(Ưu Bà Tắc Kinh, Kinh số 128 của Bộ Trung A Hàm, Gotama
Sanghadeva đời Đông Tấn (397-398) dịch từ Phạn ra Hán. Nhất Hạnh dịch ra
Quốc Văn, năm 1992. Tham khảo Anguttara Nikaya, A. iii.211.)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú
tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc
cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi
Phất. Các vị cúi đầu làm lễ thầy và ngồi xuống một bên. Tôn giả Xá Lợi
Phất đã sử dụng nhiều phương tiện khéo léo để thuyết pháp cho các vị cư
sĩ này, đem lại cho họ niềm vui và làm phát khởi nơi họ niềm khát
ngưỡng đối với Tam Bảo và sự hành trì chánh pháp. Sau đó, tôn giả tới
viếng Bụt, làm lễ dưới chân Người và ngồi xuống một bên. Cư sĩ Cấp Cô
Độc và năm trăm vị khất sĩ cũng theo gót thầy, đến viếng Bụt, làm lễ
dưới chân Người rồi ngồi xuống một bên Bụt. Sau khi thấy mọi người đã
an tọa, Bụt bảo thầy Xá Lợi Phất:
"Này thầy Xá Lợi Phất, thầy có biết rằng nếu một vị đệ tử áo trắng
đạo hạnh biết hộ trì năm Giới pháp và tu tập bốn tâm cao đẹp (tăng
thượng tâm) thì có thể dạt tới rất dễ dàng và không khó khăn gì khả năng
an trú hạnh phúc ngay trong hiện tại, và biết chắc chắn rằng mình sẽ
không còn đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh và các nẻo ác khác
trong tương lai?
Một người như thế là đã đắc quả Vào Dòng, không sợ còn bị rơi vào
đường ác, chắc chắn đang đi về nẻo chánh giác. Người ấy chỉ cần qua lại
tối đa là bảy lần nữa trong các cõi trời và người là có thể đạt tới
biên Giới của sự hoàn toàn giải thoát diệt khổ.
Xá Lợi Phất, vị đệ tử áo trắng hộ trì năm Giới pháp tu tập và bốn tâm cao đẹp (tăng thượng tâm) như thế nào?
Vị đệ tử áo trắng xa lìa sự giết hại, chấm dứt sự giết hại, buông bỏ
khí Giới, biết hổ thẹn, tập từ tập bi, bảo hộ cho mọi loài sinh vật, kể
cả các loại côn trùng. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm giết hại.
Đó là Giới pháp thứ nhất mà người đệ tử áo trắng hộ trì.
Vị đệ tử áo trắng xa lìa sự không cho mà lấy, chấm dứt sự không cho
mà lấy, thường ưa bố thí, tìm niềm vui trong sự bố thí và bố thí mà
không cầu đền đáp. Vị này không bị tâm trạng tham lam che lấp, luôn luôn
bảo hộ sự liêm khiết của mình và diệt trừ tận gốc sự không cho mà lấy.
Đó là Giới pháp thứ hai mà người đệ tử áo trắng hộ trì.
Vị đệ tử áo trắng xa lìa tà dâm, chấm dứt sự tà dâm, bảo vệ cho bất
cứ ai, dù người ấy nằm trong sự bảo hộ của cha, mẹ, hoặc cả cha lẫn mẹ,
hoặc chị em, hoặc anh em, hoặc cha mẹ bên sui gia, hoặc gia đình sui
gia, hoặc bởi người đồng tính, hoặc là vợ con hay chồng con kẻ khác, kể
cả kẻ bị cuồng dâm khủng bố, hoặc kẻ bán phấn buôn hương. Vị này diệt
trừ tận gốc tâm niệm tà dâm.
Đó là Giới pháp thứ ba mà người đệ tử áo trắng hộ trì.
Vị đệ tử áo trắng xa lìa nói dối, chấm dứt sự nói dối, chỉ nói sự
thật, tìm niềm vui trong sự nói lên sự thật, an trú nơi sự thật không
lúc nào đổi dời, có thể được tin cậy hoàn toàn và không bao giờ dám miệt
thị kẻ khác. Vị ấy diệt trừ tận gốc sự nói dối.
Đó là Giới pháp thứ tư mà người đệ tử áo trắng hộ trì.
Vị đệ tử áo trắng xa lìa rượu, chấm dứt sự uống rượu, diệt trừ tận gốc thói quen uống rượu.
Đó là Giới pháp thứ năm mà người đệ từ áo trắng hộ trì.
Này thầy Xá Lợi Phất, các vị đệ tử áo trắng làm thế nào thế để đạt
tới bốn tâm cao đẹp (tăng thượng tâm) và an trú hạnh phúc trong hiện tại
một cách dễ dàng và không có khó khăn? Trước hết, vị đệ tử áo trắng
thực tập quán niệm về Như Lai. Vị ấy quán niệm như sau: Như Lai là bậc
giác ngộ chân chính không còn dính mắc, là bậc Minh Hạnh túc, là bậc
Thiện thệ, là bậc Thế gian giải, là bậc Vô thượng sĩ, là bậc Điều ngự
trượng phu, là bậc Thiên nhân sư, là Bụt, là Thế tôn. Quán niệm về Như
Lai như thế thì những dục vọng xấu xa đều được tiêu diệt, trong tâm
người quán niệm không còn những yếu tố bất thiện, uế nhiễm, sầu khổ và
lo âu.
Nhờ tưởng niệm tới Như Lai mà tâm tư người ấy lắng trong, có
được niềm vui, và người ấy đạt tới tâm cao đẹp thứ nhất, an trú trong
hiện tại một cách dễ dàng, không khó khăn gì.
Xá Lợi Phất, vị đệ tử áo trắng thực tập quán niệm về Pháp. Vị ấy quán
niệm như sau: Giáo pháp được đức Thế tôn giảng dạy là giáp pháp diễn
bày khéo léo, có khả năng đưa tới giải thoát hoàn toàn, đưa tới trạng
thái không phiền não, không nóng bức, có tính cách thường tại và không
dời đổi. Quán niệm và giác tri như thế về pháp thì những dục vọng xấu xa
đều được tiêu diệt, trong tâm người quán niệm không còn những yếu tố
bất thiện, uế nhiễm và lo âu.
Nhờ tưởng niệm tới Pháp mà tâm tư
người ấy lắng trong, có được niềm vui và đạt tới tâm cao đẹp thứ hai, an
trú hạnh phúc trong hiện tại một cách dễ dàng, không khó khăn gì.
Xá Lợi Phất, vị đệ tử áo trắng thực tập quán niệm về Tăng. Vị ấy quán
niệm như sau: Thánh chúng của Như lai đang đi về nẻo thiện, đang đi
trên đường chánh, đang hướng theo giáo pháp, đang thực tập theo giáo
pháp và sống đúng tinh thần giáo pháp. Trong thánh chúng ấy có các bậc A
la hán đã thành và đang thành, các bậc A na hàm đã thành và đang
thành, các bậc Tư đà hàm đã thành và đang thành, các bậc Tu đà hoàn đã
thành và đang thành, tức là có đủ cả bốn đôi và tám bậc. Thánh chúng
của Như lai đã thành tựu được Giới, được tam muội, được bát nhã, được
giải thoát, được tri kiến giải thoát; thánh chúng này đáng được tôn
kính, đáng được quý trọng, đáng được phụng sự, đáng được cúng dường, và
đó là ruộng phước tốt đẹp cho cuộc đời.
Nhờ tưởng niệm tới tăng mà
tâm tư người quán niệm lắng trong, có được niềm vui và người ấy đạt
tới tâm cao đẹp thứ ba, an trú hạnh phúc trong hiện tại một cách dễ
dàng, không khó khăn gì.
Xá Lợi Phất, vị đệ tử áo trắng thực tập quán niệm về Giới. Vị ấy quán
niệm như sau: Giới luật này không có khuyết điểm, không bị sứt mẻ,
không bị cấu uế, không bị ô trược, có khả năng giúp ta an trú trong lĩnh
thổ của Như lai. Giới luật này không có tính cách giả dối, thường được
các bậc hiền thánh khen ngợi, tiếp nhận, thực tập và hộ trì.
Nhờ
tưởng niệm tới Giới mà tâm tư người ấy lắng trong, có được niền vui và
người ấy dạt tới tâm tư cao đẹp thứ tư, an trú hạnh phúc trong hiện tại
một cách dễ dàng, không khó khăn gì.
Xá Lợi Phất, thầy nên ghi nhớ rằng một người đệ tử áo trắng nếu thực
tập được như thế là đã chấm dứt được sự sa đọa vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sinh và các đường dữ khác, đã chứng đạt được quả vị Tu đà hoàn,
không còn thối đọa vào các ác pháp. Người ấy chắc chắn đang đi về nẻo
chánh giác và chỉ cần qua lại tối đa là bảy lần nữa trong các cõi trời
và người là có thể đạt tới biên Giới của sự hoàn toàn giải thoát diệt
khổ.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài tụng sau đây:
"Kẻ trí sống tại gia
Thấy sợ cảnh địa ngục
Nên thọ trì chánh pháp
Dứt trừ mọi nẻo ác.
Học hiểu mà hành trì
Không giết hại chúng sanh
Chân thật không nói dối
Không lấy của không cho.
Trung kiên bạn hôn phối
Thói tà dâm kìa bỏ
Nhất quyết không uống rượu
Để tâm chẳng loạn cuồng
Thường thực tập niệm Bụt
Thường thực tập niệm Pháp
Niệm Tăng và niệm Giới
Tâm an lạc thảnh thơi.
Muốn thực tập bố thí
Để vun trồng phước đức
Người ấy học tiêu chuẩn
Giải thoát và giác ngộ.
Xá Lợi Phất lắng nghe
Ta nói về điểm này
Hãy nhìn đàn bò kia
Và thử quan sát chúng:
Có con vàng, con trắng
Có con đỏ, con đen
Màu nâu có đốm vàng
Hoặc màu chim bồ câu.
Dù chúng màu sắc gì
Hoặc xuất xứ từ đâu
Giá trị thật của chúng
Là ở sức chuyên chở.
Những con nào mạnh khỏe
Kéo xe mạnh và nhanh
Chuyên chở được nhiều chuyến
Là những con hữu dụng.
Trong cõi nhân gian này
Có các Giới phạm chí
Sát đế lợi, cư sĩ
Thương gia và công nhân.
Những ai trì tịnh Giới
Thực chứng được giải thoát
Trở thành bậc cao đức
Bậc Thiện thệ thảnh thơi.
Cúng dường những bậc ấy
Là được quả phúc lớn.
Ta không cần phân biệt
Giai cấp và nguồn gốc.
Kẻ thiếu đức nghèo tuệ
Không soi sáng cho ai,
Cúng dường những kẻ ấy
Quả phúc không đáng kể.
Người con Bụt tu huệ
Tâm hướng về Thế tôn
Gốc lành thêm vững chãi
Chỉ sinh về nẻo lành.
Qua lại cõi nhân thiên
Nhiều lắm là bảy lần
Cuối cùng sẽ đạy được
Cảnh Niết bàn tịnh lạc."
