Đức Phật thuần hóa voi say
Thai
sanh là hữu tình sanh ra bằng bào thai, như loài người, trâu, bò, ngựa,
voi, heo, dê… Noãn sanh là hữu tình sanh ra từ trứng như chim, cá, gà,
vịt, rùa… Thấp sanh là loài hữu tình sanh ra từ chỗ ẩm ướt như trùng,
dế, sâu bọ… Hóa sanh là loài hữu tình từ nơi không mà hiện ra như chư
Thiên, loài ở địa ngục…; hoặc chúng từ một giống vật này hóa ra giống
vật khác như con tằm hóa thành con bướm, con lăng quăng hóa thành con
muỗi…
Trong lục đạo: Trời, người, A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, thì những người đã thành tựu pháp Thập thiện, sau khi chấm dứt
thân người, họ được sanh lên cõi Trời Dục, Sắc, Vô sắc và được hưởng sự
sung sướng hơn cõi người rất nhiều; nhưng sau khi hưởng hết phước báo,
họ cũng bị đọa xuống các cảnh giới khác thấp hơn tùy theo nghiệp lực dắt
dẫn.
Và trên ba cõi ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, có cảnh giới A-tu
-la; đó là nơi mà người có nhiều phước báo ở nhân gian, nhưng vì còn
nhiều sân hận, nên sau khi chết, họ tái sanh vào cõi này.
Riêng về con người, có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng phần lớn mang
tính bi quan, vì cảm thấy con người bị chà đạp, thấp kém, khổ đau.
Thật vậy, một số tôn giáo nói rằng con người do Thượng đế tạo ra
và ngài toàn quyền sử dụng con người, hoặc tống người ta vào hỏa ngục,
hoặc ân sủng cho lên thiên đường. Đó là quan niệm thứ nhất.
Quan niệm thứ hai thấy con người bé nhỏ giữa vũ trụ bao la, nên
luôn lo sợ tất cả, trước mắt là sợ rắn rít, bò cạp đều giết được mình.
Và từ tâm sợ hãi với thân phận con người bé nhỏ, yếu đuối, bất lực mà
nhìn lên cảm thấy thế giới thần linh bao phủ con người, nên nghĩ rằng
con người phải nương tựa vào thần linh, cao nhất là Thượng đế, cho đến
mặt trời, mặt trăng, thần sông, thần núi đều có thể che chở mình, hay
hại mình. Do đó, phát sinh ra quan niệm thứ ba là sùng bái thần linh.
Với những quan niệm như trên, xem con người là sản phẩm của tạo hóa và
chỉ là sinh linh bé nhỏ nên con người luôn lo sợ trước tất cả mọi hoàn
cảnh xảy ra.
Nhưng may mắn cho loài người, có Đức Phật ra đời và Ngài dạy
rằng niềm tin như vậy là mê tín, mù quáng, cũng như Vô Não nghe tà đạo
bảo giết người được lên thiên đường mà cũng tin theo.
Với tuệ giác mà Phật đã chứng đắc, Ngài đưa ra quan niệm thay
đổi lớn lao nhất và tốt đẹp nhất về loài người, Ngài nói rằng con người
có thể quyết định tất cả, có thể làm Thượng đế nếu biết tạo cho mình tư
cách và khả năng của Thượng đế, hoặc cũng có thể chỉ có mạng sống nhỏ bé
nếu tự tạo cho mình thân phận kém cỏi.
Chúng ta có thể quan sát thân phận con người ở mặt vật chất và tâm
linh. Nhìn ở dạng vật chất, Đức Phật nói chúng ta có thể phát huy khả
năng đến đỉnh cao, tạo dựng được cuộc sống tốt đẹp theo ý mình.
Thật vậy, tổ tiên ông cha của chúng ta ở thời kỳ xa xưa gọi là
thời đồ đá đã biết đập vỡ đá để chế ra những dụng cụ thô sơ như búa,
rìu… Nghĩa là về phương diện vật chất, con người đã có lối thoát cho
cuộc sống dễ dàng hơn, thể hiện trí khôn con người đã phát sinh.
