Một vọng tưởng căn bản vốn dĩ ở tâm điểm của mối quan hệ giữa cá
nhân người giảng dạy giáo lý và chính Quả Phật. Bài giảng mà vị nào đấy
trình bày không phải của chính người đó. Nó là giáo huấn của Đức Phật
mà điều ấy được người thuyết giảng chuyển tải trong khả năng cao nhất -
tự học hỏi tối đa cũng như giảng dạy cho người khác.
Tôi không cảm thấy như thế mặc dù tôi là tác giả của bất cứ bài
thuyết giảng nào tôi thực hiện. Tôi cảm thấy như một người lắng nghe
chúng rất nhiều. Trong một bài thuyết giảng thật sự, duy người thuyết
giảng là Giáo Pháp thật sự, Giáo Pháp thuyết giảng. Tất cả mọi người,
kể cả những vị thầy, là những học trò của Giáo Pháp. Ngay lúc tôi đang
viết hay trình bày một bài thuyết giảng là một cơ hội để lắng nghe Đức
Phật. Tôi đã thường hoàn toàn ngạc nhiên với những gì tôi đã nói trong
bài giảng của tôi, giống như tôi không phải thật sự là tác giả.
Thật phải là thiện nghiệp một cách ngoại lệ để có thể được dạy
bảo, một cách trực tiếp và cá nhân bởi một vị thầy như Đức Thế Tôn Thích
Ca Mâu Ni. Người ta không còn có cơ hội quý báu này nữa. Nhưng điều
ấy không có nghĩa là con người ngày nay là tách biệt với Giáo Pháp. Sự
giảng dạy của Đức Phật tiếp tục được chuyển tải trong một sự đa dạng của
những phương cách. Một cách như vậy là qua những người Tín Tâm .
Những người Tín Tâm không phải là những Đức Phật, mặc dù họ có thể
lắng nghe Đức Phật một cách trực tiếp và bảo đảm sẽ đạt đến giác ngộ
không sớm thì muộn. Những người như vậy là có thể thấy cuộc đời của
chính họ, và của những người khác, trong một cung cách đặc biệt được ban
cho họ bởi Đức Phật qua Niệm Phật. Tuy thế, bởi vì họ vẫn là những
chúng sinh trong cõi luân hồi, họ không thể hành động trong một cung
cách như một Đức Phật có thể làm. Đây là ý nghĩa của những gì ở trong
cõi luân hồi. Họ sống những cuộc đời luân hồi, mặc dù tâm thức họ đã
được chuyển hóa và chuẩn bị cho sự giải thoát tối hậu của họ. Để đạt
đến Quả Phật, thông hiểu hầu hết giáo huấn là không đủ; vì mục tiêu này,
chúng ta phải loại trừ tất cả si mê ám tối và vọng tưởng của chúng ta,
và thay thế chúng với phước đức vô lậu hay công đức của Đức Phật. Chưa
một người Tín Tâm nào đã từng có thể làm điều ấy và việc này tạo nên
toàn bộ sự khác biệt.
Trong Tịnh Độ Tông, chúng ta tham dự trong công đức của Đức Phật
bằng việc thực hành việc kêu gọi tên ngài hay Niệm Phật. Đức Phật
chuyển hóa vọng tưởng của chúng ta và có thể làm cho chúng ta đạt đến
một sự tương đồng với Tâm của Ngài, Tâm Phật. Sự chuyển hóa này là
phương pháp duy nhất có thể làm cho chúng ta trở nên trưởng thành về tâm
linh. Nhưng không là một Đức Phật chúng ta không có thể hành động như
một vị Phật; chúng ta cũng không tiên liệu một khả năng như vậy trong
khi vẫn là một con người.
Bất cứ thẩm quyền nào chúng ta sở hữu có thể ra mệnh lệnh, bất cứ
vị thế xã hội hay tôn giáo nào chúng ta có thể nắm giữ, nhưng chúng ta
chưa phải là những Đức Phật toàn giác. Chúng ta vẫn là đối tượng đối
với những cảm xúc duyên nghiệp và thường hành động như những người bình
thường khi chúng ta bị tác động bởi những sự kiện trong đời sống. Chúng
ta có những giới hạn của chúng ta (kể cả thân thể) do bởi những sự
vướng mắc chấp trước bén rể lâu đời là những thứ đã ràng buộc chúng ta
vào trong cõi luân hồi. Ngay cả nếu chúng ta biết tất cả những giáo
huấn của Đức Phật một cách tuyệt hảo (là điều, trong thực tế, hoàn toàn
không thể có với một tâm thức chưa hoàn toàn tịnh hóa), chúng ta vẫn
mang chứa những vọng tưởng của kiếp nhân sinh vì vậy làm cho chúng ta
không tương ứng, cả tinh thần lẫn thân thể, để hành động như một vị Phật
toàn hảo.