Bụt
nói như thế, Tôn giả Xá Lợi Phất, các vị khất sĩ, cư sĩ Cấp Cô Độc và
năm trăm vị cư sĩ khác nghe lời Bụt dạy, vui vẻ làm theo.
Tên kinh và nguồn gốc của kinh
Ta có thể nói đạo Bụt là một tôn giáo, nhưng nếu ta nói đạo Bụt là
một cách sống thì còn đúng hơn. Sống là một nghệ thuật. Nghệ thuật tạo
hạnh phúc cho mình và cho người. Hạnh phúc của mình và hạnh phúc của
người có liên hệ tới nhau một cách mật thiết cho đến nỗi ta thấy nếu
người không có hạnh phúc thì ta cũng không thực sự có hạnh phúc. Trong
sự thực tập nghệ thuật tạo dựng hạnh phúc, ta phải có một niềm tin. Tin ở
một cái gì cao đẹp, phù hợp với sự thật, có thể làm nền tảng cho hạnh
phúc thật sự và lâu dài. Vì niềm tin ấy cần thiết cho nên nếp sống đạo
Bụt có tính cách tôn giáo. Tuy nhiên niền tin ở đây không phải là niềm
tin ở một đấng thần linh hay ở một nguyên lý siêu hình mà ta không thể
kiểm chứng được. Niền tin ở đây là niềm tin ở một cái gì đẹp, thật và
có thể tạo dựng hạnh phúc, và cái ấy ta có thể sờ mó, tiếp xúc, thí
nghiệm và thể nghiệm.
Kinh Người Áo Trắng là một trong những Kinh căn bản và tương đối dễ
hiểu và dễ làm, mang chủ đề niềm tin và nếp sống hạnh phúc của con
người, con người bình thường sống trong xã hội, đó là con người của tất
cả chúng ta. Kinh này không phải đã được nói ra cho các bậc siêu nhân
mà là đã được nói ra cho tất cả chúng ta. Ai làm theo được lời dạy của
Kinh thì có thể tạo dựng được hạnh phúc cho mình, cho những người mình
thương yêu vàn cho nhiều kẻ khác trong đó có các loài cầm thú, cỏ cây
và đất đá nữa. Và hạnh phúc ấy có ngay trong giờ phút hiện tại.
Trong Đại Tạng chữ Hán, Kinh này có tên là Kinh Ưu Bà Tắc. Đó là Kinh
số 128 trong bộ Trung A Hàm. Trung A Hàm là Kinh mang ký hiệu Đ.C.26
của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Kinh này do thầy Gotama Sanghadeva
(Cù Đàm Tăng Già Đề Bà) đời Đông Tấn dịch vào cuối thế kỷ thứ tư
(397-398.)
Trong văn hệ Pali, Kinh tương đương với Kinh này là Kinh Gia Chủ,
thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), ký hiệu Aiii, 211. Nội dung của
Kinh này và Kinh Ưu Bà Tắc (Kinh Người Áo Trắng) được xem như đồng nhất.
Tuy lời văn của hai Kinh có nhiều chỗ sai khác, nhưng những ý chính
đều có trong cả hai Kinh.
Tụng bản chữ Hán đã được dịch từ tụng bản
tiếng Sanskrit, do bộ phái Sarvastivada ở Kashmir truyền lại, trong
khi tụng bản tiếng Pali đã được phái Tamrasatiya bảo trì ở Tích Lan.
Tamrasatiya vốn là tên của một bộ phái mà ngày nay ta gọi là Theravada.
Hai bộ phái Sarvastivda (Hữu bộ hay Tát Bà Đa Bộ) và Vibhajyavada
(Phân Biệt Thuyết Bộ) được hình thành sau hiện tượng phân phái của giáo
hội xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ ba trước kỷ nguyên Tây lịch, vào thời
đại vua Asoka. Sau cuộc phân phái này, các thầy thuộc Hữu Bộ dời lên
Kashmir ở miền Cực Bắc Ấn Độ, và bộ phái Sarvastivada đóng đô và thịnh
hành ở đó suốt một ngàn năm, và từ đây Kinh luận của bộ phái được đưa
vào Trung Hoa và dịch thuật ra chữ Hán. Từ Phân Biệt Thuyết Bộ phát sinh
ra nhiều bộ phái trong đó có Đồng Diệp Bộ (gọi đủ là (Xích Đồng Diệp
Bộ, Tamrasatiya, bộ phái của các thầy mặc y màu hỏa hoàng, màu đồng đỏ.)
Phái này được truyền bá về tận Tích Lan trong thời vua A Dục và đã
được truyền trì lại cho tới ngày nay. Một người con trai của vua A Dục
tên là Mahinda đã có mặt trong phái đoàn truyền giáo ấy. Hai bộ phái,
một đi lên miền Bắc một đi về miền Nam, hồi đó đều dùng phương thức
truyền khẩu để bảo trì Kinh, luật và luận. Các Kinh, luật và luận này
chỉ được chép xuống vào thế kỷ đầu trước kỷ nguyên Tây Lịch. Vậy mà bây
giờ so sánh hai tụng bản Kinh Người Áo Trắng (chữ Hán) và Kinh Gia Chủ
(chữ Pali) ta vẫn thấy nội dung giống nhau. Điều này giống như một
phép lạ. Trong khi dịch và chú giải Kinh Người Áo Trắng, chúng tôi đã
tham khảo Kinh Gia Chủ, và đã lấy làm sung sướng có được trong tay hai
tụng bản để sử dụng.
Trường hợp kinh được nói
Kinh này được Bụt nói tại tu viện Kỳ Viên cho cư sĩ Cấp Cô Độc
(Anathapindika) và một số những người bạn của ông. Cư sĩ Cấp Cô Độc là
người đã từng phụng sự Tam Bảo với tất cả tấm lòng của mình. Chính ông
đã mua khu vườn của Thái Tử Jeta để dâng Bụt và giáo đoàn khất sĩ và đã
yểm trợ giáo đoàn biến khu vườn đẹp đẽ này thành tu viện. Ông là một
người có uy tín trong Giới thương gia ở thủ đô Sravasti thuộc vương quốc
Kosala. Ông nổi tiếng là người bênh vực và chăm sóc cho những kẻ nghèo
khổ và cô độc. Mỹ hiệu Anathapindika (tiếng Phạn là Anathapindada) có
nghĩa là người cấp dưỡng cho những kẻ nghèo khổ và cô độc; mỹ hiệu này
đã được dân chúng tặng cho ông, vì họ thương mến ông. Mỹ hiệu đó được
dịch là Cấp Cô Độc. Tên thật của ông là Sudatta (Tu Đạt.) Niềm tin của
ông nơi Tam Bảo rất vững chắc. Ông tu tập theo lời Bụt dạy, mà người bạn
đời của ông, phu nhân Punnalakkhana cũng biết tu tập theo lời Bụt dạy.
Ông có bốn người con, ba người đầu là gái. Ba người tên là Subhadha
chị, Subhadha em, và Sumagadha. Cậu con trai tên là Rula. Cả bốn người
đều có niềm tin và tu tập theo lời Bụt dạy. Gia đình có nhiều hạnh
phúc.
Cố nhiên cư sĩ Cấp Cô Độc có nhiều bạn bè trong Giới thương gia và
trí thức, và ông đã thường khuyến dụ các bạn đi gặp Bụt và giáo đoàn.
Hôm ấy ông đã hướng dẫn các bạn tới Kỳ Viên để thăm thầy Xá Lợi Phất
(Sariputta) và để nghe thầy thuyết pháp. Sau đó ông và các bạn tới viếng
Bụt. Trước sự hiện diện của thầy Xá Lợi Phất, Bụt dạy cho ông Kinh
này. Hôm ấy Cấp Cô Độc cùng đi với năm trăm người bạn. Kinh này đặt
được nền tảng thực tập cho người đệ tử tại gia. Cả hai tụng bản Hán và
Pali đều gọi người đệ tử tại gia là người áo trắng. Chỉ có người xuất
gia mới không mặc áo trắng. Vì vậy Kinh này có thể gọi là Kinh Người Áo
Trắng.
Liên hệ giữa thầy Xá Lợi Phất và trưởng giả Cấp Cô Độc là một liên hệ
đặc biệt. Cấp Cô Độc đã được gặp Bụt lần đầu ở tu viện Trúc Lâm, ở
vùng ngoại ô miền Nam của thủ đô Vương Xá nước Ma Kiệt Đà. Ông đem lòng
yêu mến Bụt và cầu mong Bụt qua giảng dạy đạo tỉnh thức bên nước ông,
tức là nước Câu Tát La. Bụt đả nhận lời ông. Và sau đó, Bụt đã cho thầy
Xá Lợi Phất cùng đi với ông qua thủ đô Xá Vệ trước để chuẩn bị cho
chuyến du hành hóa độ của Người. Về tới thủ đô Xá Vệ, Cấp cô Độc đã
Giới thiệu thầy Xá Lợi Phất với gia đình, với các bạn, và đã thỉnh cầu
thầy Xá Lợi Phất ở lại thủ đô để hoằng hóa trong khi ông đi tìm mua đất
để làm nơi cư trú tương lai cho Bụt và giáo đoàn khất sĩ. Ông đã mua
được khu vườn nghỉ mát của thái tử Kỳ Đà, một khu vườn thật đẹp. Khu
vườn này trở nên tu viện Cấp Cô Độc. Trong Kinh Người Áo Trắng, ta thấy
Cấp Cô Độc đưa năm trăm người bạn tới thăm thầy Xá Lợi Phất trước rồi
mới tới thăm Bụt sau. Điều này cũng cho ta thấy thâm tình giữa ông Cấp
Cô Độc và thầy Xá Lợi Phất. Sau này khi ông qua đời, chính thầy Xá Lợi
Phất là người ngồi bên giường ông trong giờ ông hấp hối để dạy ông quán
chiếu về sinh tử và giúp ông qua đời một cách nhẹ nhàng và an lạc. Bụt
dạy Kinh này cho ông Cấp Cô Độc và các bạn ông, nhưng Bụt đã hướng về
thầy Xá Lợi Phất để nói. Điều này cũng chứng tỏ mối liên hệ mật thiết
giữa thầy Xá Lợi Phất và ông Cấp Cô Độc.
Tụng bản chữ Hán của Kinh mang tên là Kinh Ưu Bà Tắc. Ưu Bà Tắc
(Upasaka) có nghĩa là người cận sự, người thân cận với Giới xuất gia để
học hỏi và thực tập. Người nữ gọi là Ưu Bà Di (Upasika.) Có một Kinh
đại thừa nổi danh mang tên là Kinh Ưu Bà Tắc Giới, trong đó ba phép Qui
Y và Năm Giới được diễn bày theo tinh thần đại thừa. Kinh này là do
Kinh Thiện Sinh (Lục Phương Lễ Kinh) trong các bộ Trung A Hàm và Trường
A Hàm phát triển thành, có nói đến sự phát tâm, lập nguyện, tu học,
trì Giới, thiền định, và có liên hệ đến Giới Bồ Tát của Kinh Phạm Võng.
Ta đừng lầm Kinh Người Áo Trắng (Ưu Bà Tắc Kinh) với Kinh Ưu Bà Tắc
Giới.