Đức Phật dạy rằng con người là tối linh, có trí khôn vượt hơn
các loài khác; nếu không thông minh, chắc chắn con người không phát
triển đời sống lên đỉnh cao được, mà muôn đời vẫn sống như con ong, cái
kiến.
Rõ ràng con người từ thời kỳ sơ khai với thân phận ăn lông ở lỗ
đã phát triển cuộc sống lần lần cho đến thời đại văn minh khoa học ngày
nay. Điều này cho thấy con người đã tự trải qua cuộc sống tiến hóa do
chính đôi tay và khối óc của con người làm nên, chứ con người không phải
là sản phẩm của Thượng đế. Chúng ta nhận thấy lời Đức Phật dạy từ nghìn
xưa vẫn có giá trị tương ưng với sự hiểu biết của nhân loại ở thời đại
văn minh tột bậc ngày nay.
Về sự tiến hóa tâm linh của con người quan trọng hơn, mà khoa
học chỉ chứng minh được một phần nhỏ. Kinh Hoa nghiêm dạy rằng tâm sanh
ra tất cả các pháp. Vì vậy, cần tịnh hóa tâm mình và phát huy năng lực
của tâm thành trí tuệ sáng suốt hoàn toàn; đó là việc mà con người thực
hiện được. Tâm làm chủ là như vậy.
Theo Phật có thiện tâm sở và ác tâm sở; còn tâm vương muôn đời
không thay đổi. Phật dạy rằng Phật tánh, hay bản tánh sáng suốt của con
người vẫn thế, khi chúng ta thành Phật, Phật tánh này không tăng, mà khi
chúng ta trầm luân trong sinh tử vì bị nghiệp và phiền não che mờ, Phật
tánh này cũng không giảm.
Khi mang thân ngũ uẩn, chúng ta đã có năm bức màn ngăn che, cho
nên Phật dạy phải tháo gỡ lần năm bức màn này. Cứ bớt một phần vô minh
là một phần trí tuệ sanh ra và bỏ được hoàn toàn năm bức màn ngăn cách
này, chúng ta sáng suốt hoàn toàn.
Trên bước đường tu, việc phá vô minh, chứng được Pháp thân thì
mỗi người đều khác nhau. Người phá được một phần vô minh là La-hán, phá
được hai phần vô minh là Bích chi Phật, phá được nhiều hơn nữa là Bồ-tát
và phá được hoàn toàn vô minh là Phật. Đó chính là sự thăng tiến tâm
linh rất quan trọng.
Phá một phần vô minh thành La-hán, thành Thánh, nên không phạm
sai lầm, không còn tham vọng chi phối, họ không bao giờ có khổ đau và
cũng không ai có thể làm họ khổ đau. Vì vậy, chưa đắc La-hán chưa ra
khỏi sinh tử, chúng ta phải nỗ lực tối đa, không ngừng phát huy đời sống
tâm linh để đạt đến mức độ tu chứng này, để không bị trầm luân sinh tử,
không bị xã hội chi phối, không bị dục vọng sai khiến.
Phá được tụ vô minh thứ nhất là phá được kiến hoặc, mới thành
Thánh quả, thấy không sai lầm. Tôi nghiệm ra ý này. Khi chưa biết tu,
thường nghĩ tại sao mình bị nghèo nàn, bệnh hoạn, xấu xí, tại sao thân
phận con người lại như vậy. Nếu Thượng đế sanh ra ta như thế thì rõ ràng
ngài bất công. Tại sao ông kia làm tổng thống, còn mình làm nô lệ.
Không bằng lòng tình trạng bất công này, mình nổi giận, chống đối và lao
vào việc tội lỗi để mong đạt được kết quả tốt.
Nhưng bình tâm nhìn kỹ sẽ nhận thấy phần nhiều việc chống đối
đều phát xuất từ lòng sân hận. Đó là điều cấm kỵ nhất đối với người tu
hành, vì Phật dạy chúng ta nhẫn, chứ không phải sân. Sân là chúng ta lạc
vào cảnh giới của A-tu-la, phải thọ quả báo.
Chúng ta còn nhớ kinh Địa Tạng nói rằng có những người ở địa ngục này mãn thì qua địa ngục khác, cứ như vậy muôn đời phải đau khổ. Do vậy, kinh Bát đại nhân giác nhắc chúng ta rằng: “Phá địa ngục muôn trùng kiên cố, thoát thành sầu cùng khổ ấm duyên”.