Tổ Thân Loan thường tự thú rằng ngài thấy luân hồi hấp dẫn, mặc dù
ngài nhận ra bản chất vọng tưởng của sự đam mê lôi cuốn nguy hiểm của
nó. Ngài hoàn toàn thấu hiểu bản chất con người và nhận ra sự cần
thiết của việc xác định Giáo Pháp. Chỉ qua việc tiếp nhận một phương
pháp cá nhân hướng đến Quả Phật, là người ta có thể chuyển hóa tâm thức
của họ và lìa bỏ luân hồi lại phía sau. Nếu chúng ta không cảm thấy
Giáo Pháp như kinh nghiệm đời sống của chính mình, thế thì luôn luôn sẽ
có một khoảng cách giữa kiến thức Phật Pháp và chúng ta như chúng ta
thật sự là. Nhận thức của chúng ta về giáo huấn sẽ vẫn là lý thuyết và
nó không thể thật sự chuyển hóa chúng ta. Thân Loan nhấn mạnh rằng
không chỉ đi theo giáo huấn chỉ như một lý thuyết, mà phải tiếp cận Đức
Phật trong một cung cách rất cụ thể qua Niệm Phật.
Niệm Phật có thể làm cho chúng ta nhận ra vọng tưởng của luân hồi
cũng như sự giả dối của chính chúng ta. Nó làm cho chúng ta nhận ra và
chấp nhận khả năng chân thật của chúng ta cũng như những giới hạn của
chúng ta.
Nếu chúng ta thật sự thực hành Niệm Phật, chúng ta do vậy tin
tưởng rằng chúng ta đã cải thiện tình trạng của thế giới hay ngay cả đời
sống của những người khác. Chúng ta liên tục bị lo âu với vấn đề chúng
ta là ai và ai là Đức Phật. Đây là nhiệm vụ của cả cuộc đời của chúng
ta và nó đòi hỏi tất cả mọi sự cống hiến của chúng ta. Thay vì lắng
nghe Đức Phật và chánh niệm với chính mình, chúng ta chỉ cố gắng tác
động đến những hoàn cảnh ngoại tại của chúng ta, chúng ta không được gì
nhưng chỉ bối rối thất vọng. Sự bối rối này không phải được mang đến
bởi Đức Phật hay bất cứ một vị thầy nào, mà bởi cung cách suy nghĩ luân
hồi của kiếp người. Chúng ta, như những con người bình thường bị mê
hoặc bởi luân hồi và những lôi cuốn vô tận của nó.
Chúng ta là những con người bởi vì chúng ta bị nhấn sâu trong luân
hồi. Dĩ nhiên, chúng ta không vui sướng bởi khổ đau luân hồi, nhưng
chúng ta đón nhận những khoái lạc luân hồi để để duy trì sự vướng mắc
với những điều kiện của kiếp nhân sinh. Một trong những vọng tưởng căn
bản nhất là tin tưởng rằng luân hồi thế nào đấy có thể được cải thiện để
cung ứng cho chúng ta một đời sống không có rắc rối. Nhiếu người đã hy
sinh sự sống của họ cho một mục tiêu như vậy. Hầu hết mọi người bắt
đầu lắng nghe Giao Pháp chỉ để cải thiện nhiều thứ trong cuộc sống hơn
là bất cứ sự khao khát nào để thấu hiều cung cách mọi thứ thật sự là,
bàn chất của thực tại. Nhận thức hướng đạo sai lệch này hướng để cải
thiện những gì luôn luôn duy trì sự bất toàn hơn là cố gắng để đạt đến
một quan điểm đúng đắn trong đời sống, chánh kiến.
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể
trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên
cốt lõi của sự tồn tại sinh tử. Những con người hảo tâm và thiện ý
thường 'làm những việc đúng' và săn sóc người khác trong niềm tin rằng
họ đang làm những việc thiện thông thường. Tuy thế, không có ánh sáng
của Đức Phật soi rọi chúng ta, không ai có thể thấy tính vị kỷ nằm bên
trong trái tim của nhiều nhà hoạt động vị tha và đạo đức. Thân Loan đã
nhận ra thực tế nghiệt ngã này và nói: 'Đức Phật Di Đà phát nguyện của
Ngài chỉ cho con, Thân Loan'. Trong Ánh Sáng của Niệm Phật, chúng ta có
thể thấy rằng tất cả mọi nổ lực của chúng ta, bất kể chúng là đúng hay
sai, mãi mãi chỉ có một xu hướng - làm cho chúng ta cảm thấy khá hơn.