Chủ đích và đại ý nội dung
Kinh này Bụt nói với thầy Xá Lợi Phất, nhưng cũng để cho trưởng giả
Cấp Cô Độc và năm trăm người bạn của ông nghe. Nội dung của Kinh nói về
năm Giới và bốn phép quán niệm: quán niệm về bụt, quán niệm về Pháp,
quán niệm về Tăng và quán niệm về Giới. Bụt dạy nếu một người đệ tử áo
trắng thực tập được vững vàng năm Giới và bồn phép quán niệm này thì có
thể đạt tới khả năng sống an lạc và hạnh phúc ngay trong hiện tại không
khó khăn gì, có thể chứng đạt quả vị Vào Dòng (Tu đà hoàn), và biết
rằng mình không còn bao giờ đi vào những nẻo tối tăm như địa ngục, ngạ
quỷ và bàng sinh nữa. Kinh này thiết lập nền tảng thực tập cho người đệ
tử tại gia, nêu rõ đối tượng niềm tin của người Phật tử tại gia: đó là
con đường đưa tới hạnh phúc và giải thoát cho mình và cho những kẻ
khác trong xã hội. Trong tụng bản chữ Hán, danh từ Thánh Đệ Tử đã được
dùng để gọi người đệ tử áo trắng có Giới luật tinh nghiêm. Thánh ở đây
có nghĩa là có tính cách thánh thiện và cao quý, dịch từ chữ arya.
Trong bản dịch Việt ngữ, chúng tôi đã sử dụng tính từ đạo hạnh cho có
vẻ gần gũi: 'Vị đệ tử áo trắng đạo hạnh...'
Năm giới pháp
Giới cũng là Pháp, cho nên có khi ta gọi là Giới Pháp. Hành trì năm
Giới, ta phải tin vào hiệu lực của năm Giới. Giới là nghệ thuật sống đem
lại an lạc và hạnh phúc, nhưng Giới cũng là niềm tin của chúng ta. Ta
phải tin vào năm Giới như hiện thân của chân, thiện và mỹ, nghĩa là cái
thật nhất, cái lành nhất và cái đẹp nhất mà ta có thể kính ngưỡng và
tôn thờ. Giới đưa đường chỉ lối cho ta trong cuộc đời. Giới bảo hộ ta,
giữ gìn cho ta để ta không sa vào hầm hố của tà kiến và tà hạnh. Giới
bảo vệ gia đình ta, xã hội ta, củng cố được nền tảng hạnh phúc của gia
đình và xã hội ta. Vì vậy Giới là đối tượng của niềm tin ta. Đức tin
đây không phải là một đức tin mù quáng. Thực tập Giới, ta phải học hỏi
về bản chất của Giới, hình tướng của Giới và công dụng của Giới. Nhờ
học hỏi và hành trì Giới mà càng ngày ta càng có kinh nghiệm và hiểu
biết sâu sắc về Giới. Đây là một niềm tin có kiểm chứng chứ không phải
một niềm tin vu vơ.
Nhờ học hỏi và thực tập năm Giới pháp mà ta thấy rằng năm Giới cần
thiết cho ta, cho gia đình ta và cho xã hội ta như ánh sáng mặt trời cần
thiết cho các loài thảo mộc, như dưỡng khí cần thiết cho sự hô hấp của
con người. Năm Giới đã được chế tác từ kinh nghiệm của Bụt và kinh
nghiệm hành trì của nhiều thế hệ Phật tử. Nhờ sống có chánh niệm, có
tỉnh thức, nhờ kinh nghiệm khổ đau mà ta thấy được rằng nếu không thực
hành theo năm Giới thì ta sẽ đi vào con đường khổ đau và sa đọa, gia
đình và xã hội ta cũng sẽ đi vào con đường khổ đau và sa đọa. Cho nên
năm Giới vừa là nghệ thuật sống của chúng ta mà cũng là niềm tin của
chúng ta.
Bụt dạy nếu biết thực tập năm Giới pháp thì ta sẽ đạt tới khả năng an trú hạnh phúc trong hiện tại. Vậy năm Giới là gì?
1. Thứ nhất là Giới không giết hại.
"Vị đệ tử áo trắng xa lìa sự giết hại, chấm dứt sự giết
hại, buông bỏ khí Giới, biết hổ thẹn, tập từ, tập bi, bảo hộ cho mọi
loài sinh vật, kể cả các loài côn trùng. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm
giết hại."
Giới thứ nhất biểu lộ lý tưởng bảo vệ sự sống của người Phật tử. Sự
sống ở đây không phải là chỉ là sự sống của con người mà là sự sống của
mọi loài, trong đó có các loài động vật và thực vật, kể cả các loài nhỏ
bé nhất. Sự thực tập ở đây không phải chỉ được Giới hạn trong phạm vi
hình thức. Lời Bụt dạy rất rõ ràng: "Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm giếi
hại." Chúng ta thấy rằng Giới không giết hại ở đây trước hết là một tâm
Giới. Ta có thể bảo hộ sinh mạng bằng thân thể và bằng lời nói nhưng sự
hành trì Giới này trước hết là sự hành trì bằng tâm niệm. Muốn diệt
trừ tận gốc tâm niệm giết hại, ta cần thực tập bốn niệm hổ, thẹn, từ và
bi. Hổ là tự mình biết xấu hổ (Tiếng Hán Việt là Tàm, tiếng Phạn là
hri) khi xâm phạm tới đời sống của một sinh vật khác, hoặc khi thấy
mình không bảo vệ được cho sự sống của một sinh vật khác. Thẹn là mắc
cỡ khi so sánh với người (tiếng Hán Việt là Quý, tiếng Phạn là
apatrapa), khi thấy kẻ kia hành trì và bảo vệ được sự sống trong khi
mình không làm được như họ. Từ (tiếng Phạn là maitri) là hiến tặng niềm
vui cho kẻ khác, mà niềm vui căn bản là được sống an lành, không bị đe
dọa đến tính mạng. Bi (tiếng Phạn là Karuna) là làm vơi đi nỗi khổ đau
của người, mà nỗi khổ đau căn bản là sống trong lo sợ phập phồng không
biết tính mạng của mình có được bảo đảm hay không. Bốn tâm niệm này là
bốn tâm lớn của một vị bồ tát. Hành trì bốn tâm niệm này thì tự khắc
ta diệt trừ được tận gốc tâm niệm giết hại, và kết quả là ta sẽ quyết
tâm bảo hộ cho mọi loài, buông bỏ mọi thứ khí Giới và xa lìa mọi hình
thức giết hại.
Tiếp nhận và hành trì Giới này, người Phật tử sẽ làm phát sinh được
rất nhiều năng lượng trong bản thân để có thể độ người và giúp đời. Năng
lượng ấy pháp sinh từ các tâm niệm hổ, thẹn, từ và bi.
Sự sống không có tính cách cục bộ. Sự sống của người này liên quan
tới sự sống của người khác. Sự sống của loài này có liên quan tới sự
sống của loài khác. Sự sống của con người có liên hệ tới sự sống của mọi
loài động vật, thực vật và khoáng vật. Chúng ta đã biết rằng bảo vệ
thiên nhiên cũng là bảo vệ con người. Bảo vệ sự sống, ta phải bảo vệ cả
đất, nước, không khí, rừng núi, sông hồ và biển cả. Ta phải bảo vệ sinh
môi, ta phải bảo vệ cả trái đất. Bụt dạy ta quán nhân duyên để thấy
được rằng cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không, caí
này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt. Nhờ vào cái
thấy đó, ta mới có thể bảo vệ sự sống một cách thông minh. Các loài mà
ta gọi là hữu tình sẽ không thể nào tồn tại được nếu ta làm ô nhiễm các
loài mà ta gọi là vô tình. Kinh Kim Cuơng nói đến chúng sinh tướng như
một ý niệm không được chính xác về thực tại. Chúng sinh tức là loài
hữu tình. Loài hữu tình không thể tồn tại nếu không có các loài vô
tình. Không thể có các loài hữu tình ngoài các loài vô tình. Theo cái
thấy của Kinh Kim Cương, ranh Giới giữa loài hữu tình và loài vô tình
là ranh Giới do ý niệm phân biệt vạch ra, không phù hợp với thực tại.
Nếu
sống biết quán sát và biết suy xét, ta không thể nào không hành trì
Giới thứ nhất. Chỉ khi ta hành trì Giới thứ nhất thì trái đất và muôn
loài mới có được một tương lai, và an lạc của mọi loài mới có thể trở
thành một sự thật.
2. Thứ hai là Giới không xâm phạm vào tư hữu của kẻ khác:
"Vị đệ tử áo trắng xa lìa sự không cho mà lấy, chấm dứt
sự không cho mà lấy, thường ưa bố thí, tìm niềm vui trong sự bố thí và
bố thí mà không cầu đền đáp. Vị này không bị tâm trạng tham lam che lấp,
luôn luôn bảo hộ sự liêm khiết của mình và diệt trừ tận gốc sự không
cho mà lấy."
Giới này biểu lộ lý tưởng liêm khiết và ý nguyện thực hiện công bình
xã hội của người Phật tử. Cũng như Giới thứ nhất, Giới này lấy tâm làm
gốc. Căn bản của sự hành trì là diệt trừ tận gốc sự không cho mà lấy,
nghĩa là sự diệt trừ tâm trạng tham lam, không để cho tâm trạng này phát
sinh và che lấp trí tuệ mình và cuối cùng chuyển hóa hạt giống của tâm
trạng ấy trong chiều sâu tâm thức.
Nguyên tắc và phương pháp hành
trì của Giới này là lý tưởng công bình xã hội. Bụt dạy người Phật tử
hành trì phép bố thí, nghĩa là phép thứ nhất của sáu phép Ba La Mật
(tiếng Hán Việt là lục Ba La Mật, tiếng Phạn là paramita.) Ba La Mật có
nghĩa là có công năng đưa sang bờ bên kia, tức là bờ an lạc và giải
thoát khổ đau. Vị đệ tử áo trắng thường ưa bố thí, tìm niềm vui trong sự
bố thí và bố thí mà không cầu đền đáp. Tinh thần vô tướng và đại thừa
được tiềm ẩn trong câu nói này. Bố thí ở đây là hiến tặng niềm vui cho
kẻ khác, và sự thực tập này không có tính cách hình thức, không có tính
cách khoe khoang, bởi vì sự thực tập này bất nguồn từ tâm niệm từ bi.
Từ bi là nguồn lăng lượng làm động lực cho hành động bố thí. Người hành
trì như vậy đã có chất liệu bồ tát trong tự thân. Cũng như trong sự
hành trì Giới thứ nhất là bảo vệ sự sống, trong sự hành trì Giới thứ
hai là bố thí, động lực của sự hành trì là niềm vui, niềm vui được phục
vụ lý tưởng mình. Đó là ý nghĩa của câu tìm niềm vui trong sự bố thí
và bố thí mà không cầu đền đáp.
Cố nhiên Giới là trong sự hành trì Giới thứ hai này, đối tượng của sự
hành trì không phải chỉ là con người mà còn là các loài sinh vật khác,
trong đó có cả các loài thảo mộc và đất đá. Đối tượng của sự hành trì
không phải chỉ là công bình trong xã hội loài người mà còn là sự an vui
của tất cả mọi loài trên trái đất.