Tuy thân tứ đại mong manh, vô thường và ngũ uẩn chi phối mãnh
liệt con người; nhưng đánh mất ngũ uẩn thân là cả vấn đề nguy hiểm, khi
hành giả chưa đắc đạo.
Đức Phật dạy rằng thân con người rất quý và rất khó tạo được
trong kiếp luân hồi. Nó là phương tiện tốt nhất giúp chúng ta tu hành,
đạt quả vị Toàn giác. Trong khi các loài khác không thành Phật được, vì
chúng không có đủ ngũ uẩn thân như loài người. Vì thế, Đức Phật dạy
chúng ta phá được cái khổ của thân tứ đại, phá được ngũ uẩn sẽ ra khỏi
sinh tử luân hồi.
Phá ngũ uẩn, đầu tiên là phá sắc uẩn trước. Chúng ta làm sao
phát huy tâm linh và đạo đức để không bị vật chất chi phối. Thử mặc đơn
giản và sống đạm bạc để xem mình có cần nhiều vật chất hay không. Có
người chỉ cần một ít tiền cũng sống được, trong khi có người đòi hỏi vài
chục triệu mới đủ sống thì ai hơn ai. Người bị vật chất và tham vọng
chi phối quá nặng, bao nhiêu cũng không đủ, nếu biết thoát ly vật chất,
họ sẽ được nhẹ lần.
Phá được sắc uẩn, chủ yếu là không bị đói khát, nóng lạnh chi
phối. Có người hiểu lầm rằng đắc Thánh quả thì thân vật chất không còn
bị nóng lạnh đói khát. Không phải như vậy. Người tu nếu nhịn ăn lâu,
thân thể cũng bị khô kiệt. Chúng ta thấy những vị Thiền sư đắc đạo không
ăn để cho thân khô gầy đến chết, thành xá lợi. Bình thường nhịn ăn lâu
hơn một trăm ngày thì chết, nhịn uống nước mười ngày thì chết.
Vị Thánh La-hán vượt ngoài sống chết, vì đã sống với đời sống
tâm linh, thân tứ đại của họ có chết, nhưng đời sống tâm linh không
chết. Họ nhập định, không biết đến thân vật chất, vì đã sống được với
thân thứ hai là đời sống tâm linh.
Tu hành, bước vào cửa đạo, tức phải có đời sống tâm linh; đừng
kẹt vật chất mà muôn đời khổ đau. Để một chân ở vật chất và bước một
chân vào tâm linh, thì người này còn ăn uống, nhưng ăn thực phẩm nào
cũng được, ngủ qua đêm là xong. Còn kẹt vào việc ăn uống, ăn ngon sẽ
sanh tâm vui mừng, ăn dở thì bực bội, khổ sở. Phật nói con người phàm
phu hết vui đến khổ là vậy. Theo Phật, chúng ta thoát ly được khổ đau,
dù chư Thiên có đem thức ăn đến cho, mình vẫn thấy bình thường.
Còn một chân ở ngoài, nghĩa là chúng ta còn thân tứ đại. Đối với
bậc Tổ sư như Ngài Đạt Ma, thân tứ đại ví như chiếc giày rách bỏ lại
trong kim quan, Ngài quảy một chiếc về Tây Trúc; nói cách khác, về Tây
Trúc với chân linh muôn đời trong sáng hoàn toàn.
Đối với chúng ta, nếu một chân đi vào tâm linh, một chân ở trần
thế, thì khi hết duyên hành đạo ở Ta-bà, chúng ta rút luôn cái chân ở
thế giới này để về cõi chư Thiên, hay về Cực lạc tùy theo nhân hạnh mình
đã tu tạo được.
Đầu tiên phá được ngũ uẩn, đoạn được kiến hoặc phiền não là mười
điều do mắt thấy tai nghe. Đoạn được kiến hoặc thì ví như người gỗ ngắm
chim vẽ. Người tu cũng vô tâm như vậy. Thực tập pháp này, tôi cảm giác
mình cô độc giữa rừng người. Vì mình vô tâm, người xung quanh tốt hay
xấu, có hại mình, mình cũng không biết; đó là một chân đã bước vào cửa
Không. Bước được một chân vào cửa Không, mới tiếp nhận được tinh ba của
pháp Phật, Pháp thân chúng ta mới lớn lên.
