Trong đời sống hằng ngày tại chùa,
phật tử cũng như quý thầy, khi gặp nhau, ta thường thấy họ chắp tay chào
hỏi nhau. Ngoài ý nghĩa về mặt nghi lễ, chắp tay chào nhau còn mang ý
nghĩa nhân văn đạo đức.
Chắp tay chào nhau là biểu hiện cho sự
nhất tâm chính niệm. Hai bàn tay áp vào nhau là biểu tượng của một búp
sen đang hé nở để tỏa ngát hương thơm dâng hiến cho đời. Đặc tính của
sen là "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Như vậy, khi phật tử chắp tay chào
nhau, ngoài phép tắc xã giao còn thầm nhắc nhở nhau: Hãy sống một đời
trong sạch như sen nở ngát hương thơm nơi bùn lầy nước đục. Thật quý hóa
thay, một biểu tượng cao đẹp xuất phát từ những tâm hồn cao đẹp.
|
Xin chào tặng người một câu niệm Phật "A Di Đà Phật".
|
Chắp tay cũng nói lên sự đoàn kết hòa hợp nhất tâm cung kính cầu
mong cho người đối diện được an lạc. Sự lễ nghi chào hỏi, tùy theo tập
tục của mỗi quốc gia và tôn giáo có khác nhau.
Bên Tây phương, người ta bắt tay nhau, ôm hôn nhau hoặc trao cho
nhau những nụ cười, hay người Nhật, người Hàn Quốc cúi đầu chào nhau.
Trong quân đội, công an phải giơ tay thẳng người để chào, bạn bè
thông thường chỉ cần gật đầu, vẫy tay trao cho nhau những nụ cười.
Đặc biệt tại những nước Đông Nam á như Lào, Thái Lan, khi gặp nhau
người ta chắp tay để trước ngực và cúi đầu chào nhau. Thực ra, hành
động chắp tay không phải chỉ là nghi lễ Phật giáo, mà trước đó, đã có
trong truyền thống Ấn Độ trước cả thời đức Phật.
Người Ấn Độ quan niệm tay phải là tay thanh tịnh, dành cho việc tôn
kính thần thánh, trong sạch và linh thiêng, trong khi tay trái thì
nhiễm ô, tội lỗi. Chắp tay tượng trưng cho sự hợp nhất làm một giữa
thanh tịnh và bất tịnh, Phật giáo đã phát triển truyền thống này của Ấn
Độ và gọi chấp tay là “hiệp chưởng”.
Chào nhau là truyền năng lượng yêu thương hoan hỉ cho nhau khi gặp
mặt, mọi người đừng quên nhé. Thí dụ nếu ta gặp một vị cúi đầu chào,
nhưng vị kia chỉ ngồi im lãnh nhận mà không chịu chào lại, hoặc vênh váo
mặt lên thì rất khó coi, vị ấy quả thật là ngã mạn thật đáng ghét kinh
khủng, chẳng ai muốn nói chuyện, gặp ai người ta cũng khó chịu, thế là
mất cơ hội có thêm những người bạn tốt rồi.
Đức Phật dạy, chúng sinh là Phật sẽ thành, có nghĩa là tất cả mọi
người, ai cũng mang sẵn hạt giống hay chủng tử Phật, vì thế, chắp tay
cúi chào người là hành động thể hiện đức khiêm cung, tức là thái độ cung
kính khiêm tốn làm cho mọi người yêu thương mình thêm.
Lễ nghi tuy là hình thức bề ngoài, nhưng nó cũng biểu lộ tấm lòng
cung kính và phép lịch sự và sự giáo dục của chúng ta nữa đấy. Điều mà
chúng ta cũng cần nên nhớ là khi chào nhau chúng ta phải thật tâm cung
kính, không nên làm cho có lệ, theo kiểu giả dối bề ngoài. Điều này,
không ai bắt buộc ta phải làm. Ta làm, vì ta ý thức được cái chân thật,
cái hay, cái đẹp, Chân Thiện Mỹ phát xuất từ tâm ta, nên khi chào nhau
cần phải cung kính và vui vẻ. Mỗi người nên cố gắng thực tập cho mình
có thói quen tốt này. Đồng thời khi chắp tay, ta nên nhớ là chắp tay lên
ngang ngực, không được chắp thấp quá hoặc cao quá.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin nói thêm về cách chào của người phật
tử đối với chư tăng, ni. Khi chào Chư tôn đức tăng, ni, chúng ta tuyệt
đối không nên chào một tay. Chào như thế không đúng cách mà phải chắp
tay xá chào. Trong trường hợp, nếu tay ta đang bận xách đồ không thể để
xuống được, thì ta chỉ nên cúi đầu chào. Nếu trên tay ta đang cầm quyển
kinh, thì tuyệt đối không được cầm Kinh xá chào. Ta chỉ nên ôm vào ngực
và kính cẩn cúi đầu chào thôi.
