Đại
 Giới Đàn là Pháp hội quan trọng nhất trong tất cả các pháp hội của Phật
 Giáo Bắc Truyền, hầu hết tinh hoa văn hóa, nghệ thuật, âm nhạc, nghi 
lễ, lễ phục, nghi trượng, nghi thức thỉnh rước của Phật Giáo đều được 
thể hiện trong Giới Hội, Giới Đàn là một kho tàng tri thức văn hóa ứng 
xử, nghệ thuật lễ nghi, âm nhạc trình diễn, ngôn ngữ bác học, truyền 
thống của Phật Giáo được tinh tuyển và ứng dụng trong Giới Đàn, thể hiện
 tính trang nghiêm long trọng, thoát tục cao nhã, với công năng dẫn 
người tham dự dễ dàng thể nhập vào Thánh Giới thiền cảnh, tạm thời gác 
hết việc trần, lắng lòng thanh tịnh thọ lãnh pháp vị an lạc vi diệu của 
Phật Giới.
Lễ cung nghinh thỉnh rước của Phật Giáo 
có từ thời Đức Phật còn tại thế, thường thấy nghi chép trong các bộ kinh
 Đại thừa, khởi nguồn từ việc chư Thiên và các vị vua Ấn Độ vì tỏ lòng 
cung kính của mình đối với Đức Phật nên dùng nghi trượng của Thiên giới 
hoặc triều đình rước Phật lên thiên cung hay vào hoàng cung phó cúng 
dường đăng đàn, thuyết pháp. Trong Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 
 phẩm Hiện Bảo Tháp thứ 11 chép: “Các phan lọng đều dùng bảy thứ báu, 
vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, và mai khôi hiệp lại thành,
 cao đến ngang cung trời tứ Thiên vương, trời Đao lợi, rưới hoa mạn đà 
la cúng dường…các cõi nước đó”.
Phật Giáo truyền vào Đông độ nghi thức 
nghinh thỉnh trong Phật Giáo càng được chú trọng và thể chế thành một 
nghi thức trong Tòng Lâm Phật Giáo Bắc Truyền. Chế độ phong kiến phương 
Đông ảnh hưởng Nho giáo, chú trọng lễ nghĩa cho nên hầu hết các nghi 
tiết lễ chế của triều đình phong kiến đều được quy định một cách rõ 
ràng, nghi thức của Phật Giáo có liên quan đến triều đình cũng không 
được ngoại lệ đều được thể chế hóa. Ban đầu nghi nghinh thỉnh của Phật 
Giáo Bắc Truyền được dùng trong các nghi thức triều đình cung nghinh Xá 
lợi Phật vào cung để cúng dường.
Theo sách Phật Cốt Xá Lợi chương thứ 6 
diễn tả cảnh tượng đời nhà Đường 7 lần cung nghinh Phật cốt Xá Lợi “ 
Thất Nghinh Phật Cốt” chép: “Đường Cao Tông lần nghinh thỉnh Phật Xá Lợi
 vào cung để cúng dường này tổ chức hết sức trang nghiêm chưa từng có. 
Tháng 12 năm đó cử hành đội nghinh rước đến chùa Pháp Môn để cung thỉnh 
Xá lợi, Phật tượng cùng chư Tăng để vào cung cúng dường. Điều phái 9 đội
 binh nhạc, tập trung các đội dân nhạc ở hai huyện phụ cận Trường An là 
Châu Tập và Vạn Niên, tràng phan bảo cái hơn 1000 bộ, gấm kết xe hoa, 
ngư long hý châu tràng 1500 chiếc, sàn cái bằng gấm kim lâu 500 cây, 
phướng thêu hình tượng Phật 200 bức, thảm đỏ trãi đường hơn 3000 tấm, 
đoàn nghinh Xá lợi trang nghiêm long trọng, rầm rộ nghinh thỉnh Xá lợi 
từ chùa Pháp Môn về Trường An dài hơn 10 dặm, trước nhìn không thấy đầu,
 sau xem chẳng thấy đuôi, phướng phan che cả mặt trời, trống nhạc động 
cả thiên địa, xướng kinh tán kệ âm động lên tận cung Vân Tiêu, hai bên 
đường người người quỳ lạy nghinh rước, khắp chốn đô thành tự quán gióng 
trống nổi chuông…”
Phật Giáo Đông Truyền đến đời Đường thì 
đạt đến cực thịnh, các tông phái Phật Giáo được thành lập, tòng lâm 