3. Thứ ba là không tà dâm:
"Vị đệ tử áo trắng xa lìa tà dâm, chấm dứt sự tà dâm, bảo
vệ cho bất cứ ai, dù người ấy nằm trong sự bảo hộ của cha, mẹ, hoặc cả
cha lẫn mẹ, hoặc chị em, hoặc anh em, hoặc cha mẹ bên sui gia, hoặc
gia đình sui gia, hoặc bởi người đồng tính, hoặc là vợ con hay chồng
con kẻ khác, kể cả kẻ bị cuồng dâm khủng bố, hoặc kẻ bán phấn buôn
hương. Vị này diệt trừ tận gốc tâm niệm tà dâm.
Giới này nhằm bảo vệ tiết hạnh của cá nhân, đời sống lứa đôi và nền
tảng gia đình. Cũng như trong hai Giới đầu, Giới này trước hết là một
tâm Giới, đó là sự hành trì để diệt trừ tận gốc tâm niệm tà dâm. Sự hành
trì này không còn là một sự cố gắng mệt nhọc khi lý tưởng bảo vệ hạnh
phúc cho kẻ khác đã phát sinh trong lòng người hành trì. Biết bao thảm
kich đã xảy ra vì hành động tà dâm, vì nếp sống thiếu trách nhiệm. Biết
bao gia đình đã ly tán vì nạn tà dâm và biết bao trẻ em đã là nạn nhân
trực tiếp của sự lợi dụng và cưỡng bức của những người lớn không có
tinh thần trách nhiệm. Nếu ta thực sự nghĩ tới hạnh phúc và tương lai
của kẻ khác, nếu ta muốn bảo vệ cho họ, ý niệm tà dâm sẽ không phát
sinh và làm mờ ám tâm ta. Đó là bản chất của Giới này.
4. Thứ tư là Giới không nói dối:
"Vị đệ tử áo trắng xa lìa nói dối, chấm dứt sự nói dối,
chỉ nói sự thật, tìm niềm vui trong sự nói lên sự thật, an trú nơi sự
thật không lúc nào đổi dời, có thể được tin cậy hòn toàn và không bao
giờ dám miệt thị kẻ khác. Vị ấy diệt trừ tận gốc sự nói dối."
Diệt trừ tận gốc sự nói dối theo định nghĩa của Kinh văn là phát tâm
an trú nơi sự thật không lúc nào đổi dời. Một người an trú vững chãi
nơi sự thật bao giờ cũng được kẻ khác tin cậy và vì vậy có thể thực
hiện được vìệc độ sinh một cách lớn lao. Người hành trì Giới này không
những xa lìa sự nói dối, chấm dứt sự nói dối, chỉ nói sự thật, mà còn
tìm niềm vui nơi sự nói lên sự thật. Sự thật là đối tượng của một niềm
tin sáng suốt và vững chãi. Sự thật là chánh pháp, là ánh sáng soi
đường, vì vậy người hành trì Giới này không những an trú và hành trì sự
thật mà còn tìm cách tuyên dương sự thật nữa. Tuy nhiên, người hành
trì Giới này không phải là người tự hào và tự thị. Người ấy không cho
mình là kẻ duy nhất nắm được chân lý và vì vậy biết lắng nghe kẻ khác
với một tâm niệm khát khao học hỏi và luôn luôn có thái độ khiêm cung.
Vì vậy Kinh nói rằng người ấy không bao giờ dám miệt thị kẻ khác.
Lời nói có thể đem lại hạnh phúc và niềm tin cho kẻ khác mà cũng có
thể gây khổ đau và đổ vỡ chung quanh. Người thực tập Giới này có thể
tránh được sự gây khổ đau và đổ vỡ và đồng thời có thể tạo dựng niềm tin
và ban phát rất nhiều hạnh phúc cho nhiều người. Không những người ấy
biết nói lời xây dựng mà cũng biết lắng nghe. Lắng nghe để làm vơi bớt
nỗi khổ của người. Nói và nghe là hai phép thực tập quan trọng liên hệ
tới Giới thứ tư.
5. Thứ năm là Giới không sử dụng các chất ma túy trong đó có rượu :
"Vị đệ tử áo trắng xa lìa rượu, chấm dứt sự uống rượu, diệt trừ tận gốc thói quen uống rượu."
Rượu tàn phá thân thể, tâm hồn, làm tan vỡ gia đình và gây thương
tích trong lòng những người trẻ sinh ra và lớn lên trong những gia đình
có người nghiện ngập. Vào thời Bụt, rượu là chất ma túy căn bản. Vào
thời đại chúng ta còn có nhiều thứ ma túy khác mà khả năng phá hoặi cũng
rất lớn lao. Ta phải phát tâm diệt trừ tận gốc thói quen sử dụng ma
túy.
Rượu và các chất ma túy đã làm tan nát rất nhiều gia đình, gây ra xáo
trộn trong tâm hồn nhiều thế hệ vằ tạo ra nhiều hỗn độn trong xã hội.
Thực tập Giới thứ năm, người hành giả bảo vệ cho mình, cho gia đình
mình và dấn thân vào xã hội để giúp những kẻ khác vượt khỏi vòng nghiện
ngập. Hiện thời Giới thanh niên vướng vào vòng ma túy rất đông đảo, và
quốc gia nào cũng đang cố gắng chận đứng sự lưu hành của các chất ma
túy. Tuy nhiên, nguồn gốc của sự nghiện ngập là ở lòng người. Khi con
người sống không lý tưởng, khi con người cảm thấy bị ruồng bỏ bởi gia
đình và xã hội, con người thường đi tìm những lãng quên trong các chất
ma túy. Vì vậy chận đứng sự lưu hành ma túy không phải là giải pháp căn
bản để bài trừ nạn ma túy. Giải pháp căn bản là tạo lại niềm tin, xây
dựng lại cơ sở gia đình, giúp con người tìm lại được gốc rễ tâm linh và
văn hóa. Và vì vậy cho nên trong Kinh Người Áo Trắng, Bụt dạy về sự
thực tập bốn tâm cao đẹp như là sự vun trồng một niềm tin làm ánh sáng
chỉ đạo cho cuộc đời.
Bốn tâm cao đẹp
Bụt dạy: "Nếu các vị đệ tử áo trắng mà biết hộ trì năm Giới pháp và
tu tập bốn tâm cao đẹp thì họ có thể đạt tới rất dễ dàng và không khó
khăn gì khả năng an trú hạnh phúc trong hiện tại."
Bốn tâm cao đẹp còn được gọi là bốn tăng thượng tâm. Nguyên chữ trong
Kinh văn Pali là abhicetasika. Tăng thượng có nghĩa là có khả năng
phát triển và đi lên. Bốn tăng thượng tâm hoặc bốn tâm cao đẹp này là
bốn pháp quán niệm gọi là tùy quán(anusmrti) : quán niệm về Bụt, quán
niệm về Pháp, quán niệm về Tăng và quán niệm về Giới. Những phép quán
niệm này làm lớn lên niềm tin của hành giả, đem tới cho hành giả sự an
tĩnh của tâm tư, đem lại cho hành giả hạnh phúc ngay trong giờ phút
hiện tại và một nguồn năng lực để hành đạo và phụng sự lý tưởng.
1. Phép quán niệm thứ nhất là niệm Bụt (Buddhanusmrti):
"Trước
hết, vị đệ tử áo trắng thực tập quán niệm về Như lai. Vị ấy quán niệm
như sau: Như lai là bậc giác ngộ chân chính không còn dính mắc, là bậc
Minh hạnh túc, là bậc Thiện thệ, là bậc Thế gian giải, là bậc Vô thượng
sĩ, là bậc Điều Ngự Trượng Phu, là bậc Thiên NhânSư, là Bụt, là Thế
tôn. Quán niệm về Như lai như thế thì những dục vọng xấu xa đều được
tiêu diệt, trong tâm người quán niệm không còn những yếu tố bất thiện,
uế nhiễm, sầu khổ và lo âu.
Nhờ tưởng niệm tới Như lai mà tâm tư
người ấy lắng trong, có được niềm vui, và người ấy đạt tới tâm cao đẹp
thứ nhất, an trú hạnh phúc trong hiện tại một cách dễ dàng, không khó
khăn gì."
Như lai là một trong những danh hiệu của Bụt. Tiếng Phạn là
tathagata, có nghĩa là từ sự thật mà tới, hoặc từ chân như mà tới. Chân
như (tathata) là thực tại nhiệm mầu không thể diển tả bằng ngôn ngữ và
khái niệm. Như lai là bậc giác ngộ chân chính không còn dính mắc. Giác
ngộ có nghĩa là tỉnh thức và hiểu biết. Từ ngữ Chánh Biến Tri (samyak
sambuddha) là một trong mười danh hiệu của Bụt có nghĩa là kẻ đã đạt tới
trình độ giác ngộ rộng lớn và chân chính, không còn dính mắc. Bụt là
người có trình độ tỉnh thức và hiểu biết cao nhất và vì vậy cho nên đã
đạt tới tự do và giải thoát. Giải thoát là không còn bị ràng buộc hoặc
dính mắc vào những khổ lụy của chúng sinh: đó là tham ái, giận dữ, hận
thù, si mê, kiêu mạn, nghi ngờ, ghen ghét và bao nhiêu sợi dây ràng buộc
khác. Bụt là một người sống thảnh thơi, an lạc, không còn vướng mắc.
Đó là mẫu mực của tất cả chúng ta, hình ảnh lý tưởng của một con người
mà ta hướng tới. Như lai là bậc Minh Hạnh Túc. Minh Hạnh Túc
(vidya-carana-sampanna) có nghĩa là nhận thức cũng như hành động đã đạt
tới mức sáng suốt cao tột. Ba đặc tính của Minh Hạnh Túc là cái nhìn
quán triệt về không gian (thiên nhãn minh), cái nhìn quán triệt về thời
gian (túc mệnh minh) và cái thấy làm rơi rụng tất cả những sợi dây ràng
buộc (lậu tận minh.) Như lai là bậc Thiện Thệ. Thiện thệ (sugata) là
đã khéo vượt được sinh tử, đã bước qua được bờ giải thoát một cách
tuyệt vời. Như lai là bậc Thế Gian Giải. Thế gian giải (lokavid) là
hiểu thấu được tâm trạng và bản chất của mọi chúng sinh, của các loài
hữu tình và vô tình. Trong đạo Bụt, ta học được sự thật về thương yêu:
Nếu không hiểu thì không thể thương. Trí tuệ đưa đến từ bi. Vì Bụt là
người hiểu thấu được tâm sự thế gian cho nên Bụt là người thương đích
thực của thế gian. Như lai là bậc Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu. Vô
thượng sĩ (anuttara) là kẻ đã đạt tới nhân phẩm cao nhất có thể đạt
được. Điều ngự trượg phu (purusa-damya-sarathi) là bậc có khả năng
chinh phục, điều động, chế ngự và rèn luyện được con người, kể cả những
con người khó điều phục. Hình ảnh ở đây là hình ảnh một người đánh xe
thiện nghệ (sarathi), biết được tính khí của con ngựa và điều phục được
con ngựa một cách tuyệt vời. Như Lai là bậc Thiên Nhân Sư. Thiên nhân
sư (Sasta-deva-manusyanam) là bậc thầy của cả loài người và loài trời.