Như vậy thì có thể nói, khi chúng ta chào hỏi người đối diện, không
phân biệt người đó là ai, bằng cách xá với hai tay chắp trước ngực, thì
không phải chỉ để tỏ lòng kính trọng người đó, mà chính là chúng ta
đang thực hành hạnh Thường Bất Khinh mà đức Phật đã dạy.
Thuở xưa, Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát, đi đâu gặp ai, Ngài cũng
bái lạy và nói câu: “Tôi không dám khinh các Ngài, vì các Ngài sẽ là
Phật”. Mỗi người ai cũng sẵn có Phật trong người, chỉ cần chịu khó nhìn
lại và cố gắng tu hành dứt trừ hết vô minh phiền não, thì sẽ đạt được
Phật quả. Đó là một hạnh nguyện của Bồ tát luôn thức nhắc cho mọi người
nhớ lại ông Phật của chính mình. Vì quên Phật của mình, nên chúng ta mãi
đi trong luân hồi chịu khổ. Việc làm này của Ngài, là một hạnh nguyện
đáng kính và đáng cho chúng ta noi gương theo.
Ngoài sự chào nhau bằng cách chắp tay, ta còn niệm câu A Di Đà Phật
nữa. Đây là một sự thức tỉnh và nhắc nhở lẫn nhau để mỗi người nhớ lại
tâm nguyện của mình. Lúc nào cũng không quên vị Giáo chủ mà trong tương
lai mình sẽ gặp lại Ngài. Đồng thời, cũng đánh thức tâm thiện của mỗi
người, vì mỗi người đều sẵn có tính Phật.
Hiểu rõ ý nghĩa và biết thực hành hạnh Thường Bất Khinh, người con
Phật khẳng định niềm tin hướng đến trí tuệ giải thoát; biết thể hiện
thái độ khiêm cung của mình, nhờ đó mà dễ dàng tạo được sự hòa hợp; có
lòng kính trọng tất cả mọi người không phân biệt tuổi tác, địa vị xã
hội, trình độ học thức… vì hiểu rõ thực sự mọi người đều có những giá
trị đáng kính trọng, đó chính là giá trị của tuệ giác giải thoát, điều
đã được đức Phật nêu rõ khi dạy chúng sanh rằng, Ta là Phật đã thành,
còn các người là Phật sẽ thành.
Niệm Nam Mô A Di Đà Phật bởi vì danh hiệu đức Phật A Di Đà có nghĩa là:
a) Nam Mô: Sự tôn kính, cung kính, kính trọng, kính lễ,
b) A Di Đà Phật:
- A: là vô
- Diđà: là lượng
- Phật: là bậc giác Ngộ ,
* ADI ĐÀ PHẬT: có nghĩa là ( Kính lễ bậc Giác Ngộ Vô Lượng )
A Di Đà Phật = có 3 nghĩa:
Vô lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức. Cho nên trong Phật
giáo dùng danh hiệu Phật A Di Đà để chào hỏi và chúc phúc cho người đối
diện mình đang tiếp xúc, để thể hiện tính khiêm cung và kính trọng
trước Phật tính của mỗi người và cúi đầu là hạ cái bản ngã xuống trước
khi nói chuyện và chúc cho nhau trở thành bậc trí tuệ sáng suốt như
Phật.
- Vô lượng quang (trí tuệ vô lượng);
- Vô lượng thọ (sống lâu vô lượng);
- Vô lượng công đức (chúc công đức nhiều vô lượng) trong cuộc sống.
Hiểu được điều đó, ngay từ bây giờ - nếu chúng ta đã từng chào chau
thì cứ tiếp tục phát huy mạnh mẽ, nếu chưa hãy bắt đầu thực hành mỗi
khi gặp nhau; hãy chắp tay cúi đầu cung kính và chào nhau bằng câu: A Di
Đà Phật.
Theo Phật giáo Việt Nam