Còn hai chân đứng ở trần thế rất nguy hiểm; vì như vậy, thân bị
vật chất trói buộc, tinh thần thì toàn là khổ đau, tham sân si, sẽ dẫn
đến cuộc sống sân hận và đòi hỏi của chúng ta mỗi ngày nhiều hơn. Do
vậy, những tâm xấu chỉ đạo những việc làm xấu tự phát triển mãi, thì tu
lâu vẫn khổ, vì không bước chân được vào đạo. Hòa thượng Thanh Từ nhắc
rằng nếu còn ở ngoài cổng chùa sẽ có đủ thứ chuyện, nhưng bước vào cổng
chùa là cửa Không, tâm hoàn toàn an lạc.
Trong ngũ uẩn, phá sắc uẩn để đi vào được cửa Không, không bị
vật chất chi phối, là có đời sống tâm linh. Nhưng được như vậy rồi, quán
sát lại, thấy nghiệp chướng phiền não trần lao dẫy đầy là tham, sân,
si, mạn, nghi, ác kiến và 20 tùy phiền não là phẫn, hận, phú, não, tật,
xan, cuống, siễm, hại, kiêu, vô tàm, vô quý, trạo cử, hôn trầm, bất tín,
giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.
Trên bước đường tu, tôi quán sát xem trong những phiền não kể
trên, có tên nào loại trừ được thì loại bỏ liền; đuổi được một tên giặc
ra khỏi tâm mình, liền cảm thấy nhẹ.
Phiền não căn bản chưa triệt tiêu được, thì từng bước mình chặt
bớt phần rễ cây của nó, đồng thời trồng thêm những cây quý, tức đem 11
thiện tâm sở vào là tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, tinh tấn,
khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại, để mình có đạo quân Hiền
Thánh.
Thiết nghĩ chúng ta tu hành, không làm cho cuộc đời này tốt thêm
thì cũng không nên làm xấu thêm, không giúp được ai thì cũng không nên
làm cho người khác đau khổ. Những lỗi lầm quá khứ, kiếp này chúng ta
trả, những việc sai lầm hiện tại chúng ta không tạo; như vậy cuộc sống
tương lai của chúng ta sẽ được tốt lần, là thăng tiến trên đường đạo.
Thiện tâm sở mà tôi thường thực hiện và phát huy là tâm bất hại.
Nghĩa là trên từ Phật, Thánh nhân, cha mẹ, thầy, cho đến loài chúng
sanh hạ đẳng như con kiến, con muỗi, mình cũng không làm tổn hại. Khi
thiện tâm sở của chúng ta sanh ra được như vậy, sẽ thấy cái gì cũng dễ
thương, muôn loài đều đáng thương, cần được chúng ta giúp đỡ. Từ đó, tâm
từ bi của chúng ta nảy sinh được thì Phật hộ niệm cho chúng ta.
Còn chúng ta mong Phật gia hộ, nhưng mình không có tâm nào giống
Phật, làm sao Phật phò hộ được, ví như hai khối kim loại ráp với nhau
mới truyền điện được, một khúc gỗ và miếng kim loại nối với nhau, điện
không thể truyền qua được. Chúng ta không có tâm thương người, làm thế
nào tình thương của Phật truyền đến mình được. Vì vậy, tu hành trên nền
tảng của tâm bất hại, chúng ta mới phát huy được đức tánh tốt của mình.
Đối với tâm tham, sân, si thì luyện cho được vô tham, vô sân, vô
si. Để không tham, Phật dạy phải xả, là bỏ bớt. Phật bỏ tất cả để được
tất cả; chúng ta bỏ một phần thì được một phần, bỏ nhiều thì được nhiều,
còn cố giữ sẽ bị mất trắng.
