Phần
lớn chúng ta sống nô lệ cho nghiệp, nô lệ cho sự ham muốn, nô lệ cho
lòng sân hận, nô lệ cho hoàn cảnh xung quanh mà chúng ta chẳng biết.
Những điều có quan hệ mật thiết đến đời sống hàng ngày của chúng ta mà
chúng ta gần như là không biết gì.
Chúng ta từ đâu
sinh đến đây? Chúng ta hoàn toàn không biết? Ai cũng muốn sinh ở nơi
trung tâm thành phố, văn minh; sinh vào nhà giàu sang phú quý, có cha mẹ
hiền đức, biết thương yêu dạy dỗ con cái nên người thành tài. Chẳng ai
muốn sinh ra nơi biên địa hạ tiện, thiếu ăn thiếu mặc, không có điều
kiện học hành, cha mẹ ác đức… Nhưng chúng ta hoàn toàn không làm chủ
được. Thậm chí, có khi nghề nghiệp sinh sống của chúng ta mà chúng ta
cũng không chọn được như ý, lắm khi nghề nghiệp nó chọn chúng ta. Chúng
ta không muốn già, nhưng vẫn bị cái già chi phối. Chúng ta không muốn
bịnh, nhưng bịnh tật luôn bức bách. Ai cũng sợ chết, nhưng tử thần không
buông tha cho bất kỳ ai. Ngay cả khi nào chết, chúng ta cũng không được
quyền chọn lựa.
Quan trọng nhất là sau khi chết
đi về đâu, chúng ta cũng hoàn toàn mù tịt. Tức là chúng ta u mê, nô lệ
cho nghiệp cả đời, từ khi sinh ra, lớn lên, đến già, đến chết. Và các
đời tiếp theo cũng tiếp diễn như vậy?
Vì vậy, một
số người có suy nghĩ tiêu cực, là buông xuôi, phó mặc cho số phận, trôi
giạt đến đâu thì hay đến đó, mọi người như vậy, mình cũng vậy thôi chứ
biết làm sao bây giờ. Có người tin vào thuyết số mạng, định mệnh, cho
rằng miếng ăn miếng uống đều được định sẵn. Có người rủ nhau đi tìm thầy
bói, thầy tướng để xem số cho mình, xem có giàu lên không, con cái thi
có đậu không? Sắp tới có lên chức được không? Có cách nào giải trừ tai
ương, chướng nạn được không? Nhưng rốt cuộc cũng chỉ là vô ích, vì các
thầy bói, thầy tướng đó cũng đang sống trong vô minh và nô lệ cho
nghiệp, bản thân họ còn không tự giải trừ nghiệp chướng cho mình, thì
làm sao giải trừ cho người khác. Vậy mà thực tế vẫn còn một số người u
mê, tin theo những lời hù dọa và hứa hẹn vu vơ của các thầy bói để rồi
phải chịu khổ đau nhiều hơn.
Chúng ta gặp được
Phật pháp là phước duyên vô cùng thù thắng. Phật pháp là ngọn đèn sáng
chiếu phá mọi nẻo tối tăm, là lương dược chữa lành mọi bịnh khổ, là con
thuyền từ đưa người qua bể khổ. Đức Phật nhờ tự thân nỗ lực tu tập mà
chứng đắc quả Vô thượng Bồ-đề, có trí tuệ thấu suốt thực tính của vạn
pháp, bản chất của vạn tượng, chân lý của muôn vật, nên đã hoàn toàn làm
chủ sống chết, làm chủ số phận, làm chủ vạn pháp.
Sự
nghiệp tầm đạo vượt thoát sinh tử vĩ đại của Đức Phật là minh chứng
hùng hồn cho một chân lý: Con người hoàn toàn có khả năng làm chủ số
phận của mình. Chân lý này có ý nghĩa nhân văn rất lớn, tạo nên một niềm
tin bất diệt, thôi thúc con người lạc quan về một tương lai tốt đẹp
trong cõi nhân sinh.
Bí quyết làm chủ đời mình,
làm chủ sinh mạng, làm chủ tương lai, làm chủ số phận mà Đức Phật đích
thân trải nghiệm và truyền dạy cho chúng ta, chính là sống tỉnh thức
trọn vẹn trong từng giây phút hiện tại; sống tỉnh thức hoàn toàn trong
mọi hoạt động của đời sống hàng ngày. Chúng ta luôn luôn tỉnh giác trong
đi, đứng, nằm ngồi, ăn uống ngủ nghỉ, làm việc, sinh hoạt, giao tiếp…
Làm
thế nào chúng ta có thể sống tỉnh giác được? Trước hết là phải quan sát
rõ và làm chủ mọi ý niệm sinh khởi trong tâm chúng ta. Căn cứ kinh
nghiệm thực tế, ta tạm phân các ý niệm thường xuyên và liên tục phát
sinh trong tâm ta làm hai loại: Ý niệm thiện và ý niệm bất thiện.
