- Khi nguyện cho người khác hạnh phúc, chính trong lúc đó tâm ta
thoát khỏi những tình cảm tiêu cực như đố kỵ, ích kỷ, ghét bỏ… Khi ấy
chúng ta xóa bỏ được, dù chỉ là tạm thời, sự phân biệt chia cách kiên cố
giữa ta và người khác. Chính sự thoát khỏi những ràng buộc tiêu cực
nặng nề này đưa chúng ta đến miền đất chung của hạnh phúc.
- Với hành động nguyện cho, tâm thức chúng ta được nâng cao và
mở rộng. Nói cách khác, tâm thức chúng ta được chuyển hóa một phần từ
tiêu cực sang tích cực. Điều này đem lại sự an vui cho tâm.
- Khi nguyện cho người khác được hạnh phúc, chúng ta phải nghĩ đến
hạnh phúc an vui chứ không phải khổ đau tranh chấp. Sự nghĩ đến hạnh
phúc này làm tâm được thấm nhiễm hạnh phúc.
Khi mong muốn tốt đẹp cho người khác, sự tốt đẹp ấy có mặt trong tâm
ta. Như cầm một bông hoa cho ai, tay ta cũng thấm đôi phần mùi hương của
nó, mắt ta cũng thưởng thức được hình sắc của nó. Tóm lại, chúng ta
sống bằng những ý tưởng của mình. Sống bằng ý tưởng lạc quan, thiện ý
thì có hạnh phúc. Ý tưởng bi quan, ác ý thì phiền não khổ đau.
- Nguyện cho người khác được hạnh phúc làm tuôn trào từ bi hỷ xả.
Khai mở từ bi hỷ xả là khai mở nguồn hạnh phúc. Được bao trùm trong
nguồn từ bi hỷ xả ấy, chúng ta trải nghiệm mình và người là một, mình
và thế giới là một.
Qua vài nhận xét trên, chúng ta thấy cách để có được hạnh phúc an vui
mà ít tùy thuộc điều kiện nhất, nghĩa là tựdo nhất, là nguyện cho người
khác được hạnh phúc. Điều này chỉ tùy thuộc vào tâm chúng ta mà không
tùy thuộc vào những điều kiện hoàn cảnh bên ngoài như giàu nghèo, địa
vị, rỗi rảnh hay bận rộn, đang phiền não hay đang vui vẻ… Thế nên,
nguyện là một quyền lợi sẵn có, không cần ai chế định, cho phép. Nguyện
là quyền lợi để có được hạnh phúc bất cứ lúc nào thay vì là một bổn phận
mỗi ngày phải tuân thủ. Nguyện là chìa khóa mở ra những kho tàng hạnh
phúc chờ đợi được khai thác nằm trong mỗi người, bất kể hoàn cảnh, địa
vị, tuổi tác, giàu nghèo…
“Mong cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc và có được những nguyên nhân của hạnh phúc,
“Mong cho tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân của khổ đau,
“Mong cho tất cả chúng sanh không bao giờ xa lìa hỷ lạc bao la vượt khỏi mọi khốn khổ,
“Mong cho tất cả chúng sanh luôn luôn ở trong sự buông xả siêu thoát mọi thương ghét”.
Đây là bốn lời nguyện Từ Bi Hỷ Xả. Bất cứ khi nào chúng ta phát khởi những lời nguyện này, chúng ta liền có an vui.
Một người muốn tự hoàn thiện thì luôn luôn sống trong nguyện cho
người khác được hạnh phúc, bất cứ đang làm gì trong sinh hoạt hàng ngày:
“Khi cho thức uống, thức ăn, y phục, nguyện cho tất cả chúng sanh
uống được nước pháp vị…, dứt sự khát ái thế gian, thường cầu trí giác
ngộ, lìa cảnh dục, được sự hoan hỷ của pháp. Nguyện cho tất cả chúng
sanh được một vị thấu rõ các Phật pháp đều không sai khác. Nguyện cho
tất cả chúng sanh được y phục ‘biết hổ thẹn’ để che thân, bỏ lìa tà kiến
ác pháp, da thịt mịn màng, nhan sắc tươi sáng, thành tựu cái vui đệ
nhất của bậc Giác Ngộ…”.
