến tranh, thất vọng và khổ đau.
Đây là chân lý, vì nó không riêng gì cho người bên này bán cầu hay bên
kia bán cầu. Không riêng gì cho người có Tôn giáo hay không Tôn giáo.
Không riêng gì cho người xưa hay người nay và không riêng gì cho kẻ trí
thức hay người mông muội.
Hễ
đứng ở đâu, ở thời điểm nào mà có tư duy hữu ngã và ích kỷ, thì có lòng
tham, có sự sân hận, có mù quáng và nhất định chúng sẽ dẫn sinh tranh
cãi, bạo động, chiến tranh, sợ hãi, thất vọng và khổ đau.
Nên,
tư duy hữu ngã, sẽ tao ra nền văn hóa hữu ngã. Văn hóa hữu ngã chỉ là
văn hóa của chiến tranh, mọi học thuật đi từ hữu ngã là để đầu độc thực
hiện chiến tranh và mọi nghệ thuật đi từ hữu ngã chỉ là để kích động
chiến tranh, nên khổ đau xẩy ra là điều tất yếu, không có gì để cho ta
ngạc nhiên.
Ở
nơi nào có “tự ngã” ở nơi đó có hận thù và chiến tranh. Hòa bình không
bao giờ có mặt ở nơi những Tôn giáo hay nơi những nền văn hóa giáo dục,
nghệ thuật, âm nhạc đề cao tự ngã với những tham vọng quyền năng, gom
thu hết cả muôn dân về một đầu mối.
Bản
chất của lòng tham là xấu và nó là thuộc tính tạo nên tội lỗi. Lòng
tham càng lớn thì tính xấu càng nhiều và thủ đoạn càng lắm, cho dù nó có
khoác lên bất cứ hình thức áo mão hay ngôn ngữ diễm lệ hoặc ca nhạc
thánh thần nào.
Lòng
tham là nguồn gốc của mọi tội lỗi và là nơi cất chứa của mọi thù hận và
mù quáng! Phụng thờ và khiếp nhược trước thần linh, không phải là đi từ
tính cách lễ phép của con người, mà đi từ nơi tính chất hèn yếu, ích kỷ
và tham lam của nó.
Con
người càng ích kỷ, thì họ càng đam mê thần linh và họ muốn vay mượn
thần linh để thỏa mãn những nhu cầu ích kỷ của họ. Nhưng không có thần
linh nào ở trên trời hay ở dưới đất có thể đáp ứng nổi lòng tham của con
người. Con người có thể yếu đuối về thể chất, nhưng lòng tham của họ
lại mãnh liệt và dẻo dai vô cực.
Thần
linh thì không làm cho ai mê muội, nhưng mê muội là do tính ích kỷ nơi
con người đối với thần linh. Thần linh là sự linh thiêng, trong sáng và
linh hoạt của tinh thần. Thần linh như thế ai cũng có, loài nào cũng có
và ngay cả nơi muôn vật cỏ cây cũng đều có. Có mà không có khả năng biểu
hiện là do tính tham dục nơi tâm con người và chúng sinh hay do tính
chất tiếp nhận hỗn tạp thiếu gạn lọc từ nơi các lưu mạch của mọi sự hiện
hữu.
Người
đệ tử của Phật, có ba pháp hành cần phải thực tập mỗi giây, mỗi phút,
mỗi giờ, mỗi ngày để lọc đi những tạp nhiễm của thân tâm, khiến cho
nguồn mạch sáng trong, linh tâm tinh duệ. Ba pháp hành ấy chính là Văn
Tư Tu.
Văn
là lắng nghe, để lọc những gì tạp nhiễm do nghe đem lại, khiến cho tâm
không bị ô nhiễm bởi nghe. Ta thực tập hạnh lắng nghe như vậy, nhuần
nhuyễn, tuệ giác sẽ sinh khởi trong đời sống của ta. Tuệ giác sinh khởi
từ hạnh lắng nghe như vậy, gọi là văn tuệ.
Tư
là chiêm nghiệm sau khi nghe, sau khi thấy và sau khi các quan năng
tiếp xúc với các đối tượng, ta thấy điều gì có khả năng đem lại lợi ích
thiết thực cho sự thực tập đời sống giải thoát, giác ngộ cho ta, cho
người, cho đời nầy và đời sau, thì ta chọn lấy để thực tập, và nếu sau
khi chiêm nghiệm, thấy nó phù hợp với thời cuộc và tương ưng với ngũ dục
mà không lợi ích gì cho sự thực tập đời sống giải thoát, giác ngộ cho
mình, cho người, cho đời nầy và đời sau, thì mình dứt khoát không làm.
Tuệ giác sinh khởi từ hạnh chiêm nghiệm hay tư duy như vậy, gọi là tư
tuệ.
Tu
là ứng dụng những gì mình đã quyết tâm lựa chọn, sau khi đã trải qua
hạnh lắng nghe và hạnh chiêm nghiệm. Tuệ giác sinh khởi từ sự tu tập,
ứng dụng gọi là tu tuệ.
Thực
tập các pháp môn Văn Tư Tu như thế mỗi ngày, tuệ giác ở nơi đời sống
của ta sẽ phát sinh và tâm khoan dung độ lượng, không kỳ thị nơi ta cũng
từ đó mà sinh khởi.
Bấy
giờ, tâm ta tuy độ lượng, nhưng không để cho bất cứ ai lợi dụng tâm độ
lượng của ta, mà làm những công việc phi độ lượng, ấy mới gọi là phẩm
chất độ lượng do thực hành pháp môn Văn Tư Tu tựu thành; bấy giờ tâm ta
tuy khoan dung, nhưng không để cho bất cứ ai lợi dụng tâm khoan dung của
ta, để làm những công việc phi khoan dung, hại mình, hại người, ấy mới
gọi là phẩm chất khoan dung do thực hành pháp môn Văn Tư Tu tựu thành;
bấy giờ tâm ta tuy không phân biệt kỳ thị, nhưng ta thấy nhân quả không
sai, chân ngụy rõ ràng, chính tà phân minh, thiện ác không xen tạp,
khiến cho bất cứ ai không thể lợi dụng sự không kỳ thị phân biệt của ta,
để làm những công việc kỳ thị phân biệt, ấy mới gọi là không kỳ thị
phân biệt, do thực hành pháp môn Văn Tư Tu tựu thành.
Nếu
thiếu sự thực tập miên mật đối với pháp môn Văn Tư Tu hay Chính Niệm
Tỉnh Giác, thì tà niệm khởi sinh, khiến cho mọi việc làm hay sự tu tập
của ta đều rơi vào tình trạng “Trống đánh xuôi kèn thổi ngược”, hay như
công án của một Thiền Sư đã nêu lên từ xưa để cảnh giác chúng ta “Đầu
lọt, bụng lọt, đuôi không lọt”.
Vì
vậy, chúng ta phải cẩn mật tu hành, luôn tỉnh giác đối với thân, thọ,
tâm và pháp, qua các quan năng nhận thức, đừng lạm dụng ngôn từ, đừng
lạm dụng các phương tiện tùy duyên hay ngoại giao, để rồi tự lừa dối
chính mình mà rơi vào ma nghiệp!
Thích Thái Hòa