Chúng ta muốn gia đình chúng ta đừng gây rắc rối cho chúng ta, hơn là
nguyện ước một cách chân thành cho họ được cát tường. Nếu chúng ta
thương mến ai đấy, chúng ta muốn người này phục vụ lợi ích riêng của
chúng ta và chúng ta cảm thấy giận tức nếu họ không cho chúng ta những
gì chúng ta mong đợi về họ. Chúng ta thích những vị thầy thực chứng
Giáo Pháp làm cho đời sống của chúng ta dễ dàng hơn và chúng ta phiền hà
các ngài vì những rắc rối của chúng ta. Chúng ta cố gắng phản đối Giáo
Pháp như không đủ tốt cho chúng ta, lấy thì dụ về đời sống của những
người khác cho việc đi đến một kết luận như vậy. Nhưng những gì chúng
ta có thể biết về đời sống của một người khác? Chúng ta ngay cả không
biết đời sống của chúng ta một cách đầy đủ nữa kia mà.
Trong cách này, chúng ta thích trụ lại như chúng ta là, nhưng
chúng ta muốn sống cùng với những vị bồ tát những vị phụng sự lợi ích
cá nhân của chúng ta. Chúng ta không muốn nghĩ một cách có ý thức
trong một cung cách như vậy nhưng chúng ta rõ ràng xử sự như vậy. Để
cải thiện mọi thứ chung quanh chúng ta thay vì thế chính chúng ta thật
sự muốn nói là mong muốn người khác làm cho đời sống chúng ta khá hơn.
Rõ ràng rằng những con người thông thường của thế giới luân hồi
hành động để hổ trợ sinh tử, và rằng những ai với ngưỡng vọng cho sự
Giác Ngộ muốn lìa luân hồi hoàn toàn - khuynh hướng của họ là hoàn toàn
đối kháng. Tại sao thế giới của xã hội luân hồi sinh tử lại mong muốn
những người tôn giáo chịu trách nhiệm và hữu dụng cho thế giới luân
hồi? Không có lý do xác đáng cho một quan điểm như vậy. Hãy nhìn vào
lịch sử của nhân loại: 1) Đức Phật Thích Ca từ bỏ gia đình để tìm con
đường tâm linh của chính Ngài; điều này làm cho gia đình của Ngài băn
khoăn, bối rối và từ một quan điểm xã hội nghiệt ngã, quyết định của
Ngài có thể được thấy như là một hành động đáng phiền trách hay tội lỗi;
2) Chúa Giê-su tạo ra nhiều rắc rối cho những giới thẩm quyền trong
thời của Ngài, vì thế họ quyết định giết Ngài; 3) Mô-ha-mét đã bị áp lực
phải trốn thoát để tránh bị giết bởi chính những người của Ngài; 4)
Thân Loan bị xem như một tội phạm bởi nhà cầm quyền Nhật Bản và bị lưu
đày; 5) Đức Đạt Lai Lạt Ma được xem như là một cá nhân nguy hiểm bởi
chính quyền Trung Cộng.
Con người luân hồi chỉ thấu hiểu tôn giáo, trong tất cả những hình
thức của nó, như một món trang trí của cõi luân hồi; như một truyền
thống xã hội hay văn hóa, điều gì đấy có thể làm cho con người nghĩ tốt
hơn về chính họ. 'Tôn giáo làm cho con người là con người hơn.' Đây
là một quan điểm hoàn toàn của thế giới luân hồi.
Nếu chúng ta thích là con người, chúng ta không thể là một vị
Phật. Trước nhất chúng ta phải nhận ra con người là dễ sợ như thế nào,
khốn khó như thế nào để là con người! Ngoại trừ chúng ta thực hành Niệm
Phật bằng không chúng ta không có bất cứ một cơ hội nào để thấy nhân
duyên chân thật của con người. Không có tuệ giác thẩm thấu vọng tưởng
của chính mình, chúng ta không thể tác động đến việc chuyển hóa thành
Phật của chúng ta.