thanh quy pháp tắc được thể chế hóa, nghi thức nghi quỹ hành trì được hệ
 thống, biên soạn chỉnh lý. Nghi thức cung nghinh của Phật Giáo Bắc 
Truyền được thể chế hóa thành hai thể loại: 1 dùng trong pháp hội như 
cung nghinh Xá lợi, Phật tượng, Kinh điển, nghinh thỉnh Pháp sư đăng tòa
 thuyết pháp, chẩn tế..v.v…. 2 dùng trong sinh hoạt của Tăng già như 
Thỉnh sư thăng đường Bố Tát, Sám hối, Đại Tham, Tiểu tham, cung nghinh 
Giới sư đăng đàn truyền giới v.v…
Tất cả các nghi thức nghinh thỉnh này 
đều tùy theo địa phương, tự sở, nghi tiết cũng như hoàn cảnh của pháp 
hội mà được an trí và sắp xếp cho trang nghiêm và trọng thể, nghi trượng
 dùng trong nghi thức cũng tùy theo truyền thống các tự viện, tùng lâm, 
tông phái mà linh động an bày sắp đặt. Nghi trượng được dùng trong nghi 
lễ Phật Giáo Bắc Truyền ngoài công năng trang nghiêm đạo tràng ra còn 
hàm chứa những ý nghĩa vô cùng thâm diệu và bao hàm cả những triết lý 
sâu xa của Đạo Phật. Những nghi trượng thường được dùng trong nghi thỉnh
 rước gồm, Tràng, Phan, Lọng (sàn cái), Tích Trượng, Bê, Pháp Loa, Bát 
Kiết Tường Trượng.
1-Tràng: tiếng
 Phạn dhvaja-ketu-pataka, còn gọi là thoát xà, bảo tràng, thiên 
tràng.v.v… là một trong nhiều chủng loại cờ xí dùng để nghinh rước trang
 nghiêm đạo tràng, cúng dường Phật và Bồ Tát. Tràng nguyên được dùng 
trong nghi vệ của nhà vua, hoặc làm vật chỉ huy của các tướng lĩnh, do 
Phật là Pháp Vương, giáng phục tất cả ma chướng, cho nên xưng Phật 
thuyết pháp là  “Kiến Pháp tràng” (kiến pháp tràng ư xứ xứ , phá nghi 
võng ư trùng trùng).  Tràng còn là vật trang nghiêm pháp hội dùng để 
nghinh thỉnh, tán thán công đức Phật và Bồ Tát. Trong Kinh Pháp Hoa 
quyển thứ năm phẩm Phân Biệt Công Đức chép: “Trên mỗi đức Phật có các vị
 Bồ Tát nắm cầm tràng, phan, lọng, cái thứ đệ lên đến trời Phạm thiên”. 
 Tràng có hình tròn dài hoặc là tám hay sáu cạnh thường dùng vải gấm kết
 thành, nếu hình tròng thì không có phan nhỏ hoặc anh lạc treo xung 
quanh, nếu là tràng 8 cạnh hay 6 cạnh thì các góc đều có treo phang nhỏ 
hoặc là tua anh lạc dùng để làm trang nghiêm sức.

Tràng may bằng gấm trong nghi trượng cung nghinh Đại Giới Đàn Cam Lộ
2- Phan:
 tiếng Phạn Pataka-pataka-dhvaja-ketu, Phan là tên gọi đủ của tinh kỳ 
(tinh kỳ là loại cờ trên có cắm lông dùng cho những người đi sứ ngày 
xưa) còn gọi là Ba đa ca, đà phược nhược, kế đô, cùng với tràng đều là 
vật trang nghiêm để cúng dường Phật và Bồ Tát, phan còn được dùng tượng 
trưng cho oai đức của Phật và Bồ Tát, trong các Kinh điển của Đại thừa 
phần đa dùng phan, lại làm vật tượng trưng cho việc hàng phục thiên ma, 
trên phan thường ghi kinh chú hoặc danh hiệu chư Phật, Bồ Tát. Trong 
Kinh Hoa Nghiêm, Thập Hồi Hướng Phẩm chép: “Bồ tát thí thượng diệu tràng
 phan, rồi hồi hướng rằng: Nguyện cho hết thảy chúng sanh, thường dùng 
vải tốt làm phan, viết ghi chánh Pháp, hộ trì chư Phật Bồ tát pháp 
tạng”. trong các kinh điển tán thán công đức cũng tạo tràng phan cúng 
dường trang nghiêm Phật độ, được các công đức, cũng như thoát khỏi khổ 
nạn, vãng sanh về cảnh giới Tịnh Độ của chư Phật và thành tựu đạo Bồ đề.