Loài trời là một loài mà nếp sống có nhiều phước báo tốt hơn loài
người, ta thường gọi là chư thiên. Như Lai là Bụt. Bụt (Buddha) là bậc
tỉnh thức. Từ ngữ buddha phát sinh từ động từ budh có nghĩa là tỉnh
dậy, là hiểu biết. Buddha là người đã tỉnh dậy, đã hiểu biết. Từ thế kỷ
đầu của Tây lịch cho đến thế kỷ thứ mười bốn, người Việt ta thường gọi
Buddha là Bụt; chỉ sau khi nước nhà bị quân Minh xâm chiếm, ta mới bắt
đầu gọi Bụt là Phật, ảnh hưởng lới phát âm của người Minh. Như Lai là
Thế Tôn. Thế tôn (Bhagavat) là bậc tôn quý trong đời, tôn quý vì nhân
phẩm, tính thương và sự hiểu biết của Ngài.
Tụng bản chữ Hán bỏ sót một danh hiệu, đó là danh hiệu Ứng Cúng. Ứng
cúng (arhat) là bậc xứng đáng được tôn trọng và cúng dường, bậc đã phá
trừ được phiền não. Quán niệm về Bụt ta có thể sử dụng mười danh hiệu
kể trên để có thể thấy được bản chất của một bậc giác ngộ, mẫu mực của
con người thảnh thơi và an lạc mà ta muốn nương tựa và hướng tới.
Bụt không phải là tên gọi của một cá nhân. Bụt Thích Ca Mâu Ni chỉ là
một trong số những con người đã thành tựu được quả vị tỉnh thức cao
nhất. Bụt Thích Ca đã nói tới những vị Bụt xuất hiện trước Ngài, như các
Bụt Tỳ Bà Thi, Thi Khí, Tỳ Xá Phù, Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm Mâu Ni và
Ca Diếp. Bụt Thích Ca cũng nói tới những vị Bụt tương lai như Bụt Di
Lặc. Bản chất của một vị Bụt là sự tỉnh thức. Tỉnh thức đưa tới khả
năng hiểu biết, khả năng thương yêu và một nhân phẩm cao đẹp. Mà khả
năng tỉnh thức ấy tất cả chúng ta đều có, gọi là Phật tánh, hoặc chánh
niệm. Đặt niềm tin nơi Bụt tức là đặt niềm tin nơi Phật tánh, tức là
nơi khả năng tỉnh thức, giác ngộ và thương yêu nơi chính con người. Đối
tượng của niềm tin ở đây không phải là một cái gì trừu tượng mà là một
cái gì cụ thể mà ta có thể tiếp xúc, thực tập, vun bón và thực hiện.
Mỗi ngày thực tập nếp sống chánh niệm là một ngày ta làm cho chánh niệm
lớn lên trong ta. Chánh niệm coi sáng, đem lại niềm vui, và chuyển hóa
khổ đau. Niềm tin ở đây không phải là niềm tin suông mà là một công
trình thực tập. Có niềm tin ấy trong lòng tức là có một nguồn năng
lượng lớn, gọi là bồ đề tâm. Bồ Đề Tâm (bodhicitta) là năng lượng hướng
dẫn chúng ta trong cuộc sống, hướng ta đi về nẻo thiện, soi sáng cho
chúng ta, không để cho chúng ta sa vào những hầm hố của sai lầm và tội
lỗi. Có bồ đề tâm là có niềm tin vào một cái gì thật nhất, lành nhất và
đẹp nhất mà ta có thể hướng tới. Cuộc đời của ta nhờ vậy mà trở nên có
ý nghĩa và ta sẽ thấy sức sống tràn đầy trong ta. Sức sống ấy sẽ giúp
ta hành động để đem lại niềm vui cho mọi loài. Cũng vì lý do ấy mà đạo
Bụt đại thừa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hành động phát tâm Bồ Đề.
Trên đây là những lợi lạc được phát sinh nhờ công phu quán niệm về
Bụt. Kinh dạy: "Quán niệm về Như Lai như thế thì những dục vọng xấu xa
đều được tiêu diệt, trong tâm người quán niệm không còn những yếu tố bất
thiện, uế nhiễm, sầu khổ và lo âu." Kinh lại nói thêm: "Nhờ tưởng niệm
tới Như Lai mà tâm tư người ấy lắng trong, có được niềm vui và ngườì
ấy đạt được tâm cao đẹp thứ nhất, an trú hạnh phúc trong hiện tại một
cách dễ dàng, không khó khăn gì."
Đọc câu Kinh trên, ta thấy pháp môn quán niệm về Bụt (gọi tắt là niệm
Bụt) không phải là một pháp môn đòi hỏi nhiều lao nhọc. Sở dĩ như thế
vì phép quán niệm này được chuyên chở bởi niềm tin. Theo đạo Bụt, niềm
tin là mẹ đẻ ra mọi công trình thực hiện (Tín vi đạo nguyên công đức
mẫu.) Trong năm nguồn sinh lực mà đạo Bụt giảng dạy, nguồn sinh lực đầu
là niềm tin (Tín), rồi mới tới nguồn sinh lực thứ hai là sự chuyên cần
dũng tiến (Tấn), và sau đó mới tới chánh niệm (Niệm), khả năng thiền
định (Định) và trí tuệ (Tuệ.) Đó là giáo lý ngũ lực (panca balani.)
Thiếu niềm tin thì sẽ không có ý chí, năng lượng chuyên cần và dũng
tiến.
Niệm Bụt là một pháp môn hành trì đem lại nhiều lợi lạc. Nhờ niệm Bụt
mà ta có niềm tin vững vàng hơn nơi Bụt và chính ta, tại vì trong tự
thân ta đã sẵn có giác tính, nghĩa là khả năng giác ngộ. Niệm Bụt ta có
sự an ổn, ta cảm thấy được che chở, bởi vì chánh niệm trong ta chính là
bản thân của Bụt có khả năng che chở và soi sáng cho ta. Niệm Bụt đem
tới niềm vui và hóa giải những niềm đau. Trong giờ phút lâm chung, nhờ
thực tập niệm Bụt dưới sự hướng dẫn của thầy Xá Lợi Phất nên cư sĩ Cấp
Cô Độc cảm thấy an ổn và những đau nhức trong cơ thể giảm xuống rất
nhiều. Đây là điều ta đọc thấy trong Kinh Giáo Hóa Người Bệnh (Tăng Nhất
A Hàm, phẩm 51, Kinh số 8.) Niệm Bụt lại còn có công năng khai mở
nguồn tuệ giác sâu kín trong mỗi chúng ta, nguồn tuệ giác mà ta quen
gọi là Phật tính. Chúng ta thường nói "Bụt là lòng."
Trong truyền thống còn có nhiều cách thức niệm Bụt như trì danh và
quán tưởng. Trì danh là trì niệm danh hiệu của Bụt, ví dụ "Nam mô Bụt
Thích Ca Mâu Ni" hay "Nam Mô Bụt A Di Đà." Quán tưởng là hình dung Bụt
với những hình tướng trang nghiêm, ngồi dưới gốc cây Bồ đề hay trên pháp
tọa. Nhưng dù trì danh hay quán tưởng, ta cũng phải nhớ rằng chánh
niệm là Bụt; danh hiệu và hình tướng phải chuyên chở chất liệu chánh
niệm chứ không thể là danh hiệu và hình tướng suông. Đọc sách nói về
cuộc đời của Bụt cũng là một cách niệm Bụt rất công hiệu. Trong khi đọc
hay nghe về cuộc đời của Bụt, ta thấy được rõ ràng cuộc sống của Bụt,
công hạnh của Bụt, cách xử thế của Bụt, trí tuệ của Bụt và tình thương
của Bụt. Trong suốt thời gian ấy những hạt giống về Bụt trong tâm thức
ta được tưới tẩm và lớn lên. Vì vậy ta nên đọc nhiều lần, nói nhiều lần
và nghe nhiều lần về cuộc đời của Bụt. Bụt là nơi nương tựa của ta nên
hàng ngày ta đọc: "Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho
con trong cuộc đời."
Trong Kinh Người Áo Trắng ta thấy một từ ngữ quan trọng là an trú
hạnh phúc trong hiện tại. Trong tụng bản chữ Hán, từ ngữ này là hiện
pháp lạc cư. Ở các Kinh điển khác, có khi dịch là hiện pháp lạc trú.
Trong tụng bản Pali, ta có từ ngữ ditthadhammasukhavihara. Đây là một từ
ngữ quan trọng. Tu tập không phải là chỉ đầu tư cho tương lai bằng
cách hy sinh hiện tại: tu học là sống an lạc thảnh thơi trong hiện tại
đúng theo chánh pháp để rồi trong tương lai cũng có an lạc và thảnh
thơi. Người thực tập năm Giới pháp và bốn tâm cao đẹp có khả năng có
hạnh phúc ngay trong hiện tại mà không phải chờ đến tương lai, đó là ý
nghĩa của câu Kinh này. Đó là ý nghĩa của từ ngữ hiện pháp lạc trú.
Hạnh phúc không phải là chuyện mơ tưởng viễn vông và xa vời; hạnh phúc
có thể đạt được một cách dễ dàng bằng cách thực tập năm Giới pháp và
bốn tâm cao đẹp. Đó là ý chính của Kinh Người Áo Trắng.
2. Phép quán niệm thứ hai là niệm Pháp (Dharmanusmrti):
"Xá Lợi Phất, vị đệ tử áo trắng thực tập quán niệm về Pháp. Vị ấy
quán niệm như sau: Giáo pháp được đức Thế tôn giẳng dạy là giáo pháp
diễn bày khéo léo, có khả năng đưa tới giải thoát hoàn toàn, đưa tới
trạng thái không phiền não, không nóng bức, có tính cách thường tại và
không dời đổi. Quán niệm và giác tri như thế về Pháp thì những dục vọng
xấu xa đều được tiêu diệt, trong tâm người quán niệm không còn những
yếu tố bất thiện, uế nhiễm, sầu khổ và lo âu.
Nhờ tưởng niệm tới
Pháp mà tâm tư người ấy lắng trong, có được niềm vui và đạt tới tâm cao
đẹp thứ hai, an trú hạnh phúc trong hiện tại một cách dễ dàng, không
khó khăn gì."