Ý
niệm thiện là những ý niệm thuận hướng Niết-bàn, thuận hướng Bồ-đề,
thuận hướng giác ngộ, thuận hướng giải thoát. Trong đó, ý niệm phát khởi
tâm Bồ-đề, quyết chí tu thành Phật, để cứu độ chúng sinh đang trôi lăn
trong biển khổ sinh tử là vua trong các niệm thiện. Ngoài ra, niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm từ bi, niệm hỷ xả, niệm bố thí,
niệm nhẫn nại, niệm vô ngã, niệm vô thường, niệm nhân quả, niệm
Niết-bàn…thuộc về ý niệm thiện. Nói đơn giản, đó là những ý niệm thật sự
đem lại cho an vui, giải thoát cho chúng sinh và mình.
Ý
niệm bất thiện là những ý niệm nghịch hướng Niết-bàn, nghịch hướng giác
ngộ, thuận chiều sinh tử, thuận chiều khổ đau, thuận chiều tham ái.
Trong đó, ý niệm chấp ngã là căn bản. Tức là ý niệm dính mắc vào cái ta
và cái của ta. Thân của ta, vợ của ta, con của ta, tài sản của ta, chức
vụ của ta, danh vọng của ta... Ai dám động chạm vào cái ta và của ta thì
sẽ liều chết với người đó. Ngoài ra, còn có niệm tham, niệm sân, niệm
si, niệm nghi, niệm ác độc, niệm hơn thua, niệm ganh tỵ, niệm hận thù,
niệm chán ghét, niệm ích kỷ... Nói đơn giản, đó là những ý niệm làm tổn
thương chúng sinh và mình.
Chúng ta thấy rõ, ý
niệm thiện chiêu cảm sự may mắn và phước đức ; ý niệm bất thiện chiêu
cảm khổ đau, phiền não, bất hạnh đến với ta. Chúng ta tự mình quan sát
xem ý niệm thiện hay bất thiện phát khởi trong tâm chúng ta nhiều hơn?
Thông thường, phần nhiều trong tâm chúng ta ý niệm bất thiện phát khởi
nhiều hơn ý niệm thiện. Nguyên nhân là do hàng ngày hoặc vô tình, hoặc
cố ý, chúng ta huân tập ý niệm bất thiện nhiều hơn ý niệm thiện, nên
chúng ta buồn rầu khổ đau, chán nản nhiều hơn là vui vẻ, hạnh phúc.
Khi
đã biết rõ như vậy, từng giây từng phút, chúng ta tỉnh giác quan sát,
nhận biết rõ ràng những ý niệm sinh khởi trong tâm ta. Bước đầu ta giữ ý
niệm thiện, loại bỏ những ý niệm bất thiện. Một khi ý niệm bất thiện
khởi lên, ta nhận biết rõ, không theo nó, thì tự nhiên nó sẽ không có
đất sống, không còn tồn tại trong tâm ta.
Sau khi
công phu thành tựu, trong tâm hoàn toàn vắng bóng ý niệm bất thiện, chỉ
còn ý niệm thiện. Chúng ta cần phải phá bỏ cả sự dính mắc, chấp trước
vào thiện niệm, mới có thể đạt đến chính niệm thanh tịnh. Lúc ấy tâm
thức của chúng ta thanh tịnh, hoàn toàn không còn bị vọng niệm tác động.
Khi đạt đến cảnh giới chính niệm thanh tịnh này, tuệ giác bùng vỡ,
chúng ta nhìn thấu thật tính của vạn pháp, bản chất của muôn vật, không
còn sai lầm. Cái thấy biết lúc đó là vô cùng chân thật. Đây chính là
cảnh giới giác ngộ, cảnh giới giải thoát, là Niết-bàn tịch tĩnh.
Chúng
ta làm chủ được ý niệm, làm chủ được suy nghĩ, chúng ta sẽ làm chủ được
lời nói, làm chủ được hành động tức là lời nói và việc làm của chúng ta
không còn sai lầm, không còn tạo nên nghiệp chướng, không còn tổn hại
cho chúng sinh. Mỗi ý nghĩ, lời nói việc làm đều lợi ích cho chúng sinh
và bản thân. Như vậy là chúng ta đã hoàn toàn làm chủ được số mạng, làm
chủ được nghiệp, làm chủ được cuộc sống, làm chủ được tương lai của
chúng ta. Điều này được Đức Phật khẳng định một cách dứt khoát trong
kinh Pháp cú:
“Giữ miệng, thu nhiếp ý
Thân không phạm lỗi chi
Ai làm được như thế
Sinh tử chẳng còn gì”.