 Trong Kinh Trường A Hàm quyển 4 phẩm Du Hành Kinh chép: “ Để Xá Lợi 
Phật trên bàn…kính trì phan cái, tán hoa, đốt hương, nổi các nhạc cụ 
cúng dường Xá Lợi”. Phan có hình dẹp và dài trên có đầu phan thứ đến 
thân phan, hai bên thân phan có treo phan thủ (hai lá phan nhỏ hai bên) 
dưới thân phan có phan túc. Phan thường dùng gấm, vải kết thành, cũng có
 phan làm bằng vàng, đồng, gỗ, giấy, ngọc.v.v…
 
Phan bằng gấm dùng trong nghi cung nghinh Đại Giới Đàn Cam Lộ
3- Lọng : Tiếng
 Phạn chattra là vật dùng dể che mưa nắng, còn gọi là Sàn cái, Lạp cái, 
Bảo cái, Viên cái, Hoa cái, Thiên cái. Trong Ma Ha Tăng Kỳ Luật quyển 32
 chép: “có ba loại Sàn cái làm bằng vỏ cây, lá cây và bằng tre”. Trong 
Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự quyển 6 chép: “ Sàn cái có hai loại thường dùng 
trúc và lá cây làm” thời cổ đại ở Ấn Độ khi có các cuộc họp quan trọng 
của các bộ lạc, thường họp ở dưới các gốc cây để tránh nắng, các vị chủ 
chốt của cuộc hóp thường đứng dưới gốc cây, Đức Phật cũng như vậy thuyết
 pháp thường cũng ngồi dưới gốc cây, sau đó tập tục đứng dưới gốc cây 
họp hay thuyết pháp được hình thức hóa thành lọng che, sau dần che lọng 
được thể chế hóa tượng trưng cho vương giả, hoặc là Pháp vương thuyết 
pháp dùng sàn cái lại tượng trưng và làm vật trang nghiêm pháp hội. Sàn 
cái có hai loại:1 dùng trang nghiêm pháp hội thường được làm bằng gỗ 
hoặc vải gấm, có 8 cạnh hoặc là 6 cạnh mỗi cạnh đều có treo phan nhỏ 
hoặc là anh lạc làm vật trang sức. 2 lọng dùng trong nghinh rước thường 
có hình tròn làm bằng nan tre và bọc gấm hay thêu hoa hình dáng như một 
cái dù lớn.

Lọng trong nghi cung nghinh Đại Giới Đàn Cam Lộ
4- Tích Trượng:
 tiếng Phạn  khakkara,  thuộc 18 vật dụng của các thầy Tỳ Kheo, Tích 
Trượng dùng chống trong lúc đi đường, còn gọi là Khiết khí la, Khiết cát
 la, Khích khi la, Hữu thinh trượng, Thinh trượng, Thiền trượng, Minh 
trượng, Trí trượng, Đức trượng, Kim tích, Trượng. Trong Tỳ Nại Da Tạp Sự
 nói việc Tỳ Kheo đi khất thực, để báo cho thí chủ biết cũng như không 
làm cho thí chủ bị giật mình chép: “ Bí sô khất thực nhà người, mở cửa  
làm tiếng động để báo, chủ nhà nhiều khi ngạc nhiên hoặc kinh hải giật 
mình. Phật dạy: nên làm Tích Trượng. thầy Tỳ Kheo không hiểu bạch Phật. 
Phật dạy: trên đầu tích trượng làm các vòng lớn, trong vòng lớn có đeo 
các vòng nhỏ, khi lắc tích trượng phát ra tiếng kêu cảnh báo cho các thí
 chủ biết… Tỳ Kheo đến trước nhà không phải Phật tử lắc trượng hồi lâu 
không thấy thí chủ ra. Phật dạy: “không nên lắc trượng lâu quá, chỉ nên 
lắc 2 hoặc 3 lần nếu thí chủ không ra thì đi.” Hình dáng của Tích Trượng
 được chia làm ba phần, đầu trượng, thân trượng, chân trượng.
