Kinh Tương Ưng Nhân Duyên (Tương
Ưng Bộ Kinh II; Tập 12, 16, Đại 2, 85a), Kinh Phật Tự
Thuyết (Udàna), (Tiểu Bộ Kinh I, Bản dịch của H.T. Minh Châu
1982), Kinh Đại Bổn (Trường Bộ Kinh III) và Kinh Đại Duyên
(Trường Bộ Kinh III) là các kinh bàn rõ về giáo lý Duyên
khởi.
Theo Kinh Tương Ưng Nhân Duyên (Tương
Ưng Bộ Kinh II), Thế Tôn Tỳ-bà-thi (Vipassi), sáu Thế Tôn
tiếp theo Thế Tôn Tỳ-bà-thi trong quá khứ, Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni
và cả chư Thế Tôn trong vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng
Bồ-đề từ giáo lý Duyên khởi.
Tại sao giác ngộ Duyên khởi là
giác ngộ tối thượng? -- Nếu không muốn nói là "Pháp
nhĩ như thị" (Pháp vốn như vậy) thì câu trả lời
giản dị nhất là Duyên khởi nói lên thực tính của các
pháp. Thực tính ấy là Duyên sinh tính hay Vô ngã tính. Trung
Bộ Kinh I, số 28; Tương Ưng III, tr. 144 và Tiểu Bộ I, tr.
48, chép lời Thế Tôn: "Ai thấy Duyên khởi là
thấy Pháp. Ai thấy Pháp là thấy Phật (Ta)."
Thấy Phật quả là sự giác ngộ tối thượng.
Nếu đi vào phân tích giáo lý, thì
từ giáo lý Duyên khởi ta thấy rõ vô ngã tính của các pháp.
Vô ngã là giáo lý độc đáo nhất của Phật giáo, độc đáo
nhất của lịch sử Tôn giáo và tư tưởng của nhân loại,
làm nền tảng chủ yếu cho các giáo lý Bắc tạng và Nam
tạng.
Giữa khi sáu mươi hai học
thuyết Ấn Độ chấp ngã và ngã sở, giữa khi nhân loại
chấp thủ ngã và ngã sở, bị chìm sâu vào vòng sinh tử
khổ đau, thì tiếng nói Duyên sinh Vô ngã phải là tiếng nói
của giác ngộ, giải thoát khổ đau.
Duyên khởi là gì? Thế Tôn định
nghĩa:
"Do vô minh, có hành sinh;
do hành, có thức sinh; do thức, có danh sắc sinh; do danh
sắc, có lục nhập sinh; do lục nhập, có xúc sinh; do xúc,
có thọ sinh; do thọ, có ái sinh; do ái, có thủ sinh; do
thủ, có hữu sinh; do hữu, có sinh sinh; do sinh, có lão
tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh, hay toàn bộ khổ uẩn
sinh. Đây gọi là Duyên khởi (hay Duyên sinh)." (Tương
Ưng Bộ Kinh II, tr. 1-2).
"Do đoạn diệt tham ái,
vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt; do hành diệt nên
thức diệt; ...; lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như
vậy là toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Này các Tỳ-kheo,
như vậy là đoạn diệt." (Ibid. tr. 1-2)
Khi mười hai nhân duyên sinh khởi
thì đồng nghĩa với toàn bộ khổ uẩn khởi. Khi mười hai
nhân duyên diệt hay gọi là mười hai nhân duyên đoạn
diệt thì đồng nghĩa với toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt.
Tất cả đó gọi là Duyên khởi, là sự thật về sự có
mặt của các pháp, đã được Thế Tôn xác nhận:
"Pháp Duyên khởi ấy, dù
có Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện, an trú là
giới tánh ấy, pháp quyết định tánh ấy, y duyên tánh
ấy. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt định lý
ấy. Sau khi hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt, Như Lai tuyên
bố, tuyên thuyết, khai triển, khai thị, phân biệt, minh
hiển, minh thị."
Ngài dạy:
"Duyên vô minh, này các
Tỳ-kheo, có các hành, v.v... Như vậy, này các Tỳ-kheo, ở
đây là như tánh, bất hư vọng tánh, bất dị như tánh, y
duyên tánh ấy. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là Duyên
khởi." (Ibid. tr. 31).