Pháp (Dharma) là những điều Bụt dạy, là những phương pháp thực tập để
đạt tới sự tỉnh thức, an lạc, hiểu biết và thương yêu, là con đường
đưa tới giải thoát. Tin tưởng ở Bụt tức là đã tin tưởng ở Pháp. Ta quán
niệm về Pháp như sau: Giáo pháp được đức Thế tôn giảng dạy là giáo
pháp đã được diễn bày một cách khéo léo. Diễn bày một cách khéo léo
cũng có nghĩa là diễn bày một cách đẹp đẽ. Danh từ Hán việt là thiện
thuyết. Dịch từ Pali là (svakhata.) Bụt là bậc Thế Gian Giải, nghĩa là
người hiểu thấu được tâm niệm của mọi loài trong thế gian, cho nên đã
diễn bày những giáo nghĩa thích hợp với mọi trình độ và căn cơ khiến
cho mọi người đều có thể tiếp nhận và thực tập. Giáo lý ấy được nhìn
nhận là đẹp đẽ, đẹp đẽ ngay khi mới được mở đầu, đẹp đẽ khi được tiếp
diễn và đẹp đẽ khi kết thúc (sơ thiện, trung thiện, hậu thiện.) Giáo
pháp được đức Thế tôn giảng dạy có khả năng đưa tới giải thoát hoàn
toàn, đưa tới trạng thái không nóng bức. Giáo lý này không những có khả
năng làm dịu bớt khổ đau, chuyển hóa khổ đau mà còn có khả năng đưa
tới Niết Bàn. Kinh điển thường diễn tả Niết Bàn như trạng thái không
nóng bức. Trạng thái không nóng bức tức là trạng thái trong ấy mọi
phiền não đều được chuyển hóa. Đó là một trạng thái mát mẻ, trạng thái
của sự giải thoát hoàn toàn.
Giáo lý này có tính cách thường tại và không dời đổi. Giá trị của
giáo lý này vượt khỏi khuôn khổ thời gian và không gian, bởi vì bản chất
của nó là những nguyên tắc linh động hướng dẫn thực tập mà không phải
là những mệnh lệnh hay những giáo điều cứng nhắc. Giáp lý này không
phải chỉ là những giáo điều chỉ thích hợp với một thời và một xứ. Tiếng
Phạn akalika có nghĩa là không có tính cách nhất thời, không có tính
cách thời gian, vượt khỏi thời gian. Trong tụng bản Pali, ta đọc thêm:
"giáo lý ấy có thể thấy được ngay bây giờ và ở đây, có tác dụng hướng
thượng, có thể tới để chiêm nghỉệm trực tiếp, người có trí tuệ nhận xét
có thể tự mình nghe và hiểu được." Có thể thấy được ngay bây giờ và ở
đây (samditthika) nghĩa là mình có thể trực tiếp tiếp xúc với nội dung
và giá trị của giáo lý ấy. Có tác dụng hướng thượng (opanayika) nghĩa
là có khả năng đưa ta trở về tâm linh và đạt tới giải thoát. Có thể tới
để chiêm nghiệm trực tiếp (ehipassika) có nghĩa là không cần một trung
gian. Người có trí tuệ nhận xét có thể tự mình nghe mà hiểu được
(paccatam veditabbo vinnuhiti) có nghĩa là có thể dùng nhận thức và trí
tuệ của mình để chứng nghiệm và hiểu được giáo lý mà không cần đi qua
một giáo quyền nào cả.
Niệm Pháp cũng quan trọng như niệm Bụt, vì lý do Pháp là con đường
thực hiện sự chứng ngộ thành Bụt. Pháp là bản chất của Bụt. Vì vậy có
những tông phái chuyên niệm Pháp. Tông Nhật Liên ở Nhật Bản chẳng hạn,
chuyên trì niệm câu "Nam Mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh." Cung
kính, học hỏi và hành trì Pháp cũng có hiệu quả tương đương với niệm
Bụt.
Hàng ngày nếu ta hết lòng học hỏi và đọc tụng Kinh, luật và luận với
chủ đích tu tập thì đó là ta đã niệm Pháp. Trong khi học hỏi, ta tưới
tẩm những hạt giống về Pháp trong tâm thức ta và giúp cho những hạt
giống ấy lớn lên. Đời sống của ta sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt và
tuệ giác ta sẽ phát triển. Khi những hạt giống tốt được tưới tẩm và
trưởng thành, những hạt giống xấu sẽ từ từ chuyển hóa. Vì vậy Kinh nói:
"Quán niệm và giác tri như thế về Pháp thì những dục vọng xấu xa đều
được tiêu diệt, trong tâm người quán niệm không còn những yếu tố bất
thiện, uế,nhiễm, sầu khổ và lo âu". Pháp là nơi nương tựa của ta nên
hàng ngày ta đọc: "Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và
sự hiểu biết." Tình thương là từ bi, và hiểu biết là tuệ giác. Hai thứ
ấy là tinh hoa của đạo Bụt, là chất liệu đạt được nhờ sự thực tập, chứ
không phải chỉ là những ý niệm đạt được do sự học hỏi.
3. Pháp quán niệm thứ ba là niệm Tăng (sanghănhsmrti):
"Xá Lợi Phất, vị đệ tử áo trắng thực tập quán niệm về Tăng. Vị
ấy quán niệm như sau: Thánh chúng của Như lai đang đi về nẻo thiện, đang
đi trên đường chánh, đang hướng theo giáo pháp, đang thực tập theo
giáo pháp và sống đúng tinh thần giáo pháp. Trong thánh chúng ấy có các
bậc A la hán đã thành và đang thành, các bậc A na hàm đã thành và đang
thành, các bậc Tư đà hàm đã thành và đang thành, các bậc Tu đà hoàn đã
thành và đang thành, tức là có đủ cả bốn đôi và tám bậc. Thánh chúng
của Như lai đã thành tựu được Giới, được tam muội, được bát nhã, được
giải thoát, được tri kiến giải thoát; thánh chúng này đáng được tôn
kính, đáng được quý trọng, đáng được phụng sự, đáng được cúng dường, và
đó là ruộng phước tốt đẹp cho cuộc đời.
Nhờ tưởng niệm tới Tăng mà tâm tư người quán niệm lắng trong, có được
niềm vui và người ấy đạt tới tâm cao đẹp thứ ba, an trú hạnh phúc
trong hiện tại một cách dễ dàng, không khó khăn gì."
Tăng là đoàn thể của những người thực tập theo Pháp dưới sự hướng dẫn
của Bụt, biết sống theo nếp sống hòa hợp và thỉnh thức. Tăng là từ chữ
sangha (tăng già) mà ra, có nghĩa là cộng đồng hay đoàn thể, thường
dịch là Chúng hay Đại Chúng. Tăng không phải là để chỉ riêng người xuất
gia, mà cũng để chỉ cho người cư sĩ áo trắng đang hành trì năm Giới
pháp và bốn tâm cao đẹp.
Tăng gồm có bốn chúng gọi là tứ chúng: chúng xuất gia bên nam, chúng
xuất gia bên nữ, chúng tại gia bên nam, chúng tại gia bên nữ. Người
xuất gia tu học tinh chuyên thì đạt tới quả vị giải thoát, người tại
gia tu học tinh chuyên cũng đạt tới quả vị giải thoát.
Thánh chúng của Như lai đang đi về nẻo thiện. Thánh chúng là một đoàn
thể tu học phản ảnh được trong sự sống của mình sự có mặt của Bụt và
của Pháp. Đây đích thực là một tăng thân, vì chất liệu giác ngộ (của
Phật thân) và chất liệu giải thoát (của pháp thân) đã tạo ra chất liệu
thánh thiện của tăng thân. Đang đi về nẻo thiện (supatipanna) là đang tu
học đúng theo đường hướng giải thoát và giác ngộ (thiện hành.) Thánh
chúng của Như lai đang đi trên đường chánh. Đang đi trên đường chánh
(ujupatipanna) nghĩa là không đi lạc vào nẻo tà mà mục đích phải là đạt
tới từ bi và trí tuệ (trực hành.) Thánh chúng của Như lai đang hướng
theo giáp pháp và thực tập giáo pháp. Thực tập theo giáo pháp
(nayapatipanna) là phù hợp với những nguyên lý của Phật pháp (ứng lý
hành.) Thánh chúng của Như lai đang sống đúng theo tinh thần của giáo
pháp. Sống đúng theo tinh thần của giáp pháp (samicipatipanna) có nghĩa
là giáo pháp không những được diễn bày bằng ngôn ngữ mà bằng sự sống
(chân chánh hành.) Trong thánh chúng ấy có các những bậc A La Hán đã
thành và đang thành, các bậc A na hàm đã thành và đang thành, các bậc Tư
đà hàm đã thành và đang thành, các bậc Tu đà hoàn đã thành và đang
thành. A la Hán (Arahat) là những bậc đã đạt tới nhận thức bất sinh bất
diệt và chuyển hóa mọi phiền não. A na hàm (Anagamin) có nghĩa là những
bậc không còn phải trở lại trong cảnh tù túng của cõi dục, mà chỉ cần
trở lại một lần trong cõi sắc hay cõi vô sắc trước khi thành A la hán.
Tư đà hàm (sakrdagamin) là những bậc chỉ cần trở lại một lần trong cảnh
tù túng của cõi dục trước khi thành A la hán. Tu đà hoàn (srotapanna)
là những bậc đã gia nhập dòng thánh, chỉ cần trở lại bảy lần trong cõi
dục là thành A la hán. Đây là những người thực tập vững chãi năm Giới
pháp và bốn tâm cao đẹp. Họ được gọi là những bậc Nhập Lưu. Đã thành A
la hán thì được gọi là A la hán quả, đang thành A la hán thì được gọi
là A la hán hướng, đã thành A na hàm thì được gọi là A na hàm quả, đang
thành A na hàm thì được gọi là A na hàm hướng, đã thành Tư đà hàm thì
được gọi là Tư đà hàm quả, đang thành Tư đà hàm thì được gọi là Tư đà
hàm hướng, đã thành Tu đà hoàn thì được gọi là Tu đà hoàn quả, đang
thành Tu đà hàm thì được gọi là Tu đà hàm hướng. Những bậc đã thành tựu
bốn quả và đang thành tựu bốn quả được gọi là tám bậc, chia làm bốn
đôi, ta thường gọi là tứ song bát bối (cattari purisayugani attha
purisapuggala.) Tất cả những ai đang tham dự vào sinh hoạt của tăng
đoàn để tu học đều thuộc về một trong tám bậc ấy. Thánh chúng của Như
lai đã thành tựu được Giới. Giới (sila) là nếp sống biểu hiện chánh
niệm. Giới có công năng bảo hộ ta, không cho ta đi lầm đường lạc nẻo và
giúp ta nuôi dưỡng định lực, vì vậy, Kinh nói thánh chúng của Như Lai
đã thành tựu được tam muội. Tam muội (samadi) chính là Định. Thánh
chúng của Như lai đã thành tựu được bát nhã, được giải thoát, được tri
kiến giải thoát. Bát nhã (Prajna) là cái thấy có thể đưa tới giải thoát
(vimukti), nghĩa là sự tháo bỏ mọi ràng buộc. Tri kiến giải thoát tức
là những điều ta chỉ có thể thấy và nghe khi ta đạt tới giải thoát, đó
là tính cách không sinh, không diệt, không tới, không đi, không một,
không nhiều, không thường và không đoạn của Niết bàn.
Thánh chúng này đáng được tôn kính, đáng được quý trọng, đáng được
phụng sự, đáng được cúng dường, và đó là ruộng phước tốt đẹp nhất cho
cuộc đời. Tôn kính, quý trọng, phụng sự và yểm trợ cho những đoàn thể có
tu, có học là một hành động đầu tư thông minh có thể đem lại nhiều lợi
lạc cho thế gian trong đó có bản thân và gia đình mình. Tăng thân được
xem như đám ruộng tốt, trên đó ta có thể gieo những hạt giống quý báu
nhất của ta. Ruộng phước ở đây là thứ ruộng phước tốt đẹp nhất, có
nghĩa là không có thứ ruộng phước nào so sánh kịp. Đó là nghĩa chữ vô
thượng phước điền (anuttara punnakhetta).
