Một trong những
nét đẹp văn hóa của Ngài thường được nhân loại ngợi ca: đó là đời sống
phạm hạnh.
Đời sống phạm hạnh của đức
Phật được xông ướp bằng hương thơm của giới, định và tuệ. Chính vì vậy,
sức cảm hóa của Ngài đối với muôn loài thật diệu kỳ chưa từng có. Một ví
dụ điển hình cho khả năng cảm hóa đó, chúng ta dễ dàng thấy rõ qua hình
ảnh năm anh em Kiều Trần Như:
- Khi thấy đức Thế Tôn từ xa
đang đi đến vườn nai, năm vị đạo sĩ đã nói với nhau rằng: “Này các đạo
hữu, đạo sĩ Cù Đàm đang đi đến ta, đạo sĩ ấy xa hoa, không bền chí cố
gắng và đã trở lại đời sống lợi dưỡng. Đạo sĩ ấy không đáng cho ta niềm
nở tiếp đón, cung kính và phục vụ”. Vậy mà, lúc đức Phật bước từng bước
khoan thai đến gần, cốt cách oai nghi của đức Phật tự nhiên cảm hóa năm
anh em nhà họ và không ai bảo ai, người thì đến rước y bát, người thì
dọn chỗ ngồi…, để sau đó trở thành năm vị đệ tử Tỳ kheo đầu tiên của
Ngài.
Nguồn đạo hạnh thanh khiết
của đức Phật đã không ngừng lan tỏa và tưới mát cho các vị đệ tử, từ
người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác…, trở thành
một dòng chảy đạo hạnh miên viễn trong đời sống Tăng ni chúng ta.
Đạo hạnh của người xuất gia
được ẩn tàng trong ba ngàn oai nghi và tám muôn tế hạnh. Nhưng, suy cho
cùng thì sự biểu hiện của đạo hạnh được thể hiện rõ nét trên ba phương
diện: Thân - Khẩu - Ý và trong bốn oai nghi: Hành - Trụ- Tọa - Ngọa.
Xét ở phương diện của ý,
chúng ta thấy rằng: Ý là một phạm trù triết học có tính chất tiềm ẩn, vô
hình và luôn luôn biến động “Tâm viên ý mã”, cho nên thật khó mà nắm
bắt, nhận xét và đánh giá một cách đúng đắn về sự biểu hiện của đạo
hạnh. Tuy nhiên, ý lại có tác dụng chi phối và điều khiển hai phương
diện: Thân - khẩu. Chính vì vậy, khi một vị xuất gia sống với tâm ý
trong sáng, lành mạnh thì ắt hẳn thân và khẩu sẽ nhu hòa, tươi mát và
đem lại lợi lạc cho mình, cho đời. Trong kinh Pháp cú, phẩm Song Yếu,
Phật đã chỉ rõ điều đó:
Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói năng hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình.
Chính sự thu nhiếp tâm ý,
điều phục vọng tưởng, mà thân - khẩu của hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni được
thể hiện qua trạng thái rạng rỡ và an vui:
Người tâm ý an tịnh
Lời an nghiệp cũng an
Chánh trí chơn giải thoát
Tịnh lạc là vị ấy.
(PC. 96)
Hay nói cách khác, chính vì
sống đúng theo tinh thần của “Chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh niệm,
chánh định”, mà hình tướng của người xuất gia được thể hiện ra bên ngoài
đó là “Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng”. Ngược lại, thân và khẩu
thường được phòng hộ, luôn duy trì “chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng”
thì ý sẽ dễ dàng được điều phục. Đây là mối quan hệ hữu cơ biện chứng,
tác động qua lại lẫn nhau, hỗ tương cho nhau, để làm nên một đời sống
đạo hạnh của người đệ tử xuất gia.
Để sống đúng “Chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng”, hàng Tăng ni phải gìn giữ giới không sát
sanh, hại người, hại vật, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối…
Đối với đời sống trần tục, vì mưu sinh sự sống, vì sai lầm chấp ngã, nên
tâm ý và miệng lưỡi của con người quả thật đáng sợ, đó là điều tất
nhiên. Nguyễn Trãi - Vị anh hùng dân tộc- danh nhân văn hóa thế giới
phải não nuột thở than cho thế sự: “Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn -
Đường đời quanh tựa nước non quanh”. Còn hàng Tăng ni chúng ta sống dưới
“mái nhà giải thoát” thì lại lìa xa tam độc Tham Sân Si. Thường phòng hộ
các căn, thiểu dục tri túc, nói lời hòa ái, thiết tha tôn trọng sự sống,
yêu thương con người và muôn loài cây cỏ, sống một đời sống đạo hạnh,
thanh cao, trong trẻo. Thật cao quý biết bao!
Việc thọ trì giới luật của
Tăng ni được đặt nền tảng trên tình thương và sự hiểu biết, của Trí tuệ
và từ bi, của tự giác và tự nguyện, hoàn toàn vắng bóng tính gượng ép,
bắt buộc. Không những vậy, việc gìn giữ giới luật để nhiếp phục thân
khẩu ý còn cần phải được tiến hành một cách miên mật trong bốn oai nghi:
Hành, Trụ, Tọa và Ngọa. Đúng như lời các bậc cổ đức trong chốn tòng lâm
thường dạy: “Đi cũng thiền, nằm cũng thiền - Động tịnh nói nín thảy an
nhiên”. Mỗi bước đi của người xuất gia đều nhẹ nhàng, khoan thai, thảnh
thơi và tự tại. Trong lúc ngồi thì an ổn, vững chãi như núi Tu di. Khi
đứng thì đoan nghiêm, tề chỉnh và lúc nằm thì kín đáo, thanh tao.
Như vậy, chính đời sống đạo
hạnh, khéo hộ trì thân khẩu ý trong bốn oai nghi, mà thân và tâm của
nguời xuất gia luôn được thuần tịnh, an lạc và giải thoát:
“Lành thay phòng hộ thân
Lành thay phòng hộ lời
Lành thay phòng hộ ý
Lành thay phòng tất cả
Tỳ Kheo phòng tất cả
Thoát được mọi khổ đau.”
(PC. 361)
Đồng thời, được Trời và người
tán thán ngợi khen:
Ai nhiếp phục các căn
Như đánh xe Điều ngự
Mạn trừ lậu hoặc dứt
Người vậy chư Thiên mến.
(PC. 94)
Tóm lại, đạo hạnh của Tăng ni
là hệ quả của quá trình thanh lọc, điều phục thân khẩu ý trong tứ oai
nghi hằng ngày của đời sống. Chính những lời nói thanh tao, những hành
động hướng thiện, những ý nghĩ chơn chánh của người xuất gia, đã làm nên
nét đẹp văn hóa đặc thù của Phật giáo. Nó là đường vẽ chấm phá tuyệt hảo
trong bức tranh văn hóa muôn màu của đạo Phật. Nói theo thuật ngữ của
ngành Mỹ học, thì đạo hạnh của người xuất gia chính là “Cái Đẹp”, “Cái
Cao Cả”. Nói theo ngôn từ nhà Phật, thì đó là đời sống “Chân, thiện,
mỹ”. Đạo hạnh của Tăng Ni như đóa hoa ưu đàm bát la tươi mát, cứ mãi
lung linh, trôi chảy trong dòng văn hóa Phật giáo, tỏa hương thơm an
lành, giải thoát khắp muôn phương:
Hương các loài hoa thơm,
Không ngược bay chiều gió.
Nhưng hương người đức hạnh,
Ngược gió khắp tung bay.
( PC. 54)
---o0o---
Nguồn:
Nội San Phật Thành Đạo, Khánh Hòa