Về bốn danh từ nói về lý Duyên
khởi ở trên, được tập sớ giải thích như sau: lý Duyên
sinh này trú như vậy, không có một sanh, già, chết, v.v... nào
không có duyên sinh (paccaya). Do duyên nên có các pháp khởi lên,
tồn tại, do vậy nên gọi là Pháp trú tánh ấy
(Dhammatthitata). Các duyên ra lệnh hay an trú các pháp, do vậy
được gọi là pháp quyết định tánh. Các duyên của sanh
già v.v... là các duyên đặc biệt gọi là y duyên tánh.
Thế nào là duyên sinh pháp (hay pháp do duyên sinh)?
-- "Gọi là duyên sinh pháp
là các pháp được tác thành, hữu vi, biến hoại, tan rã,
đoạn diệt, vô thường." (Ibid, tr. 31).
Trong Kinh Phật Tự Thuyết (Tiểu
Bộ I, tr. 291), nguyên lý Duyên khởi đã được Thế Tôn tóm
tắt:
-- Do cái này có mặt nên cái
kia có mặt.
-- Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.
-- Do cái này sinh nên cái kia sinh.
-- Do cái này diệt nên cái kia diệt.
Trong kinh Đại Duyên (Trường Bộ
III), khi Tôn giả A-nan ca ngợi giáo lý Duyên khởi thâm thúy,
thì Thế Tôn lại nhấn mạnh hơn: "Này Ananda, chính
vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp Duyên khởi này
mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một tổ kén,
rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và lau sậy
babaja, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ,
sinh tử." (tr. 56)
Để hiểu rõ Duyên khởi hơn, chúng
ta cần đi vào ý nghĩa của từng chi phần trong mười hai
duyên, và đi vào một số vấn đề được đặt ra với Duyên
khởi.
-- Lão, tử (Jaràmarana):
"Cái gì thuộc các loài chúng sinh bị già, yếu, suy nhược,
răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ lớn, các căn chín
muồi thì gọi là già. Cái gì thuộc các loài chúng sinh
bị từ bỏ, hủy hoại, tiêu mất, các uẩn tàn lụn, thân
thể vứt bỏ, tử vong thì gọi là chết." (Ibid. tr.
3).
-- Sinh (Jàti): "Cái
gì thuộc các loài chúng sinh bị sanh, xuất sinh, giáng
sinh, đản sinh, xuất hiện các uẩn, thành tựu các xứ thì
gọi là sinh." (Tương Ưng II, tr. 3).
-- Hữu (Bhava):
"Dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu, gọi là
hữu." (Tương Ưng II, tr. 3).
-- Thủ (Upàdàna):
"Có bốn thủ: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và
ngã luận thủ." (Ibid, tr. 3).
-- Ái (Tanhà):
"Sắc ái, thanh ái, hương ái, vi ái, xúc ái, pháp ái;
hay: dục ái, sắc ái và vô sắc ái." (Ibid, tr. 3).
-- Thọ (Venada): "Có
sáu thọ, thọ do nhãn xúc sinh, thọ do..., và thọ do ý xúc
sinh." (Ibid, tr. 3).
-- Xúc (Phassa): "Có
sáu xúc: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc
và ý xúc." (Ibid, tr. 3).
-- Sáu xứ (chabbithàna):
"Gồm sáu nội xứ (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý
căn) và sáu ngoại xứ (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp)."
(Ibid, tr. 4).
-- Danh sắc (Nàma-rùpa):
"Danh gồm xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư (có nơi trình
bày Danh gồm có thọ, tưởng, hành và thức uẩn). Sắc là
tứ đại và các pháp do tứ đại sanh." (Ibid, tr. 4).
-- Thức (Vinanàna):
"Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân
thức và ý thức." (Ibid, tr. 4).
-- Hành (Sankhara):
"Gồm có thân hành, khẩu hành và ý hành."
-- Vô minh (Avijja):
"Không hiểu rõ Tứ đế gọi là vô minh (Tương Ưng
II, tr. 4). Có thể phát biểu cách khác rằng, không hiểu
Duyên khởi, vô ngã là vô minh."
Khi Thế Tôn giảng về Duyên
khởi, Tôn giả Moliya Phagguna hỏi, "Bạch Thế Tôn, ai
cảm xúc? Ai thọ? Ai khát ái? Ai chấp thủ?" (Tương Ưng
II, tr. 15-16). Thế Tôn dạy: "Như Lai chỉ dạy xúc,
thọ, ái, thủ..., chớ không dạy người nào xúc, thọ..., nên
các câu hỏi đó không phù hợp với định lý Duyên khởi.
Câu hỏi phù hợp lý Duyên khởi phải là: Do duyên gì xúc
sinh, thọ sinh? v.v..." (Tương Ưng II, tr. 16).