“Nguyện tất cả chúng sanh rốt ráo ra khỏi những phiền não. Nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn thân bịnh, được thân Như Lai”.
“Nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn tất cả khổ não bức bách, thành
tựu năng lực tự tại an vui. Nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn những khổ
đau, được tất cả hoan hỷ, dứt hẳn thân khổ được thân thanh tịnh an vui.
Nguyện tất cả chúng sanh dứt hẳn các sự khổ, không có lòng oán hận, luôn
thương mến nhau…”.
Toàn bộ phẩm Thập hồi hướng, kinh Hoa Nghiêm là những lời nguyện
như vậy. Cho đến sự hoàn thiện cao rộng nhất là Mười Hạnh Nguyện của
Bồ-tát Phổ Hiền trong phẩm cuối của kinh Hoa Nghiêm. Mười Hạnh Nguyện
này phát khởi từ pháp tánh, lưu xuất từ pháp tánh, nên là một với
pháp tánh, nghĩa là trùm khắp vũ trụ; và do đó, chuyển hóa vũ trụ thành
pháp giới Hoa Nghiêm.
Một đời sống bình thường của chúng ta càng có nhiều ‘nguyện cho’ thì
càng được thăng hoa thành hạnh phúc. Đời sống của chúng ta càng thấm đẫm
những nguyện cho thì đời sống ấy càng thấm đẫm hạnh phúc. Cuộc đời của
chúng ta càng ngày càng giàu có những nguyện cho này; càng ngày càng
giàu có hạnh phúc.
Mỗi người chúng ta đều tự do xông ướp đời mình bằng những nguyện
cho, để được sống trong “đại dương hạnh phúc vì lợi lạc cho tất cả những
gì đang sống”:
Nguyện tôi là người bảo vệ cho những ai không có sự bảo hộ.
Là người hướng dẫn cho những ai đang đi trên đường. Với những ai muốn băng qua dòng sông,
Nguyện tôi là một con thuyền, một chiếc bè, một cây cầu.
Nguyện tôi là một hòn đảo cho những người mong mỏi bến đậu,
Một ngọn đèn cho những ai mong ngóng ánh sáng,
Là một cái giường cho những ai cần đặt lưng ngơi nghỉ. Nguyện tôi
là một tôi tớ cho những ai cần sai bảo. Nguyện tôi là một viên ngọc như
ý, một cái bình đáp ứng những mong muốn,
Một lời thần chú, và một cây thuốc. Nguyện tôi là một cây ban điều ước muốn, Là con bò ước cho tất cả chúng sanh.
Cũng như đất và những nguyên tố khác, Tồn tại như hư không tồn tại
Cho vô số chúng sanh đang sống
Nguyện tôi là nền tảng và phương tiện cho đời sống của họ.
Như thế, đối với bất cứ vật gì đang sống
Trong khắp không gian mười phương
Nguyện tôi là sự nuôi sống và chất bổ dưỡng của họ
Cho đến khi tất cả họ vượt qua khỏi những biên giới của khổ đau.
(Đi vào Bồ tát hạnh của Shantideva, chương 3)
Được làm một cây thuốc, một viên ngọc như ý, một cái bình đáp ứng
những mong muốn, làm bốn nguyên tố đất nước lửa không khí thiết yếu cho
sự sống của chúng sanh, là sự nuôi sống và chất bổ dưỡng cho tất cả
những gì đang sống…, điều đó là hạnh phúc lớn nhất mà một con người
có thể ước mong (nguyện) và thực hiện (hạnh). ■
NGUYỄN THẾ ĐĂNG | Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo Xuân 145