Thân Loan bị bình phẩm bởi người Tây phương bởi vì ngài không
thích hợp với ý tưởng của con người về một vị thánh. Ngài rời tu viện
của ngài, ngài kết hôn hai lần và rời bỏ cả hai người vợ, và đôi khi bị
xem là tội phạm - ngài đã làm những thứ 'dễ sợ' này. Ngài đã làm những
gì ngài đã làm nhằm đề khám phá ra ngài thật sự là ai và nhằm đề đối
diện với khuôn mặt rực sáng của Đức Phật, bất chấp là gì. Ngài không
bao giờ tìm kiếm bất cứ tín đồ hay đệ tử nào. Ngài đã hiểu rằng không
có lý do gì để theo đuổi bất cứ một chúng sinh bị ràng buộc với nghiệp
chướng. Đức Phật là đối tượng duy nhất để đi theo và tôn thờ.
Nhận ra điều này nhằm đề lắng nghe Đức Phật Di Đà, ngài đã viết về
Giáo Pháp, ngài cuối cùng đã rời vợ ngài, Enshinni. Ngài đã không viết
về sự thực chứng tôn giáo của ngài vì lợi ích của nhân loại. Ngài làm
việc ấy cho chính ngài. Ngài là học trò đầu tiên của những tác phẩm của
ngài. Nếu người ta thấy hữu ích trong những tác phẩm ấy, đấy chỉ là do
bởi năng lực khách quan của Giáo Pháp đã tỏa hương trong chúng. Không
một ai trong những người Tín Tâm là một tư tưởng gia. Tất cả là những
người lắng nghe. Giáo Pháp là về việc lắng nghe và thể hiện.
Chỉ những người thực hành Đạo Phật một cách kiên quyết về Niệm
Phật mới có thể làm cho chúng ta lắng nghe về Giáo Pháp. Chỉ trong cách
này chúng ta mới có thể nhận ra những gì chúng ta làm, chúng ta làm cho
chính chúng ta. Chúng ta thuyết phục chính chúng ta rằng chúng ta hành
động cho một người nào khác đó, cho nhân loại, cho hành tinh, cho Giáo
Pháp, cho Đức Phật nhưng chúng ta đang thật sự đang tìm kiếm lợi ích cho
chính mình. Giới hạn sâu sắc này được liên kết một cách mật thiết đến
bản chất luân hồi của sự tồn tại chính chúng ta. Chúng ta dấn thân với
những người khác và tất cả chúng ta liên hệ nội tại, nhưng nhìn vào
những người khác chung quanh chúng ta, chúng ta chỉ thấy chính chúng ta
mà thôi. Nhược điểm này trong tình trạng con người của chúng ta không
cho phép chúng ta thấu hiểu một cách thích đáng những người khác, bất
chấp họ là ai. Nếu chúng ta cố gắng để thấu hiểu giáo huấn của Thân
Loan mà không thực hành Niệm Phật và thực chứng Tín Tâm, thế thì chúng
ta chỉ lãng phí thời gian của mình mà thôi. Không có Tín Tâm, chúng ta
chỉ có thể nhìn thế giới qua mắt kính mù quáng của nghiệp chướng và
thiếu quan điểm về sự tồn tại tương hổ lẫn nhau. Tuy nhiên qua Tín Tâm,
chúng ta có thể đi đến thấu hiểu cung cách mọi thứ là vì chúng ta là,
rồi thì chúng ta có thể nhìn thế giới qua con mắt của Phật.
Cuối cùng, trong việc dành quá nhiều thời gian và năng lượng của
chúng ta trong việc theo đuổi những mục tiêu vọng tưởng luân hồi, chúng
ta thất bại trong việc tập trung đến một thứ thật sự quan trọng - tỉnh
thức với tâm của Phật qua sự thực chứng Tín Tâm. Nhưng làm thế nào
những người đó, những kẻ hoàn toàn nhiễm ô với luân hồi sinh tử và những
hứa hẹn sai lầm của nó thậm chí có thể bắt đầu tin tưởng trong khả năng
của một đời sống tự do khỏi những vọng tưởng điên đảo như vậy?
Nam mô A Di Đà Phật
Nguyên tác The Samsaric Illusion
Ẩn Tâm Lộ ngày 6/12/2011
http://www.nembutsu.info/agnes1.htm
Tác giả: Agnes Jedrzejewska
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Shinjin (信心): trong phạm
vi của Tịnh Độ Tông Nhật Bản, nó liên hệ đến một sự tỉnh thức và an trụ
tâm tỉnh giác với hoạt động của Thệ Nguyện Nguyên Sơ của Đức Phật Di Đà
và bảo đảm cho một sự vãng sinh.