Nhận thức như vậy, chúng ta không khởi vọng tâm tham đắm; vì
tham những gì không phải của mình sẽ khổ nhiều, không thấy đúng hoàn
cảnh của mình mà muốn làm trên sức mình, phải thất bại. Người đời cũng
thường nói: “Chim tham ăn sa vào lưới. Cá tham mồi mắc phải lưỡi câu”.
Chúng ta đã vượt được kiếp cầm thú, ra khỏi ba đường ác và cảnh
giới A-tu-la, được mang thân người là có điều kiện tu hành, phải nhân cơ
hội tốt đẹp của con người phát huy lên ở tầng cao mới, tức chuyển hóa
thân tâm con người bình thường trở thành Hiền Thánh.
Bước đầu trong cuộc sống, không tham thì cái gì của ta, ta giữ;
không phải của ta, ta bỏ. Thậm chí, cái của ta dù có bỏ vẫn là của ta,
không phải của ta mà cố giữ cũng mất.
Cái của ta là tình thương chân thật giữa người và người, giữa
người và vật. Mình thương ai thì họ sẽ thương lại mình. Mình không
thương người mà muốn người thương mình, hoặc có tham vọng bắt người làm
nô lệ, làm sao được. Phải trải rộng tình thương.
Thể hiện tinh thần này, Đức vua Trần Nhân Tông ra lệnh thả tất
cả cung phi mỹ nữ hầu hạ Ngài và cung cấp tiền bạc, tạo điều kiện cho họ
trở về lập gia đình. Đối với Ngài, những thứ đó không cần, Ngài bỏ một
cách nhẹ nhàng và khoác áo Sa-môn, sống cuộc đời thanh đạm, một y một
bát, nhưng khuyến hóa được mọi người. Sống đúng theo tinh thần Phật dạy,
Ngài đắc đạo và phát huy tuệ giác. Ngài vừa là bậc minh vương, vừa là
vị anh hùng của dân tộc và trở thành vị Tổ thực sự của chúng ta.
Thật vậy, Ngài viên tịch đã hơn 700 năm, nhưng uy đức của Ngài
đã tác động cho Giáo hội chúng ta và Nhà nước kết hợp tổ chức cuộc lễ kỷ
niệm ngày Đức vua Niết-bàn rất long trọng có gần một ngàn bài phát
biểu. Hầu như mọi bài đều ca ngợi Đức vua Trần Nhân Tông về công đức tu
hành, về việc trị nước lo cho dân hoàn toàn tốt đẹp. Vì vậy, Giáo hội
chúng ta đề nghị mỗi chùa ở đất nước chúng ta nên thờ Đức vua Điều ngự
Giác hoàng Trần Nhân Tông là vị Tổ duy nhất người Việt Nam.
Thiết nghĩ chúng ta là người Việt Nam thì tôn thờ vị Tổ Việt Nam
là điều hợp lý và Đức vua Trần Nhân Tông quả là bậc đầy đủ trí tuệ và
hạnh đức xứng đáng để chúng ta tôn thờ là vị Tổ sư của chúng ta.
Tóm lại, Đức Phật Thích Ca là một Ứng Phật hiện hữu trong loài
người, với mục đích chỉ dạy mọi người thoát khỏi sinh tử luân hồi và đạt
được quả vị Phật như Ngài. Tuy Phật cũng mang thân ngũ ấm như mọi
người; nhưng Ngài thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì
Ngài đã trải qua quá trình tu bồi, phát triển những việc làm đạo đức và
trí tuệ. Nhờ đó, kết thành Báo thân, ảnh hưởng đến nhiều người làm theo
sự chỉ dạy
Ngày nay, tuy Đức Phật vắng bóng trên cuộc đời, nhưng Ngài là bậc Toàn năng, Toàn giác và tĩnh lặng hiện hữu trong Pháp giới.
Bước theo dấu chân Phật, chúng ta phát huy trí giác và đức hạnh
của mình để mang lại lợi ích cho xã hội, cho nhân loại có được cuộc sống
an lạc, hiểu biết, thương yêu, phát triển và hòa bình trên trái đất
này. Đến khi mãn duyên hành đạo ở Ta-bà, chúng ta trở về thế giới chơn
thường cùng Đức Phật vĩnh hằng bất tử.
HT.Thích Trí Quảng
https://giacngo.vn