Ngoại đạo lõa thể Kassapa (Tương
Ưng II, tr. 22) và ngoại đạo du sĩ Timbakura (Tương Ưng II,
tr. 26) đặt vấn đề với Thế Tôn rằng: "Có phải
khổ do mình làm ra, hay do người khác làm ra? Hay do mình và
người khác làm ra? Hoặc khổ do tự nhiên sinh?" Thế Tôn
đã dạy nghĩa Trung đạo: "Khổ do Duyên sinh
(khổ do xúc sinh)."
Tương tự, đối với mười một
chi nhân duyên còn lại đều do duyên mà sinh. Hễ cái gì do
duyên sinh thì là hữu vi, vô thường, đoạn diệt, biến
hoại, không thật.
Một hôm, Thế Tôn cắt nghĩa
với Tôn giả Kaccayana (Tương Ưng II, tr. 20) rằng, ai không
chấp thủ, vị ấy không có nghĩ đây là tự ngã của tôi,
và khi khổ sinh thì xem là sinh, khi khổ diệt thì xem là
diệt, mà không xem có tôi khổ, hay tôi hết khổ.
Từ mười hai chi phần nhân duyên
của Duyên khởi như vừa được trình bày, chúng ta có thể
đi đến một số kết luận:
1.
Tất cả các pháp hữu vi đều do duyên sinh. Sự có mặt
của một pháp thực ra chỉ là sự có mặt của nhơn duyên
sinh ra nó; sự hoại diệt của một pháp cũng chỉ là sự
hoại diệt nhơn duyên sinh ra nó. Các pháp không có thật
sinh hay thật diệt.
Tiếp tục lập luận như thế
với tất cả các duyên, không dừng lại một nơi nào cả,
ta sẽ thấy không có một bóng hình hữu ngã nào xuất
hiện trong pháp giới Duyên khởi này cả. Nói một cách
ngắn ngọn, tất cả do duyên sinh nên vô ngã.
Duyên khởi nói lên sự thật vô
ngã và phủ nhận tự ngã, nên phủ nhận mọi câu hỏi và
mọi câu trả lời về bản chất của các pháp, về nguyên
nhân đầu tiên của vũ trụ.
2.
Mỗi một chi phần trong mười hai chi phần nhân duyên là
sự có mặt của mười một chi phần kia. Sự đoạn diệt
hoàn toàn một chi phần cũng có nghĩa là sự đoạn diệt
cả 12 chi phần nhân duyên. Vô minh, hành, thức, v.v... không
thể có mặt một mình, vì thế khi ái diệt hoặc thủ
diệt hoặc thức diệt... thì vô minh hoàn toàn diệt.
3.
Khi ái, thủ, hay vô minh tồn tại hay tập khởi, thì toàn
bộ khổ uẩn tập khởi. Con đường tập khởi này là sinh
tử, gọi là tà đạo.
Khi tham ái, chấp thủ, hay vô minh
đoạn diệt, thì toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Con đường
đoạn diệt này là chánh đạo.
4.
Duyên khởi, trong thực tại, là một hiện tượng trùng trùng.
Một sự vật có mặt có nghĩa là tất cả nhơn duyên trùng
trùng ấy có mặt, tất cả pháp giới có mặt. Nói khác đi,
không thể có một ngã tướng nào có mặt ngoại trừ pháp
giới Duyên khởi.
Một pháp tập khởi chính là pháp
giới tập khởi. Đây là ý nghĩa của "Một là tất
cả, tất cả là một." Một ở đây, chính là tất
cả, chính là pháp giới.
Tất cả chính là một và chính là
pháp giới. Một là tất cả ấy đồng nghĩa với Duyên sinh
và Vô ngã.
Vì duyên sinh, vô ngã, vốn không
sinh, không diệt, nên tự nó không có ý nghĩa thường hay vô
thường, có hay không có, khứ hay lai, v.v... nó thoát ly mọi
tướng trạng.
5.
Cái gọi là Duy tâm, Duy vật, Duy thức, Duy linh, v.v... không
có ý nghĩa khác biệt nhau nào cả, nếu chúng được nhìn là
do duyên sinh, là vô ngã.
Với Duyên khởi, do đó, tất cả
các chủ thuyết đều không phù hợp nếu chúng được xây
dựng trên căn bản ngã tính; tất cả sẽ phù hợp nếu chúng
được xây dựng trên căn bản vô ngã tính.
Các vấn đề siêu hình
(metaphysic) bàn về nguồn gốc, tự thể của các hiện hữu
đều được xem là hý luận đối với giáo lý Duyên khởi.
6.
Đối tượng nghe giáo lý Duyên khởi là con Người. Đối tượng
này bị vướng mắc vào vô minh, ái, thủ, nên vì lợi ích
giải thoát, Thế Tôn đã trình bày Duyên khởi dưới dạng
thức mười hai chi phần nhân duyên.
Chi phần lục nhập (6 căn và 6
trần) nói lên rõ ràng đối tượng nghe phải là con Người
(các loại bàng sanh không đủ lục nhập; một số các loài
Trời cũng thế, có nơi tỷ thức và thiệt thức không có
hoạt động nên không có liên hệ đến hương trần và vị
trần).
Với sự có mặt của tham ái hay
chấp thủ, các chi phần nhân duyên của Duyên khởi được
nhìn thấy là hữu vi (vô thường, đoạn diệt); với những
ai ngay trên đời này mà ái diệt, thủ diệt thì các pháp là
phi khổ đau, là trung đạo, là vô vi, như chính Thế Tôn xác
định quan điểm của Thế Tôn: "Khi Tôi thanh tịnh, Tôi
thấy thế giới thanh tịnh". Bài kệ mở đầu Trung
Luận của Tổ Long Thọ cũng nói lên ý nghĩa ấy:
"Bất sanh diệc bất
diệt,
Bất thường diệc bất đoạn,
Bất nhất diệc bất dị,
Bất khứ diệc bất lai,
Năng thuyết thị nhân duyên,
Thiện diệt chư hý luận."
(Chương I, Trung Luận).
Ở đây cho thấy thực tại là
duyên khởi, vô ngã. Đây chính là thật pháp, như pháp, là
thật tánh, bất hư vọng tánh, như chủ trương của Hoa Nghiêm
qua giáo lý "Pháp giới trùng trùng Duyên khởi". Không
có một sự cao thấp nào giữa Duyên khởi được Thế Tôn
chứng ngộ trình bày dưới mười hai chi phần nhân duyên (Tương
Ưng Bộ Kinh II) và Duyên khởi của Hoa Nghiêm cả.
Nói về thực tại như thật,
Thế Tôn dạy:
"Này các Tỳ-kheo, có
xứ này, tại đây không có đất, không có nước, không có
lửa, không có gió, không có Hư không vô biên xứ, không có
Thức vô biên xứ, không có Vô sở hữu xứ, không có Phi
tưởng phi phi tưởng xứ; không có đời này, không có đời
sau, không có cả hai mặt trăng, mặt trời. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có
trú, không có diệt, không có sinh, không có an trú, không có
chuyển vận, không có sở duyên, đây là sự đoạn diệt
khổ đau." (Kinh Phật Tự Thuyết, Tiểu Bộ Kinh I,
bản dịch của H.T. Thích Minh Châu, 1982, tr. 381), và:
"Này các Tỷ-kheo, có
sự không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu
vi. Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sinh, không
hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không
thể trình bày sự xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu,
khỏi bị làm, khỏi hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có
cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu
vi, nên có sự trình bày xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện
hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi." (Tiểu Bộ Kinh I, sđd,
tr. 382).
Sự kiện Thế Tôn giác ngộ nói
lên rằng vô vi cũng chính là cuộc đời này. Một buổi sáng
thanh tịnh, Tôn giả Tu-bồ-đề (Subhuti) đã khéo nhận ra
việc mở bày tâm Kim Cang của Thế Tôn qua các việc đắp
y, trì bát, vào Xá-vệ thành khất thực, v.v... (Kinh Kim Cương,
phần mở đầu) và đã dâng lời tán thán Thế Tôn:
"Thiện hộ niệm, thiện phó chúc chư Bồ-tát."
Câu kệ Pháp Cú số 279 viết:
"Hết thảy các pháp là vô ngã" (Sabbe dhammà anattà).
Thế có nghĩa là hữu vi và vô vi đều vô ngã, hay hữu vi cũng
chính là vô vi ở mặt tự thể, hay ở mặt chân nghĩa của
Duyên khởi. Đây là ý nghĩa mà Kinh Kim Cang bảo: "Nhứt
thiết pháp giai thị Phật pháp"; Hoa Nghiêm nói:
"Nhứt thiết chư Pháp vô phi Phật pháp" và các tư
tưởng Bắc tạng thường đề cập: "Phiền não tức
Bồ-đề", hay "Sinh tử tức Niết-bàn", hoặc
"Thiết lập nhân gian Tịnh độ".
Tại đây, chúng ta có thể ổn định
kết luận rằng Duyên khởi là giáo lý nền tảng
nhất của Phật giáo. Dù Duyên khởi được nhìn dưới
quan điểm của bộ phái nào, dù được trình bày dưới định
thức tổng quát "Cái này có, cái kia có..." hay dưới
mười hai chi phần nhân duyên nó vẫn chuyên chở đầy đủ
ý nghĩa thậm thâm nhất. Cho rằng Duyên khởi là giáo lý
thuộc Duyên giác thừa hay Tiểu thừa chỉ là một thiên
chấp hay là một ngộ nhận đáng tiếc.
7.
Không thể xem Duyên khởi, Vô ngã như là giáo lý được
Thế Tôn phương tiện thuyết để đối trị chấp ngã, cái
nhân khổ đau. Thực sự khổ đau là do vô minh, không hiểu
rõ tính duyên khởi, vô ngã của các pháp. Đoạn tận khổ
đau đồng nghĩa với giác ngộ Duyên sinh, Vô ngã ấy.
8.
Bàn đến Duyên sinh, nhà học giả Nhật Bản Kimura Taiken
trong cuốn "Đại thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận (bản
dịch của TT. Thích Quảng Độ, Tu thư Vạn Hạnh, 1969)
nhận định:
"Vấn đề Duyên sinh tuy có
thể diễn tả theo nhiều cách, song điểm phát xuất của nó
vẫn không ngoài Tâm, nếu lìa Tâm thì ra lý Duyên sinh sẽ vô
căn cứ. Bởi thế nói một cách rốt ráo thì Tâm là nguồn
gốc của Duyên sinh quan. Cho nên, cái gọi là pháp, là Duyên
sinh rốt cuộc cũng không ngoài cái Tâm tướng biến hiện
của ta. Đó là điểm căn bản độc nhất của Phật giáo,
Tiểu thừa cũng như Đại thừa. Điều phục lấy Tâm đã
trở nên một phương châm tu dưỡng quyết định trong Phật
giáo. Do đó, khi nói đến Duyên khởi, tất nhiên ta phải đề
cập đến Tâm, vì giữa hai điểm ấy có một mối quan hệ
rất mật thiết và nếu ta muốn hiểu rõ dụng ý căn bản
của Phật giáo, ta không thể quên điểm hệ trọng đó."
(tr. 28).
Công trình nghiên cứu tư tưởng
Phật học qua các bộ phái của Kimura Taiken là một công trình
giá trị, nhưng qua đoạn phát biểu nầy về Duyên sinh của
tác giả, chúng ta cảm nhận ngay có gì bất ổn trong đó,
nghe hơi thiếu vẻ Duyên sinh.
Tác giả xem Tâm là gốc của Duyên
sinh, trong khi thực tế chính Tâm là do Duyên sinh, là Duyên
sinh. Ngay cả từ nguồn gốc, tự thân nó đã là
không phù hợp với Duyên sinh. Tâm trong Phật giáo (hay đấy
là thọ, tưởng, hành và thức uẩn) là vô thường, biến
diệt, nó còn phi thật hơn cả vật chất (sắc uẩn), Tâm này
cũng là Duyên sinh, vô ngã.
Tu, điều phục Tâm, là đi đến
giải thoát và tri kiến giải thoát: ở đây, thì phi tâm phi
vật, nó là chân như, vô ngã.
9.
Cái thắc mắc lớn nhất về giáo lý Duyên Sinh, Vô ngã
của người học Phật vẫn là: khó mà quan niệm được
một pháp giới hoàn toàn vô ngã. Làm sao mà có thể tồn
tại, nếu là vô ngã? Ai sinh tử, luân hồi? Ai tu? Ai
chứng?... như chính thắc mắc của Moliya Phagguna, Kassapa và
Timbura (như đã đề cập), như âu lo của Kimura Taiken (phải
có tâm là gốc thì Duyên khởi mới đứng vững) và như chính
Tôn giả A-nan, trong Thủ Lăng Nghiêm, đã sửng sốt khi nghe
Thế Tôn dạy chân tâm là vô ngã.
Gốc của thắc mắc ấy là tập
khí tham ái, chấp thủ của chúng sinh do nhiều kiếp ngã trôi
lăn trong sinh tử.
Theo Phật giáo, gốc của sinh tử
là vô minh. Vô minh là nhận lầm thực tại vốn không có
"ngã" thành có "ngã". Sinh tử chính là sự
nhận lầm có cái "ngã" ấy. Thực sự, không có
"ngã" trong sinh tử, luân hồi.
Tu là lộ trình đi khỏi sinh tử,
luân hồi; có nghĩa là đi ra khỏi sự trói buộc đầy sương
mù của sự chấp có ngã, là đoạn trừ cái ngã ấy. Đoạn
trừ cái chấp ngã là đoạn trừ hết thảy vọng tưởng.
Chứng, hay chứng ngộ, là đoạn
trừ hoàn toàn chấp thủ ngã tướng, chấp có ngã, để
chứng đắc thực tại không có tự ngã.
Vì thế, các câu hỏi: Ai tu? Ai
chứng? v.v... là những câu hỏi đầy vọng niệm, trái với
lý Duyên khởi như Thế Tôn đã dạy.
10.
Thực tại vô ngã thì không trống rỗng. Chỉ có thế giới
ngã tướng là trống rỗng. Không phải vì ngã tướng mà
thế giới tồn tại, mà thực sự nhờ vô ngã, thế giới
mới sinh khởi và tồn tại. Chúng ta thử đi vào quán sát
một hiện tượng sau đây:
-- Vì carbon (C) và sắt (Fe) là vô
tự tính nên mới có hợp chất của gang và thép. Vì hydro
và oxy, v.v... là vô tự tính nên mới có tổng hợp của nước,
mới có các phản ứng hóa học.
-- Vì hư không là vô ngã tính nên
mới vừa tối, vừa sáng, có nắng, có mưa, có bốn mùa
vận hành. Nếu hư không có ngã tính thì chỉ có hoặc
tối, hoặc sáng, v.v...
-- Nếu con người có ngã tính
thì sẽ hoặc dốt, hoặc thông, hoặc khỏe, hoặc bệnh, mà
không thể chuyển đổi từ dốt sang thông, từ bệnh sang
vô bệnh, từ buồn sang vui, từ thất vọng qua hy vọng,
từ ghét hận thành yêu thương...
-- Vì các hiện tượng xã hội
vô ngã tính nên mới có thể cải tạo, chấn hưng.
-- Vì sự vật và nhận thức là
vô ngã tính nên mới có sáng tạo, gốc của văn hóa và văn
minh.
-- Vì vô ngã nên mới có hiện
tượng thần túc thông: có nghìn chư Thiên có thân khổng
lồ ở đầu mũi kim mà không vướng nhau.
-- Vì vô ngã nên các pháp dung
nhiếp nhau, mới có lý sự và sự sự vô ngại, v.v...
Nói tóm, vì vô ngã tính mà các tính
được thành lập.
11.
Khi thấy rõ vô ngã tính của các pháp thì tham ái và chấp
thủ sẽ tan dần đến hủy diệt, khổ não sẽ tiêu đi, và
giải thoát đến. Bấy giờ thực tại Duyên sinh trở về chính
nó. Nó là như thế, mãi mãi như thế. Kinh Pháp Hoa gọi đây
là "Thế gian tướng thường trú". Nó không bị nhân
quả hay bị duyên sinh. Nhân quả và duyên sinh là chính nó.
Đây là tánh "Không" của Bát nhã, tánh "Như
thị" của Pháp Hoa, và là tánh "Diệu hữu"
của Hoa Nghiêm, Niết-bàn.
12.
Dù Duyên khởi được hiểu theo bất cứ quan điểm của
bộ phái nào, Niết-bàn (hay giải thoát toàn triệt) cũng đồng
nghĩa với ái diệt, thủ diệt, thức diệt hay vô minh
diệt. Đây là quả vị giải thoát sau cùng, gọi là A-nậu-đa-la
Tam-miệu-tam-bồ-đề (Anuttara Sammasambodhi). Có lẽ đây là lý
do mà Thế Tôn trình bày Duyên khởi dưới dạng thức mười
hai chi phần nhân duyên. Và đây cũng là ý nghĩa mà người
viết nầy chọn mười hai nhân duyên là dạng thức ổn định
của Duyên khởi để khảo sát, để tránh khỏi những bối
rối có thể có, khi đi vào một số chủ trương Duyên
khởi khác nhau qua các thời kỳ phát triển Phật giáo.
Thích
Chơn Thiện
Trích "Phật Học Khái Luận", Sài Gòn 1993
Chân thành cám ơn anh Nguyễn
Quang Trung đã có thiện tâm giúp đánh máy lại bài viết
nầy (07/97).