Tu học mà thiếu tăng thân thì khó thành tựu. Tăng thân là nguồn cảm
hứng, nguồn an ủi và chỗ nương tựa của ta. Trong cuộc đời tu học, thế
nào ta cũng có những lúc chán nản và mệt mỏi. Tăng thân sẽ cho ta nhiều
nghị lực, vì trong tăng thân luôn luôn có những phần tử tu học tinh
chuyên, có trí tuệ, có từ bi và có sự tươi mát. Ở Việt Nam, chúng ta
thường nói: "Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại.' Câu này có nghĩa
là tu học mà xa lìa tăng thân thì cũng như con cọp bỏ núi xuống đồng
bằng. Cọp mà bỏ núi xuống đồng bằng thì thế nào cũng bị con người bắt
giết. Người tu học không có tăng thân thì sẽ bỏ cuộc dễ dàng. Vì vậy cho
nên ta thực tập quay về nương tựa tăng thân. "Con về nương tựa Tăng,
đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức." Phẩm chất của
tăng thân là hòa hợp và tỉnh thức. Ta hãy nên thực tập để đưa phẩm chất
của tăng thân lên cao, đừng nên lấy cớ tăng thân thiếu phẩm chất mà
rời bỏ tăng thân. Ta hãy thực tập để biến ta thành một phần từ tốt của
tăng thân, rồi từ đó ta sẽ có thể đưa phẩm của tăng thân lên cao. Tuy
gọi là phàm tăng, nhưng tăng thân ấy đã có tính chất thánh thiện, vì
trong tăng thân thế nào cũng có những phần tử đang tu tập nghiêm chỉnh,
có Giới, có Định và có Tuệ.
Người Phật tử chân chính luôn luôn tưởng niệm tới Tăng thân và xây
dựng cho tăng thân. Xây dựng tăng thân là một công trình học hỏi và thực
tập nhiều năm tháng. Có tăng thân tốt thì sự tu học và chuyển hóa của
mọi người sẽ dễ dàng và mau chóng. Ta đừng có tin ở câu "ông tu ông
đắc, bà tu bà đắc". chúng ta phải chung sức xây dựng tăng thân.
Nhờ quán niệm về Bụt, Pháp và Tăng, ta có thể phát hiện được bản chất
chân thực của Tam Bảo trong ta. Bụt chân thật được làm bằng tỉnh thức,
tuệ giác và từ bi. Đó là Chân Phật, không phải là một vị thần linh ban
phước trừ họa. Pháp chân thật được học hỏi và thực tập theo hướng vô
thường, vô ngã và niết bàn. Đó là Chân Pháp, không phải là đường lối mê
tín. Tăng chân thật được xây dựng bằng chất liệu Giới, Định, Tuệ, có sự
cởi mở, tươi mát và hạnh phúc. Đó là Chân Tăng, không phải là những
đoàn thể gồm những thành phần mua danh bán lợi. Trong chân Tăng thế nào
cũng có dấu hiệu của Chân Phật và Chân Pháp.
4. Pháp quán niệm thứ tư là niệm Giới (Silanusmrti):
"Xá Lợi Phất, vị đệ tử áo trắng thực tập quán niệm về Giới. Vị
ấy quán niệm như sau: Giới luật này không có khuyết điểm, không bị sứt
mẻ, không bị cấu uế, không bị ô trược, có khả năng giúp ta an trú trong
lãnh thổ của Như lai. Giới luật này không có tính cách giả dối, thường
được các bậc hiền thánh khen ngợi, tiếp nhận, thực tập và hộ trì.
Nhờ tưởng niệm tới Giới mà tâm tư người ấy lắng trong, có được niềm
vui và người ấy đạt tới tâm cao đẹp thứ tư, an trú hạnh phúc trong hiện
tại một cách dễ dàng, không khó khăn gì."
Giới, như ta đã biết, là lối sống biểu lộ chánh niệm. Giới không phải
là những gì mà kẻ khác bắt buộc ta phải làm theo mà chính là vì ta tự
nguyện sống theo. Nhờ sống có chánh niệm và tỉnh thức nên ta nhận thấy
hành trì Giới luật là phương tiện hay nhất để bảo vệ ta và giúp ta
thành tựu được sự nghiệp tu học. Ví dụ: vì thấy được những khổ đau và
sợ hãi gây ra do sự giết chóc nên ta đã nguyện thọ Giới không giết hại.
Hành trì Giới này ta bảo vệ cho ta và ta cũng bảo vệ được cho mọi loài
chúng sanh và ta làm cho lòng từ bi nơi ta lớn mạnh. Giới này đã được
Bụt đề nghị và đã được nhiều thế hệ Phật tử thực tập và càng ngày càng
làm cho sáng tỏ. Giới ở đây không ohải là những kiêng cữ mê tín có tính
cách thần bí, hoang đường; Giới ở đây lấy chánh niệm, tuệ giác và từ
bi làm bản chất cho nên Giới này không có khuyết điểm, không bị sứt mẻ,
không bị cấu uế, không bị ô trược. Giới ở đây là sự hành trì thông
minh, cho nên trong Giới ta thấy có Bụt, có Pháp và có Tăng, và Giới
cũng cao đẹp và thiêng liêng như Bụt, Pháp và Tăng. Tin tường vào Giới
tức là tin tưởng ở Bụt, Pháp và Tăng bởi vì năm Giới này được làm bằng
bản chất của Tam Bảo.
Giới này có khả năng giúp ta an trú trong lãnh thổ của Như lai. Đây
là một câu trong số những câu đẹp nhất của Kinh. Lãnh thổ của Như lai là
vùng đất có an ninh, có an lạc, có ánh sáng trí tuệ và có tình thương
yêu đùm bọc. Khi hành trì Giới này, ta đặt ta vào lãnh thổ của Như lai,
ta ở chung với Như Lai và các vị thánh đệ tử của Người. Đó cũng là
lãnh thổ của từ, bi, hỷ và xả thường được gọi là bốn tâm vô lượng (tứ
vô lượng tâm), hay bốn nơi trú ẩn cao đẹp (tứ phạm trú.) Thực tập năm
Giới tức cũng là niệm Giới, và niệm Giới cũng là niệm Bụt, niệm Pháp và
niệmTăng. Trong mỗi Giới đều có Bụt, Pháp và Tăng, như ta đã biết.
Giới luật này không có tính cách giả dối, vì Giới luật này đã được
thiết lập trên căn bản chánh niệm, tuệ giác, và từ bi, ai cũng có thể
tìm hiểu và chứng nghiệm trực tiếp. Không ai có thể thành tựu được thiền
định và trí tuệ nếu không có Giới, cho nên Giới này thường được các
bậc hiền thánh khen ngợi, tiếp nhận, thực tập và hộ trì. Hộ trì có
nghĩa là tự mình thực tập và còn làm gương cho kẻ khác thực tập, khiến
cho sự thực tập Giới pháp được lan rộng và chấn chỉnh trên khắp thế
gian.
Cũng như lái xe trong thành phố, ta phải vâng theo luật lệ xe cộ để
tránh gây tai nạn và để ai cũng có thể về tới đích an toàn. Sống trong
cuộc đời, chúng ta phải thực tập Giới luật để bảo hộ cho ta, cho mọi
người và đi tới trên con đường thực hiện lý tưởng giải thoát và giác
ngộ.
Hạnh phúc trong hiện tại
Thực tập năm Giới pháp và bốn tâm cao đẹp, ta có thể sống hạnh phúc
ngay trong hiện tại và biết chắc rằng sẽ không sa đọa vào những đường ác
trong tương lai.
Mệnh đề có khả năng an trú hạnh phúc ngay trong hiện tại được lập lại
tới sáu lần trong Kinh Người Áo Trắng. Mệnh đề này rất quan trọng. Có
rất nhiều người nghĩ và tin rằng tu hành thì phải cực khổ trong hiện
tại mới có hy vọng hạnh phúc trong tương lai. Bụt đã dạy rất rõ ràng
trong nhiều Kinh điển là tu tập theo giáo pháp của người thì có an lạc
trong hiện tại và có an lạc trong tương lai. Theo đạo Bụt, một hiện tại
thực sự an lạc (chứ không phải một nếp sống hưởng thụ vật dục, bệnh
hoạn và vô ý thức) luôn luôn đem tới một tương lai thực sự an lạc. Nhìn
vào hiện tại, ta có thể biết được tương lai. Biết mình đang thực tập
vững vàng năm Giới pháp và bốn tâm cao đẹp, người đệ tử áo trắng tự
biết là mình đã được đi và dòng thánh, nắm quả Vào Dòng, và không còn
sợ sa đọa vào những nẻo dữ như địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh nữa.
Trong nhiều Kinh điển, Bụt đã dạy ta sống trong hiện tại và quán
chiếu các pháp đang xảy ra trong hiện tại. Sự sống mầu nhiệm đang xảy ra
trong hiện tại, nếu ta bỏ hiện tại, nếu ta hy sinh hiện tại vì một
tương lai mơ hồ thì đó là ta đã đi ngược lới Bụt dạy. Thực tập năm Giới
và bốn tâm cao đẹp là thực tập nắm lấy lấy vận mệnh của mình trong hiện
tại, bảo hộ hiện tại, xây dựng hiện tại và bảo đảm cho tương lai.
Phương thức tạo dựng tương lai hay nhất là xây dựng hiện tại, sống sâu
sắc, có trách nhiệm ,có tuệ giác, có từ bi trong giờ phút hiện tại.
Bụt cũng dạy rằng giải thoát, an lạc, giác ngộ và tịnh độ đều ở ngay
trong tâm ta; trở về tâm để khám phá và quán chiếu thì ta mới tiếp xúc
được những bảo vật đó. Mà quán chiếu thì chỉ có thể quán chiếu trong
giờ phút hiện tại. Sống an lạc hạnh phúc ngay trong hiện tại là một
thông điệp quan trọng của Bụt, nhưng thông điệp này hình như đã bị lãng
quên và thất truyền tới môt mức độ đã làm cho chúng ta ngạc nhiên.
Sống hạnh phúc ngay trong hiện tạì, theo lời dạy của Bụt trong Kinh
Người Áo Trắng, không phải là một điều khó làm. Bụt dạy ta chỉ cần thực
tập năm Giới và bốn tâm cao đẹp là đủ. Thực tập các pháp này ta có an
lạc ngay trong khi thực tập, ngay trong hiện tại, một cách dễ dàng.
Vun trồng phước đức
Trong phần kệ tụng, Bụt có dạy về sự thực tập cúng dường để vun trồng
phước đức, xây dựng và yểm trợ tăng thân khá kỹ lưỡng. Tăng thân là
ruộng phước, cho nên ta hãy nhìn vào phẩm chất của tăng thân để quyết
đoán là nên đầu tư vào tu học với tăng thân nào. Tiêu chuẩn là giải
thoát và giác ngộ. Tăng thân nào có những phần tử biết nghiêm trì tịnh
Giới, thực chứng được giải thoát là tăng thân có phẩm chất cao cần được
yểm trợ và nương tựa. Giá trị của những phẩn tử ấy nằm ở tịnh Giới và
giải thoát chứ không nằm ở gốc gác và giai cấp của họ. Dù họ có xuất
thân từ Giới quyền quý mà họ không hành trì Giới luật, không có giải
thoát thì họ cũng không có giá trị của Tăng bảo:
Trong cõi nhân gian này
Có các Giới phạm chí
Sát đế lợi, cư sĩ
Thương gia và công nhân
Những ai trì tịnh Giới
Thực chứng được giải thoát
Trở thành bậc cao đức
Bậc Thiện Thệ thảnh thơi.