Đầu và chân của Tích Trượng thường được 
làm bằng kim loại, đầu Tích Trượng thường có hình trụ tháp, xung quanh 
có các còng lớn bằng kim loại trong mỗi vòng lớn đều có treo các khuyên 
nhỏ cũng bằng kim loại khi lắc thì có tiếng vang, có hai loại tích 
trượng là phiến trượng và tích trượng, hình dáng thường thấy của tích 
trượng là có 4 vòng lớn tượng trưng cho tứ thánh đế, 8 vòng nhỏ hoặc 12 
vòng tượng trưng cho Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên. Hình của Phiến 
Trượng gồm hai vòng lớn tạo thành, thường treo 4 vòng nhỏ, tượng trưng 
cho Nhị Đế và Tứ Thánh Giáo. Trong Kinh Phật Thuyết Đắc Đạo Thê Đăng 
Tích Trượng chép: “ Phật dạy chư Tỳ Kheo: Các ông nên thọ trì Tích 
Trượng. Vì sao vậy? quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật đều trì Tích 
Trượng. Cho nên gọi là Trí trượng, vì làm sáng tỏa hiển hiện trí của bậc
 Thánh. Còn gọi là Đức trượng vì bổn hành các công đức, là sự biểu thị 
của Thánh nhơn, là minh ký của hiền sĩ, là chánh tràng của Đạo Pháp. 
Ngài Ca Diếp bạch Phật: vì sao gọi là Tích Trượng? Phật dạy: Tích là nhẹ
 vậy, để chống để dựa gọi là trượng, vì để trừ phiền não, ra khỏi Tam 
Giới vậy. Tích là sáng, vì đắc được trí huệ. Tích là tỉnh ngộ, tỉnh ngộ 
khổ không, Tam Giới kiết sử vậy. Tích là thông suốt, người trì tích 
trượng thông suốt đoạn trừ ngũ dục vậy.”.

Tích Trượng trong nghi cung nghinh Đại Giới Đàn Cam Lộ 
5- Bê:
 Còn gọi là Thiền Chấn, Hương Bản, Cảnh Sách Bổng, Thiền Trượng. Trong 
Thập Tụng Luật chép: “ lúc Phật con tại thế, các vị Tỳ Kheo ngồi thiền 
hôn trầm…Phật dạy nên dùng Thiền trượng lại cảnh sách cho tỉnh thức…” 
trong Thích Thị Yếu Lãm chép: “ Thiền chấn làm bằng một miến gỗ lát 
mỏng, hình dạng giống như cái hốt…người ngồi tọa thiền nếu hôn trầm thì 
dùng để cảnh sách.” Hương Bản, Cảnh Sách Bổng. Theo Thiền Tông Cảnh Sách
 Bổng chép: “ Cảnh Sách Bổng có hình dẹp và dài, làm bằng gỗ tay nắm 
hình trụ tròn. Mùa đông thường dùng gỗ cứng làm Hương Bảng còng mùa hè 
thì dùng gỗ mềm để làm, vì do mùa đông mặc đồ có khác cho nên tùy y mà 
chế bổng vậy.” Ngày nay Cảnh Sách Bổng hay Hương Bảng thường được gọi là
 cây Bê, Bê là tiếng kêu trại của Bổng vậy. Thiền bổng ngày nay được 
trang nghiêm hóa thành nghi trượng để thỉnh rước cho nên trên thân Bê có
 chạm khắc hoa văn để thêm phần nghiêm sức trang trọng, thể hiện oai 
nghi Tăng già và nhắc nhở cảnh sách đàn hậu bối.

Bê trong nghi cung nghinh Đại Giới Đàn Cam Lộ
6- Pháp Loa:
 Tiếng Phạn dharma-sankha là pháp khí thường dùng trong các pháp hội của
 Mật Giáo. Còn gọi là Thương, Kha bối, Pháp loa, Kim Cang loa, thể loại 
nhạc khí, dùng vỏ ốc biển đục lỗ ở cuối chổ xoắn để thổi, âm thanh trầm 
hùng oai tráng trong các kinh điển Đại thừa thường dùng âm thanh này dụ 
cho tiếng thuyết pháp vi diệu của Phật. Trong Kinh Pháp Hoa Phẩm Tự 
chép: “Nay đức Phật Thế Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi 
pháp loa lớn…” Trong Kinh Vô Lượng Thọ quyển 1 chép: “Đánh Pháp Cổ thổi 
Pháp Loa” trong Lạc Dương Già Lam Ký quyển 5 chép: “nước Ô Dương Tây Vực
 có tập tục sáng tối thổi Pháp loa lễ Phật.” Trong Quảng Thanh Lương 
Truyện quyển thượng chép: “núi Ngũ Đài Sơn chùa Đại Tháp Linh Thứu mỗi 
khi khải kiến pháp hội đều có thổi pháp loa”. Nói về công đức của Pháp 
loa trong Kinh Bất Không Thằng Tố Thần Biến Chân Ngôn quyển 18 chép: 
“nếu gia trì vào Pháp loa để lên chỗ cao mà thổi âm thanh to lớn, chúng 
sanh trong 4 loại, nghe được âm thanh của Pháp loa liền diệt hết các 
trọng tội, liền xã bỏ tự thân thọ được thân trời sanh lên thiên thượng”.
 Trong Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn 
Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni chép: “nếu như muốn triệu thỉnh tất cả chư 
Thiên thánh thần thường dùng Bảo loa thủ”. Pháp loa được thổi trong Pháp
 hội với ý bố cáo cho chúng hội biết đạo tràng bắt đầu khai diễn, Pháp 
Phật bắt đầu tuyên dương, cung thỉnh chư Thiên, Hộ Pháp, Thánh Thần lâm 
đàn, Pháp sư đăng lâm pháp đường.

Pháp Loa trong nghi cung nghinh Đại Giới Đàn Cam Lộ
7- Bát Kiết Tường nghi trượng:
 là tám nghi trượng trên đầu có chạm khắc tám hình tượng cát tường của 
Phật Giáo, biểu thị pháp hội nghinh thỉnh long trọng trang nghiêm và hàm
 xúc ý nghĩa vi diệu của thắng pháp. Bát kiết tường tương truyền là vật 
phẩm của chư Thiên cúng dường cho đức Phật Thích Ca lúc Ngài giáng thế 
và sau này Mật Giáo thường dùng các hình tượng này tạo thành hình tượng 
để cúng dường Phật. Thường dùng vàng , bạc,  đồng, gỗ hoặc là vẽ. Hình 
tượng Bát Kiết Tường gồm có:

Bát Kiết Tường trong nghi cung nghinh Đại Giới Đàn Cam Lộ
1. Bình Báu: tượng trưng cho đãnh môn của Phật và Giáo Pháp của Như Lai ý nghĩa cầu nguyện chúng sanh đắc được giáo nghĩa viên mãn của Phật.
2. Bảo Cáí: tượng trưng cho Phật đảnh biểu thị sự hàng phục ma chướng, cụ oai thế lực, nguyện cho chúng sanh thoát khổ đắc được an lạc.
3. Song Ngư:
 biểu trưng cho phật nhãn của đức Thế Tôn hiền từ quán sát chúng sanh, 
dùng trí tuệ của Phật diệt trừ vô minh, ngộ hết thảy trí huệ.
4. Hoa sen:
 tượng trưng cho lưỡi của Phật quảng trường thiệt tướng nói vô lượng 
Pháp, nguyện cho chúng sanh khai ngộ Phật tri kiến cụ túc lợi ích pháp 
lực.
 5. Pháp loa:
 tượng trưng cho cổ dài  ba ngấn của Phật, tiếng nói của Phật quảng đại 
du dươngnhư âm thanh của Pháp loa nguyện cho chúng sanh nghe được liền 
đặng giải thoát và giác ngộ.
6. Kiết tường kết:
 tượng trưng cho tâm của Phật còn gọi là vô lượng kết vì là kết không có
 đầu cũng không có đuôi cho nên biểu thị Phật Tâm vô tận như hai chư vạn
 tạo thành nguyện hết thảy chúng sanh thành tựu mọi thắng duyên.
7. Tôn Thắng Tràng: tượng trưng cho Chánh Đẳng Chánh Giác là sự thắng lợi của Phật Giáo, nguyện cho chúng sanh đạt đáo rốt ráo Vô Thượng Bồ Đề.
8. Pháp Luân: tượng trưng cho bàn tay của Phật với ý pháp luân thường chuyển và đồng thời cũng biểu ý bát tướng thành tựu của Phật.
Nghi trượng dùng để Nghinh thỉnh trong 
Phật Giáo Bắc Truyền ngoài tính cách trang nghiêm pháp hội ra còn chứa 
đựng trong đó cả một hệ thống giáo nghĩa triết học của Phật Giáo, nhưng 
quan trọng nhất là sự nguyện cầu cho hết thảy chúng sanh đắc Vô Thượng 
Bồ Đề được hình tượng hóa và qua đó thể hiện được tính cách Đại Thừa 
Viên Giáo của Phật Giáo Bắc Truyền.
(Tất
 cả những pháp khí sử dụng trong Đại Giới Đàn Cam Lộ đều được làm từ 
những bàn tay của các nghệ nhân từ Bắc Trung Nam trên đất nước Việt Nam 
của chúng ta)