Cúng dường những bậc ấy
Là được quả phúc lớn
Ta không cần phân biệt
Giai cấp và nguồn gốc.
Kẻ thiếu đức nghèo tuệ
Không soi sáng cho ai,
Cúng dường những kẻ ấy
Quả phúc không đáng kể.
Phạm Chí có nghĩa là kẻ xuất thân từ giai cấp Bà La Môn, Sát Đế Lợi
là kẻ xuất thân từ giai cáp tướng lãnh và chính trị. Bụt đã dùng ví dụ
về một đàn bò để nói về giá trị tăng thân. Giá trị của một con bò không
phải ở màu sắc hay xuất xứ của nó. Giá trị của một con bò nằm ở sức
chuyên chở : con nào mạnh khỏe, kéo xe mạnh và nhanh, chuyên chở được
nhiều chuyến thì con ấy có giá trị.
Hãy nhìn đàn bò kia
Và thử quan sát chúng
Có con vàng, con trắng
Có con đỏ, con đen
Màu nâu có đốm vàng
Hoặc màu chim bồ câu.
Dù chúng màu sắc gì
Hoặc xuất xứ từ đâu
Giá trị thật của chúng
Là ở sức chuyên chở
Những con nào mạnh khỏe
Kéo xe mạnh và nhanh
Chuyên chở được nhiều chuyến
Là những con hữu dụng.
Kinh Người Áo Trắng thật là một Kinh căn bản cho sự thực tập, không
những quan trọng cho Giới cư sĩ mà cũng rất quan trọng cho Giới xuất
gia, bởi vì phép thực tập trong Kinh cũng là phép thực tập căn bản của
người xuất gia. Nếu người xuất gia không nắm vững được sự thực tập của
Kinh này thì cũng sẽ thiếu căn bản và cũng không đi xa được.
Tính cách tương dung của năm giới pháp và bốn tâm cao đẹp
Hành trì Kinh này, ta thấy tính cách tương dung của các Giới pháp và
của bốn tâm cao đẹp (tăng thượng tâm.) Hành trì một Giới pháp cho thật
sâu sắc, ta thấy ta cũng đang hành trì tất cả các Giới khác. Khi hành
trì Giới thứ nhất là không sát hại, ta thấy rằng nếu không hành trì bốn
Giới còn lại thì ta không thể nào thực sự thành trì được Giới thứ nhất.
Hành động trộm cắp, hành động tà dâm, hành động nói năng không trách
nhiệm và sử dụng rượu và các chất ma túy cũng có thể đưa tới sự giết hại
sinh mệnh. Hành trì một tâm cao đẹp cho sâu sắc, ta thấy ta cũng đăng
hành trì tất cả các tâm cao đẹp khác. Khi thực tập quán niệm về Bụt, ta
thấy ta cũng đang thực tập quán niệm về Pháp, về Tăng và về Giới. Một
tâm cao đẹp chứa trong lòng nó những tâm cao đẹp khác. Trong Bụt có
Pháp, có Tăng và có Giới; trong Pháp có Bụt, có Tăng và có Giới; Trong
Giới có Bụt, có Pháp và có Tăng. Hơn thế nữa, mỗi Giới trong năm Giới
đều chứa đựng chất liệu Bụt, Pháp và Tăng, và mỗi tâm cao đẹp đều chứa
đựng đầy đủ năm Giới. Bản chất của năm Giới và của bốn tâm cao đẹp là
chánh niệm, là tuệ giác, là từ bi, vì vậy chín pháp này dung nhiếp nhau,
một là tất cả, tất cả là một. Giáo lý Hoa Nghiêm gọi sự thật này là
tương tức (interbeing.)
Đối tượng của niềm tin
Giờ phút thành đạo dưới cội Bồ đề, Bụt Thích Ca đã thốt lên: "Lạ
thay, tất cả chúng sinh đều có chất liệu giác ngộ và từ bi ở trong tâm,
vậy mà không thấy, cứ để tự mình trôi lăn trong vòng sinh tử, thật là
đáng thương." Câu nói này cho ta thấy được đối tượng đích thực của niềm
tin nơi giác tính sẵn có nơi chính mình. Giác tính là khả năng giác
ngộ. Đó là cái đẹp nhất, lành mạnh nhất và thật nhất. Bụt dạy chúng ta
tiếp xúc với giác tính ấy. Khi ta bắt đầu tập thở có ý thức tức là ta
đã tiếp xúc với chánh niệm. Khi ta quán niệm về Bụt, về Pháp, về Tăng
và về Giới là ta đã tiếp xúc với chánh niệm và lấy giác tính của ta làm
bản chất cho sự sống của ta. Chánh niệm đưa tới cái nhìn sáng. Cái
nhìn sáng ấy chính là sự giác ngộ, mà cội nguồn của giác ngộ là giác
tính trong ta. Bụt là người đã khơi mở giác tính nơi mình một cách viên
mãn. Người tu học theo Bụt là người đang khơi mở giác tính nơi mình.
Bụt không muốn ta tin vào một đấng thần linh hoặc một nguyên lý siêu
hình trừu tượng. Đối tượng của niềm tin phải là một cái gì có thật, là
một cái gì ta có thể tiếp xúc và kiểm chứng được. Chánh niệm và tuệ
giác là những gì có thực. Năm Giới và bốn tâm cao đẹp cũng là những
phép hành trì nhằm khơi mở và phát triển thêm chất liệu chánh niệm và
tuệ giác nơi ta. Đó là đối tượng niềm tin của người Phật tử.
Niềm tin (Tín, sraddha) là nguồn năng lượng cần thiết cho sự hành
đạo. Niềm tin đưa lại sự chuyên cần hăng hái (Tấn), và tiếp theo đó ta
mới có chánh niệm (Niệm) để đi đến sụ chuyên chú (Định) và sự phát hiện
cái thấy tuệ giác (Tuệ.) Cái thấy tuệ giác lại làm nền cho niềm tin của
ta thêm lớn.
Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ là năm nguồn năng lượng phải có trong ta,
nếu ta muốn thành công trên con đường tu học. Kinh Người Áo Trắng đưa
ra phép hành trì bốn tâm cao đẹp và năm Giới như đối tượng của niềm
tin.
Con người không thể sống có hạnh phúc và không thể sống đời sống có ý
nghĩa nếu không có một niền tin. Phải có một cái gì thật, lành và đẹp
mà ta thấy được và hiểu được, thì ta mới có thể tin tưởng. Không có
niềm tin, ta sẽ sống bừa bãi, không trách nhiệm, và do đó sẽ tàn phá cơ
thể ta, tâm hồn ta, gia đình ta và xã hội ta. Thời đại chúng ta là
thời đại mất niềm tin. Con người đã mất niềm tin nơi thần linh, nơi
khoa học, nơi chủ nghĩa, nơi ý thức hệ, nơi hạnh phúc gia đình, nơi xã
hội. Các bậc phụ huynh rất muốn cho con cháu chấp nhận niềm tin của
mình, nhưng lắm khi chính họ cũng mơ hồ không nắm được đối tượng niềm
tin của chính họ. Vì lý do đó, họ đã không trình bày được cho tuổi trẻ
bản chất của niềm tin mà tuổi trẻ có thể hiểu, có thể thấy và có thể
chấp nhận. Trong Kinh Người Áo Trắng, tụng bản Pali, Bụt nói rất rõ:
Giáo pháp này có thể thấy được ngay bây giờ và ở đây, có tác dụng hướng
thượng, có thể tới để chiêm nghiệm trực tiếp, người có trí tuệ nhận
xét có thể tự mình nghe mà hiểu được. Kinh Người Áo Trắng không có gì
thần bí và mơ hồ. Những điều Kinh dạy đều có tính cách thiết thực, khoa
học, có thể tiếp xúc và trắc nghiệm. Học hỏi, tu tập và giảng giải
Kinh này có thể giúp tuổi trẻ thấy được giác tính của mình và lấy đó
làm đối tượng của một niềm tin. Niềm tin đó phát khởi từ tâm ta. Giáo
lý của Bụt chỉ giúp ta phát hiện niềm tin ấy. Một khi niềm tin được
phát hiện, ta sẽ có trong ta một nguồn năng lượng mới. Ta sẽ sống vui
tươi và hạnh phúc ngay trong hiện tại, ta sẽ biết bảo vệ thân thể ta,
tâm hồn ta, và ta sẽ cây dựng lại được gia đình và xã hội. Đời dống của
ta bắt đầu có một ý nghĩa.
Các truyền thống tâm linh và tôn giáo trên thế Giới đều có bổn phận
khai thị và khơi mở lại niềm tin nơi con người. Nếu ta cứ bám víu vào
nhận thức cũ thì ta không thể nào làm được việc ấy. Thời đại chúng ta là
thời đại khoa học, ta không thể cứ ép tuổi trẻ và người trí thức tin
vào những ý niệm mơ hồ và trừu tượng mà họ không thể kiểm chứng. Ta phải
trở về chiều sâu của truyền thống để khám phá lại những giá trị đã bị
chôn lấp dưới bao nhiêu lớp vỏ hình thức khô cứng.
Đạo Bụt là một thực tại sống động, như một cây Bồ đề đang lớn, và vì
vậy đạo Bụt đang tiếp tục phát triển. Năm Giới là niềm Tin vẫn còn đang
sống động, chúng ta có thể tiếp xúc và hết lòng thực tập ngay trong
thời đại, cũng như trong đời sống hằng ngày của mình.
Năm giới mầu nhiệm
Đây là Giới thứ nhất:
- Ý thức được những khổ
đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống
của mọi người và mọi loài. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không
tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm
tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con.
Đây là Giới thứ hai:
- Ý thức được những khổ
đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo
hạnh đại từ để đem lại niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi
loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang
thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải
nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ
khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm
giàu một cách bất lương tên sự đau khổ của con người và của muôn loại.
Đây là Giới thứ ba:
- Ý thức được những khổ đau
do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp
bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã
hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng
của con. Con ý thức được rằng những hành động bất chính sẽ gây ra những
đau khổ cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc
của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình
và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho
nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống
đôi lứa.
Đây là Giới thứ tư:
- Ý thức được những khổ đau
đo lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và
lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của
người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho
người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui
và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và
hòa giải. Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói
những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những
tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những
điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có thể tạo
nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ
gia đình và đoàn thể.
Đây là Giới thứ năm:
-Ý thức được những khổ đau
do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân
tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh
niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì
có thể đem lại an lạc cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã
hội con. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy,
không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một số
sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò.
Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội
tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện
chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập
phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép
kiêng khem này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng
và xã hội.
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh