CÁC TÔN GIÁO LỚN TRÊN THẾ GIỚI
 VÀ NIỀM TIN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ.
 Lê Sỹ Minh Tùng
   
  Lời Người Viết
   
  Vì
 kinh Thủ Lăng Nghiêm có đề cập đến nhiều tôn giáo hoạt động vào thời 
Đức Phật Thích Ca còn tại thế nên chúng tôi nhân đây giới thiệu đến quý 
Phật tử cái nhìn đơn giản về những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay. 
Trong mục này vì phải đưa ra một số dữ kiện lịch sử cho nên mặc dầu luôn
 cố gắng giữ mình trên cương vị khách quan, trong tinh thần xây dựng, 
nhưng dầu sao ít nhiều chúng tôi cũng không tránh khỏi sự sai lầm để cho
 cái bản ngã đáng ghét, chủ quan hẹp hòi thiển cận của mình xuất hiện. 
Nếu có đoạn nào không hài lòng, xin quý độc giả rộng tình bỏ qua.       
Chân thành cảm tạ.
  NIỀM TIN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ.
  Con
 người xuất hiện trên trái đất này phải đối diện với biết bao nỗi lo sợ 
về thiên tai, lụt lội, sấm sét, động đất, núi lửa, bảo tố, bệnh tật, đói
 nghèo làm cuộc sống vốn đã khó khăn càng thêm khổ sở và ảnh hưởng đến 
sự sống chết của họ. Lúc khoa học chưa xuất hiện, con người  không thông
 hiểu sự biến dịch, vận hành nên nỗi lo sợ là tác động khiến họ cố gắng 
tìm kiếm những lời giải thích, câu trả lời cho những hiện tượng liên 
quan đến đời sống của họ vì thế mà tôn giáo được ra đời.
  
 Nhưng nếu tôn giáo đã có những câu trả lời cho những vấn đề sống chết của thế nhân thì tại sao con người vẫn cần đến khoa học?
  
 Vì
 không thể giải thích những hiện tượng sinh diệt của thế gian một cách 
hợp lý, khách quan nên những tôn giáo thờ Thượng đế hoặc đấng Phạm thiên
 vội kết luận đó là do những tha lực ngoài khả năng của con người, như 
của Thượng đế, thần thánh…Về sau có những triết gia Đông Tây rất lỗi lạc
 cũng cố gắng tìm câu trả lời bằng cách phân tách và lý luận mà rốt cuộc
 vẫn nằm trong vòng lẩn quẩn chớ không thể kiểm chứng được. Sau cùng 
khoa học vì không chấp nhận những lối giải thích cứng ngắc, không hợp lý
 và thiếu nhân quả nên họ tách rời tôn giáo, tách rời triết học mà tự 
lập cho mình một con đường mới để tìm câu trả lời thiết thực về những 
hiện tượng của nhân sinh vũ trụ. Khoa học tuy tiến rất xa trong những 
thế kỷ vừa qua, nhưng con đường để có một câu trả lời hay một phương 
trình vật lý cho vũ trụ có lẽ vẫn còn xa lắm. Đáng lý ra khoa học có thể
 giúp con người thấu hiểu nhân sinh vũ trụ rõ ràng hơn, nhưng những 
nghiên cứu và phát minh mới cũng không ngoài mục đích phục vụ đời sống 
thêm tiện nghi, sung túc làm tăng trưởng lòng tham-sân-si khiến cho con 
người tiếp tục sống trong điên đảo khổ đau. Vì thế mà Arthur Eddington 
một khoa học gia rất nổi tiếng người Anh, người đã tìm ra phương cách để
 chứng minh thuyết vật lý của Einstein cũng đã tuyên bố như sau :
  
 “Khoa học không có khả năng dẫn dắt con người đến chân lý, mà khoa học chỉ có thể dẫn con người đến cái bóng của những ký hiệu”.
  
 Khác
 hẳn với những tôn giáo lớn khác trên thế giới đã cột chặt con người vào
 những giáo điều cứng ngắt để thọ lãnh những thưởng phạt bất công, đạo 
Phật luôn khuyến khích chúng sinh tự mình chứng ngộ chân lý, tự mình thể
 nghiệm Niết bàn, tự mình có được giải thoát giác ngộ mà đạo Phật chỉ là
 con đường, là phương tiện, là cổ xe để giúp chúng sinh đạt đến những 
cứu cánh tối thượng này.
  
 Tôn
 Tử ngày xưa nói rằng : ”Tri kỷ tri bỷ, bách chiến bách thắng” nghĩa là 
biết người biết ta, trăm trận trăm thắng cho nên có biết người mới biết 
con đường mình đi là đúng, là có giải thoát giác ngộ. Không phải ngày 
nay mới thấy có nhiều tôn giáo mà vào thời Đức Phật tại thế đã có gần 
trăm dị phái tư tưởng khác nhau. Vì thế đạo Phật là một tôn giáo duy 
nhất vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại không tin vào thần linh 
mà chỉ chú trọng vào thực hành để có thực chứng. Đức Phật đã cách mạng 
hóa sự tin tưởng mù quáng mà nhắm mắt gởi gắm linh hồn của mình vào nơi 
vô định. Vì thế một khi hiểu biết những tôn giáo khác thì chúng ta càng 
kính ngưỡng Đức Phật và giáo lý nhiệm mầu của Ngài đã giúp con người tự 
mình giải thoát ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau để có an vui tự
 tại ngay bây giờ và bất cứ nơi nào. Phần lớn, những đại đệ tử Phật đều 
xuất thân từ đạo Bà la môn, một tôn giáo cao quý nhất trong xã hội Ấn Độ
 thời bấy giờ. Thế mà khi Đức Phật xuất hiện với tư tưởng bình đẳng, tự 
giác giác tha của Ngài đã đánh bại tất cả. Mặc dù trải qua không biết 
bao nhiêu thăng trầm, Phật giáo vẫn sáng soi chiếu rọi, khai tâm mở tánh
 hàng triệu triệu chúng sinh khắp năm châu bốn bể.
  
 Tôn giáo trên hoàn cầu thì rất nhiều, nhưng trong khuôn khổ nhỏ hẹp này, chúng tôi chỉ lượt qua những tôn giáo chính.
  
  1) Đạo Do Thái (Du già giáo) :
  Đạo
 Thiên Chúa phát xuất bên Do thái mà Tổ phụ là ông Abraham khoảng 2000 
năm trước công nguyên được gọi là  Do thái giáo (đạo Du già). Khoảng 
1000 năm trước công nguyên khi các vua Ai Cập cố tình đàn áp dân Do thái
 như cấm họ lấy vợ đẻ con và làm một số nghề nghiệp, anh hùng Moise xuất
 hiện để đưa dân Do thái từ Ai Cập đến vùng đất hứa tức là nước Do thái 
ngày nay. Tuy Moise dẫn dân Do thái từ Ai Cập đến vùng đất hứa, nhưng 
ông chết trước khi vào được vùng đất này. Trong cuộc hành trình đầy dẫy 
khó khăn đó, chính Moise đã lên núi Sinai và ở lại trên đó 40 ngày. Khi 
xuống núi ông đem theo hai khối đá có khắc 10 điều thánh lịnh làm nền 
tảng cho cuộc sống của người Do thái và cũng là khuôn mẫu cấu trúc xã 
hội cho những quốc gia theo Thiên chúa giáo hiện nay. Trong mười điều 
thánh lịnh thì năm điều dạy con người về đạo làm người và năm điều dạy 
con người tôn vinh Thượng đế. Sau khi đến được vùng đất hứa, dân Do thái
 bắt đầu chia rẽ thành những bộ tộc riêng, đến khi vua David thống nhất 
12 bộ tộc để làm thành một quốc gia và họ chọn Jesusalem (nghĩa là hòa 
bình) làm thủ đô. Vua David chết, con là Salomon lên thay là vị vua mạnh
 nhất với lực lượng quân sự hùng hậu để chinh phục chư hầu. Ông xây đền 
Temple với trên 150,000 thợ xây liên tiếp trong 7 năm mới hoàn tất. Vì 
là danh tướng, chinh phục khắp nơi nên ông cũng nổi tiếng có tới 700 bà 
vợ và trên 300 bà thứ thiếp từ những giống dân khác nhau. Kinh Torah là 
Thánh kinh cựu ước còn những Thánh kinh sau thời Chúa Giê-Su là tân ước.
 Đối với đạo Do thái thì lễ Sabbat rất quan trọng vì dựa theo Thánh kinh
 là khi Thượng đế dùng 6 ngày để tạo ra con người và thế giới thì ngày 
thứ 7 tức là ngày chủ nhật Ngài phải nghĩ ngơi để dưỡng sức.
  
 Kinh thánh Cựu ước có tất cả 46 cuốn kể về những chuyện trước khi Chúa Giê-Su ra đời. Bộ này chia làm bốn tập :
  
 1)     Tập 1 gồm 5 cuốn Thánh kinh đầu tiên : Sáng thế ký, Xuất hành ký, Lê vi ký, Dân số ký và Thân mệnh ký.
 2)    Tập 2 là bộ sử thư gồm 16 cuốn.
 3)    Tập 3 gồm 7 cuốn là những thi ca triết học.
 4)    Tập 4 gồm 14 cuốn sách tiên tri.
  
  2) Thiên Chúa giáo :
  Vào
 thời Chúa Giê-Su, nước Do thái nằm dưới sự bảo hộ của đế quốc La Mã với
 Hoàng đế Auguste. Chính sách bảo hộ của La Mã bày ra rất nhiều loại sưu
 cao thuế nặng và cấm dân Do thái không được tiếp tục truyền thống cắt 
da quy đầu cho trẻ em. Trong khi đó người giàu có không còn quan tâm đến
 việc tôn giáo. Tệ hại hơn nữa, mọi người quá bất mãn về những hành động
 xá xí và thụ động của những giáo sĩ Rabbi. Trong hoàn cảnh đó, La Mã 
lại cử viên Thái thú mới tên là Ponce Pilate để thay thế Gratius. Ponce 
Pilate được Hoàng đế Auguste cho phép toàn quyền quyết định về an ninh, 
chính trị, thuế vụ và tòa án tại Do thái. Trong hoàn cảnh đó, Chúa 
Giê-Su bắt đầu đi giảng đạo khi Ngài 30 tuổi và địa bàn hoạt động chỉ 
chung quanh nơi sanh trưởng của Ngài tức là vùng phía bắc Palestine 
trong khi người anh em chú bác John the Baptist, người đã làm phép rửa 
tội cho Chúa Giê-Su trên dòng sông Jordan thì hoạt động ở miền Nam. Vài 
tháng sau John bị bêu đầu nên Chúa Giê-Su thay thế John.
  Chúa
 Giê-Su tự xưng mình là con của Thượng đế và sau khi  gây xáo động tại 
đền thờ Temple, Ngài bị bắt và bị đóng đinh trên thập tự giá vào năm 37 
tây lịch chỉ sau khi Ngài hoạt động được 3 năm. Lúc đó Ngài vừa 33 tuổi.
 Khác với Đức Phật lúc nào cũng có trên ngàn đệ tử quanh Ngài, Chúa 
Giê-Su chỉ có 12 môn đệ. Ngày nay những quốc gia Tây phương thường kỵ 
ngày thứ sáu thứ 13 của mỗi tháng. Có nhiều lối giải thích cho vấn đề 
nầy, nhưng phần lớn đều đồng ý rằng thứ sáu là ngày Chúa bị đóng đinh và
 con số 13 ám chỉ cho người đệ tử thứ 13 là Ju-Đà đã bán Chúa cho đế 
quốc La Mã. Ba mươi bảy năm sau đó, toàn dân Do thái đồng lòng nổi dậy 
chống lại đế quốc La Mã. Kết quả là dân Do thái đã bị đế quốc La Mã tàn 
sát khoảng một triệu người, toàn diện ngôi đền Temple mà vua Salomon đã 
xây dựng bị tiêu hủy và dân Do thái bị lưu vong khắp thế giới cho mãi 
đến năm 1948. Dựa vào những dữ kiện lịch sử đó, có những sử gia danh 
tiếng sau này có đặt câu hỏi rằng thật sự Chúa Giê-Su có phải là nhà 
lãnh đạo tôn giáo hay chỉ là nhà cách mạng để đánh đuổi đế quốc La Mã ra
 khỏi đất nước của Ngài?
  
 Ba
 trăm trăm năm trước, chính đế quốc La Mã đã đóng đinh Chúa Giê-Su, 
nhưng khi đế quốc này đang trên đà suy vong thì Hoàng đế Constantine lại
 cải đạo và thiết lập tòa thánh Vatican tại Rome (La Mã tức nước Ý) vào 
năm 324 sau công nguyên cho đến ngày nay và tất cả những vị Giáo Hoàng 
đều là người Ý cho đến những thập niên gần đây mới có Giáo Hoàng người 
Ba Lan (John Paul II) và Đức (Benedict). Thật ra người có công lớn nhất 
trong việc bành trướng đạo Thiên Chúa giáo là ông Paul (Phao Lô). Ông 
Pual không phải là người Do thái, sanh tại Tarse thuộc nước Thỗ Nhĩ Kỳ, 
nhưng ông lớn lên tại Damas thuộc nước Syrie bây giờ. Ông nói tiếng Hy 
Lạp và mang quốc tịch La Mã. Ông không phải là môn đồ của Chúa Giê-Su và
 chưa bao giờ gặp mặt Chúa khi Ngài còn sống. Ông đề xướng đạo Thiên 
Chúa giáo là cho tất cả mọi người chớ không chỉ dành riêng cho dân Do 
thái nên ông dùng đường biển để truyền bá phúc âm khắp vùng Địa trung 
hải cho đến lúc bị La Mã chặt đầu ở hải cảng Ostie. Quan điểm của ông 
chính là khúc quanh lịch sử của đạo Thiên Chúa giáo bởi vì cho đến ngày 
nay đạo Do thái (đạo Du già) và ngay cả người Do thái vẫn không chấp 
nhận Chúa Giê-Su là đấng cứu thế và đạo này chỉ dành riêng cho dân Do 
thái. Trong một cuộc cãi vã lớn giữa em của Chúa Giê-Su là James và ông 
Paul tại thành Jesusalem, James nói rằng : ”Trong suốt ba năm truyền 
giáo, anh ta không bao giờ có ý định thành lập một tôn giáo mới, mà Ngài
 chỉ muốn cải tạo, sửa đổi đạo Do thái mà thôi”. Vì Paul không phải là 
người Do thái nên ông cực lực phản đối và khẳng định rằng cho dù là 
người Do thái hay không đều có quyền gia nhập đạo mới tức là Thiên Chúa 
giáo. Đạo Thiên chúa giáo có bốn bộ Thánh kinh gọi là “Tân ước” như sau:
  
  1)
 Matthew : kinh này được viết khoảng 50 tới 70 năm sau công nguyên. Đây 
là cuốn Thánh kinh có lẽ là hoàn hão nhất viết về trọn cuộc đời của Chúa
 Giê-Su. Kinh này viết tại Antioch dành cho dân Do thái và người Thiên 
chúa giáo nói chung.
 2) Luke : kinh này viết từ năm 58 tới 70 Tây lịch và viết tại Rome dành cho dân Hy Lạp và tín đồ Thiên chúa giáo.
 3) Mark : kinh này viết từ năm 50 tới 70 Tây lịch và chỉ viết trong 
thời gian 3 năm chúa đi giảng đạo. Kinh này cho người La Mã và tín đồ 
Thiên chúa giáo.
 4) John : kinh này viết từ năm 85 tới năm 95 Tây 
lịch, viết tại Ephesus và  nội dung chỉ nói lại 3 năm sau cùng của cuộc 
đời Chúa Giê-Su.
  
 Thiên
 Chúa giáo trên thế giới cũng không đồng nhất và được chia làm Công giáo
 có Tòa thánh ở Rome, rất nhiều chi phái Tin Lành và phái Chính Thống ở 
Nga, phái Hợp Nhất ở Hy Lạp…
 Tuy bốn cuốn Thánh kinh Tân Ước nói rất
 rõ về chúa Jesus từ lúc Ngài mới giáng sinh đến lúc Ngài bị đóng đinh 
trên thập tự giá, nhưng không có một Thánh kinh nào nói gì về cuộc đời 
của Ngài từ lúc 13 tuổi đến khi 30 tuổi là lúc Ngài bắt đầu đi truyền 
đạo. Đây là khoảng trống gần 17 năm. Những năm gần đây, có vài “huyền 
thoại” nói về vấn đề này, chúng tôi trong tư thế khách quan, xin trích 
đăng nguyên văn để quý Phật tử tư duy quán chiếu :
  
 1)
 Vào năm 1894, một bác sĩ người Nga, Nicolas Notovitch, xuất bản một 
quyển sách tựa đề là : ”Cuộc Đời Không Được Biết Của Giê-Su” dựa trên 
cuộc hành trình rộng lớn của ông ta ở A Phú Hản, Ấn Độ và Tây Tạng. Một 
trong những chuyến du hành, ông đã viếng Leh, thủ phủ của Ladakh và ở 
trong tu viện Phật giáo Hemis một thời gian khi ông ta bị gãy chân. Tại 
tu viện Hemis, ông đã được cho xem hai tập tài liệu lớn màu vàng bằng 
Tạng ngữ, “Cuộc đời của Thánh Issa”. Bởi vì Chúa Giê-Su được xem như là 
Issa tức là con trai của Thượng đế. Sách này được viết bởi một nhà học 
giả Vệ Đà. Notovitch ghi xuống 200 đoạn kệ ở phía sau nhật ký của ông mà
 ông giữ suốt chuyến du hành. Tài liệu này tạo thành một cơn giông bão ở
 phương Tây. Ngay cả Tu viện trưởng tu viện Hemis, một Lạt Ma lão thành 
của trường phái Phật giáo Drukpa, Gwalyang Drukpa cũng tin tưởng vào 
huyền thoại này nên phát biểu rằng :
  
 -
 Giê-Su được nói đã từng thăm viếng đất nước chúng ta và Kashmir để học 
hỏi Phật pháp. Ngài được truyền cảm hứng bởi giới luật và tuệ giác của 
Đức Phật.
  
 Swami
 Abhedananda, một học giả tâm linh và cũng là nhà tiên tri của Bengal, 
đã từng du hành đến Hy Mã Lạp Sơn để khảo sát huyền thoại Giê-Su thăm 
viếng Ấn Độ. Trong một buổi nói chuyện của ông về một quyển sách mang 
tựa đề “Kashmir O Tibetti”, nói về một cuộc viếng thăm tu viện Hemis ở 
Ladakh. Nó bao gồm một bản dịch bằng tiếng Bengal với hai trăm đoạn kệ 
về “Huyền thoại Issa” mà Notovitch đã sao chép lại. Ông nói rằng :
  
 -   
 Mọi người yêu mếm Giê-Su bởi vì Issa sống trong hòa bình với những 
Vaishyas và Shudras, là những người ông đã chỉ dẫn và giúp đỡ cho. Sự 
giảng dạy của Giê-Su ở những thành phố thiêng liêng cổ truyền Jagannath 
(Puri), Banares (ở Uttar Pradesh) và Rajagriha (Bihar) làm những người 
Bà la môn phẩn nộ. Họ làm áp lực Ngài phải lẩn tránh khỏi Hy Mã Lạp Sơn 
sau sáu năm.
  
 2)
 Quyển sách của học giả người Đức, Holger Kersten với tựa đề “Giê-Su Đã 
Sống Ở Ấn Độ” cũng đã kể về câu chuyện những năm đầu của Chúa Giê-Su ở 
Ấn Độ như sau :
  
 -
 Người trai trẻ đến vùng Sindh (dọc theo sông Ấn Hà) cùng với những 
người buôn bán. Ngài cư ngụ cùng người Arya với mục đích hoàn thiện 
chính mình và học hỏi những giới luật của Đức Phật vĩ đại. Người trai 
trẻ du hành rộng rãi qua những vùng đất của năm con sông (Punjab), ở lại
 một thời gian ngắn ngủi với những người Kỳ Na Giáo trước khi tiến tới 
Jagannath.
  
 3)
 Trong phiên bản tiếng Anh của Luận thuyết bằng tiếng Urdu được viết bởi
 nhà sáng lập phong trào Hồi Giáo Ahmaddiya, ông Hazrat Mirza Ghulam 
Ahmad (1835-1908) cũng nói về Chúa Giê-Su như sau :
  
 -
 Chúa Giê-Su đã viếng thăm A Phú Hản, “Nơi Ngài gặp những người Do 
Thái”, những người đã trú ngụ ở đây để trốn tránh sự bạo ngược của Hoàng
 đế Do Thái Nebuchadnezzar và rồi thì đến thung lũng Kashmir, nơi mà 
Ngài đã sống nhiều năm.
  
 (Quý Phật tử muốn đọc nguyên bản Anh Ngữ, xin vào:
 http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=70,8811,0,0,1,0)
  
  3) Đạo Tin Lành :
  Tòa
 thánh Vatican (Rome thuộc về Ý Đại Lợi tức là đế quốc La Mã ngày xưa) 
thiết lập từ năm 324 và phát triển rất mạnh cho đến năm 1506 thì Đức 
Giáo Hoàng Julius thứ nhì muốn tranh đua với những kiến trúc đồ sộ của 
giáo hội Hoàng gia Pháp Quốc nên khởi xướng xây cất tòa thánh cho trở 
thành vĩ đại, nguy nga đồ sộ như ngày nay. Công trình kiến trúc được nữa
 chừng thì giáo hội hết tiền mãi đến khi Giáo Hoàng Leo thứ mười phát 
động chiêu bài : ”Cho tiền nhà thờ để mua sự xá tội” nghĩa là giáo dân 
cho nhà thờ càng nhiều tiền thì tòa thánh bảo đảm người đó sẽ được vào 
nước chúa nhanh hơn. Vì thấy sự vô lý này, nên lúc bấy giờ ở Đức có vị 
linh mục tên là Martin Luther thuộc dòng thánh Augustin cực lực phản 
đối. Ngày 1-11-1517 ông đưa ra bản tuyên ngôn 95 điểm nhằm tố cáo những 
hành vi thương mãi, mua bán sự xá tội và dùng tôn giáo để thủ lợi của 
giáo hội. Một năm sau, giáo hội truất phế thông công (lấy chức linh mục)
 và khai trừ ông ra khỏi giáo hội Thiên Chúa giáo. Từ đó ông khai sinh 
ra đạo Tin lành.
  
 Đạo
 Tin Lành lấy kinh thánh làm giáo lý, nhưng chỉ công nhận 36 trong số 46
 cuốn Cựu ước. Khác với Công giáo là kinh thánh chỉ dành cho giáo sĩ 
được quyền nghiên cứu và giảng giải cho tín đồ, các Mục sư đều có quyền 
sử dụng, nói và làm theo kinh thánh. Đạo Tin Lành tin rằng Đức mẹ Maria,
 người sinh ra chúa Jesus một cách nhiệm mầu, nhưng không xem bà là mẹ 
của Thiên chúa và chỉ đồng trinh đến khi sinh ra Chúa. Đạo Tin Lành 
không thờ tranh ảnh, hình tượng cũng như di vật và người tín đồ có thể 
xưng tội trực tiếp với Thiên Chúa chớ không qua trung gian vị Linh mục 
như Công giáo. Đạo Tin Lành không lập giáo hội duy nhất cho toàn đạo mà 
xây dựng các giáo hội riêng rẽ, độc lập với các hình thức khác nhau tùy 
theo hệ phái. Sau cùng đạo Tin Lành không cho tín đồ thờ cúng tổ tiên, 
các lễ hội…vì họ tin rằng những điều này trái với lời Chúa dạy. Vì thế 
những tín đồ của nhiều dân tộc trên thế giới theo đạo Tin Lành bắt buộc 
phải từ bỏ tôn giáo, văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
  
  4) Hồi giáo :
  Vào
 khoảng năm 570 sau công nguyên có ông Muhammad sinh tại Mecca thuộc 
nước Saudi Arabia ngày nay. Ông sống với người bác tên là Abu Talib vì 
cha mẹ chết khi ông còn bé. Ông làm nghề buôn bán cho người bác nên sau 
đó được làm quản lý cho một góa phụ giàu có tên là Khadija. Khi lên 25 
tuổi thì ông kết hôn với góa phụ Khadija lúc đó đã ngoài tứ tuần. Nhưng 
khi bà này vừa tạ thế thì Muhammad cưới thêm 9 bà vợ khác nữa lúc đó ông
 đang ở lứa tuổi 50. Ông có rất nhiều con, nhưng tất cả con trai đều bị 
tử trận và sau cùng chỉ còn cô con gái sống sót tên là Fatima. Truyện kể
 rằng : Ông thường lên ngọn núi cao, vào bên trong những hang động vắng 
vẻ để cầu nguyện. Một trong lần cầu nguyện thì thiên thần Gabriel hiện 
ra cho biết ông đã được Thượng đế chọn như là vị tiên tri cuối cùng để 
truyền những thông điệp của Ngài vì những vị tiên tri trước như Abraham,
 Moise, Chúa Giê-Su không hoàn thành sứ mạng. Ông lập ra Hồi giáo và bắt
 đầu đọc kinh Koran (Qu’an) cho tông đồ chép lại bằng tiếng Ả Rập bởi vì
 ông là người mù chữ. Đây là thánh kinh duy nhất của Hồi giáo. Thánh 
kinh này khẳng định là trên thế giới này chỉ có một Allah (ông trời) duy
 nhất mà thôi chớ không chấp nhận Thượng đế hay ông trời nào của bất cứ 
tôn giáo nào khác.
  Từ
 khi thành lập Hồi giáo, Muhammad đã phải đương đầu với rất nhiều cừu 
địch từ phía khối Ả Rập không theo Hồi giáo đến dân Do thái và tín đồ 
Thiên Chúa giáo. Chính Muhammad đã phải đích thân ra chiến trường chống 
lại và sau 28 trận chiến đẩm máu thì ông ta mới đẩy lui họ ra khỏi 
Medina (gần Mecca, thánh địa của Hồi Giáo ở nước Saudi). Tháng 6 năm 632
 đang lúc chuẩn bị cuộc chiến với Syria thì Muhammad bất ngờ lâm trọng 
bệnh và vì không chịu nổi những cơn đau hành hạ nên hai ngày sao đó ông 
đã trút hơi thở sau cùng trên ngực bà vợ Aisha. Sau khi ông chết, lực 
lượng quân sự Hồi giáo tiến chiếm vùng Do thái, Palestine, Syria, Ai Cập
 và vùng Iran. Sau cái chết của ông, Hồi giáo chia làm hai nhóm : Nhóm 
thứ nhất là phe Shi-ites dành cho những người thân thuộc với Muhammad. 
Nhóm này do Ali là chồng của Fatima lãnh đạo và ngày nay vẫn còn hoạt 
động ở Iran và phía nam của Irak. Nhóm thứ hai là phe Sunnies không chấp
 nhận hệ thống huyết thống thân thuộc mà người lãnh đạo chỉ được bổ 
nhiệm khi nào được đa số chức sắc trong hàng giáo phẩm đề cử. Mặc dù 
cùng là tín đồ Hồi giáo, nhưng hai phe Shi-ites và Sunnies đối xử với 
nhau như kẻ thù cho nên vào thời nhà độc tài Sadam Husan, ông ta rất 
ghét dân Shi-ites nên đã tiêu diệt rất nhiều người dân này ở miền nam 
Irak.
  
 Với
 sự trợ giúp của Hồi giáo, dân Palestine chiếm đất Do Thái từ đó. Mãi 
đến năm 1948 lần đầu tiên được sự ủng hộ của Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc, 
người dân Do thái lần lượt về lại cố hương sau gần hai ngàn năm lưu vong
 xa xứ. Họ buột người Palestine phải trả đất lại cho họ khiến cho rất 
nhiều dân Palestine phải lưu vong sang những nước Ả Rập trong vùng Trung
 Đông như Jordan, Ai Cập… Có lẽ đây là khởi nguyên những cuộc tranh chấp
 tại Trung Đông giữa Do thái và khối à Rập mà Hoa kỳ là nước đở đầu cho 
Do Thái vì Do thái là thánh địa của Thiên Chúa giáo. Cuộc chiến khốc 
liệt năm 1968, lúc đó Kissinger là cố vấn an ninh quốc phòng cho Nixon, 
giữa Do thái và khối Ả Rập khiến Hoa kỳ đe dọa sẽ dùng bom nguyên tử bắt
 buộc Tổng thống Ai Cập lúc bấy giờ là Anwar Sadat phải rút quân. Về sau
 chính Sadat với sự trung gian của Tổng thống Jimmy Carter đã ký một 
thỏa ước hòa bình với Thủ tướng Do Thái là Menachem Begin để chấm dứt sự
 tranh chấp của hai nước. Chính sự hòa giải này đã khiến những người Hồi
 giáo quá khích ám sát Sadat năm 1981.
  
 Vài
 dòng về Henry Alfred Kissinger. Ông là người Đức gốc Do thái sinh năm 
1923 và cái tên Kissinger là do ông cố nội tên là Meyer Lob đặt cho dựa 
theo tên của thành phố Bad Kissingen. Năm 1938 cả gia đình ông tỵ nạn 
diệt chủng người Do thái của Hitler, sang định cư ở New York và ông trở 
thành công dân Mỹ năm 1943. Kissenger giữ nhiều vai trò quan trọng cho 
chính phủ thuộc đảng Cộng Hòa từ năm 1968 đến năm 1976.
  
 Khi
 còn là cố vấn an ninh quốc phòng cho Tổng thống Nixon, Kissinger đã hòa
 giải với Bí thư Leonid Brezhnev để giảm bớt căng thẳng cho cuộc chiến 
tranh lạnh giữa Nga và Mỹ. Năm 1971 Kissinger đã bí mật qua Trung Quốc 
hai lần  thương thuyết với Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tịch Mao Trạch 
Đông để mở đường cho cuộc viếng thăm lịch sử Trung Hoa của Tổng thống 
Nixon và sau đó bình thường quan hệ giữa hai quốc gia. Đây là khúc quanh
 lịch sử cho cuộc chiến Việt Nam bởi vì khi còn là giáo sư của đại học 
Harvard, Kissinger đã được Đại sứ Henry Cabot Lodge mời qua Sàigòn rất 
nhiều lần trong những năm 1965, 1966. Khi về Hoa Thịnh Đốn, Kissinger đệ
 trình lên Nixon chương trình “Việt Nam hóa cuộc chiến và rút quân trong
 danh dự”. Do đó khi cuộc chiến Trung Đông bùng nổ năm 1968, Kissinger 
đã không ngần ngại đánh đổi Việt Nam cho sự hòa bình của Do thái. Tại 
sao? Vì Nga sô và Trung Cộng là hai thế lực cung cấp vũ khí cho khối Ả 
Rập cho nên Kissinger nhượng bộ Việt Nam thì Nga và Tàu sẽ làm áp lực 
với Ai Cập buộc họ rút quân ra khỏi những vùng chiếm được của Do thái.
  Bù
 lại Hoa Kỳ sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam. Kết quả đưa đến sự thương 
thuyết dai dẳng giữa Kissinger và Lê Đức Thọ rất nhiều năm và sau cùng 
Hiệp định đình chiến Paris năm 1973 ra đời mà trong đó Hoa Kỳ sẽ rút tòa
 bộ lục quân ra khỏi Việt Nam. Tháng 10 năm 1973 Kissinger và Lê Đức Thọ
 được giải thưởng Nobel cho hòa bình. Lê Đức Thọ từ chối không nhận vì 
ông nói rằng chiến tranh Việt Nam vẫn còn trong khi đó Kissinger bị 
nhiều khuynh hướng lên án hành động bán đứng đồng minh của ông chớ không
 phải thiết lập hòa bình cho miền Nam Việt Nam nên ông không xứng đáng 
lãnh giải thưởng này. Kissinger khi lãnh giải thưởng đã viết cho hội 
đồng Nobel là ”I accepted the award with humility” dịch là “Tôi nhận 
giải thưởng với bao sự nhục nhằn”. Kissinger làm Bộ trưởng ngoại giao 
cho Tổng thống Nixon năm 1973 đến khi Nixon từ chức vì vụ nghe lén 
Watergate năm 1974. Ông tiếp tục làm bộ trưởng ngoại giao cho Tổng thống
 Ford đến năm 1977 và dĩ nhiên chứng kiến sự sụp đổ của miền Nam Việt 
Nam năm 1975.
  
 Truyền
 thống xung đột giữa Thiên Chúa giáo, Do thái giáo và Hồi giáo lúc tăng 
lúc giảm chớ không bao giờ biến mất theo thời gian. Muhammad sáng lập ra
 Hồi giáo dựa trên sự xâm lăng tàn bạo tiến chiếm cả vùng Trung Đông, 
tới bắc Phi Châu, sang tới A Phú Hãn, Parkistan và sang cả Á Châu như 
Nam Dương, Phi Luật Tân và Mã Lai Á.
  
 Nằm
 trong chủ trương cực đoan này mà Phật giáo ở Ấn Độ đã bị Hồi giáo tiêu 
diệt gần như mất tích. Sự biến mất của đạo Phật ở Ấn Độ, nơi mà Phật 
giáo đã được sinh ra, trưởng thành và đạt đến những thành tựu cao nhất 
là một hiện tượng khó tin nhưng có thật. Một trong những lý do là vì Đức
 Phật đã lên án chế độ giai cấp và nhấn mạnh vào sự bình đẳng của mọi 
người. Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng chống lại những luật lệ xã hội
 áp bức lên con người và Ngài không thừa nhận nguồn gốc linh thiêng cũng
 như chứng minh sự giả dối của giai cấp Bà la môn. Tôn giáo của Đức Phật
 là một cái gai trong mắt của những người Bà la môn. Chính Đức Phật đã 
khẳng định rằng:”Giá trị là đặt nền tảng trên những hành động, chứ không
 phải trên sự sinh ra” nghĩa là tất cả mọi người đều giống nhau”. Thật 
sự, người Bà la môn không chống đối Phật giáo trên những giáo lý thuộc 
về triết lý hay đạo đức, mà họ rất ghét tư tưởng bình đẳng trong đạo 
Phật. Tiến sĩ Ambedkar xác định rằng :
  
 ”Bất
 bình đẳng là giáo lý chính thức của đạo Bà la môn. Đức Phật chống lại 
gốc rễ và cành lá của nó. Ngài là một đối thủ mạnh mẽ nhất của chế độ 
đẳng cấp và là cột trụ vững chãi nhất của tinh thần bình đẳng. Không có 
một lý lẽ nào về vấn đề giai cấp mà Ngài không bác bỏ”.
  
 Vì
 thế khi đạo Phật yếu đi, người Bà la môn dùng mọi cách để lấy lại quyền
 lực và danh vọng đã mất. Tệ hại hơn nữa, họ còn tìm cách hủy diệt những
 giáo pháp của Đức Phật khỏi đất nước Ấn Độ. Đạo Bà la môn thờ cúng đa 
thần như thần nước, thần lửa, thần mây, thần gió…nhưng giáo lý Đức Phật 
phủ nhận việc thờ cúng thần linh khiến họ rất căm thù. Một trong những 
nguyên nhân khác trong việc làm cho Phật giáo suy tàn và sụp đỗ nhanh 
chóng ở Ấn Độ là sự đàn áp của những nhà cầm quyền và những người cuồng 
tín. Lịch sử Phật giáo chép rằng Sasanka một người thuộc giai cấp Bà la 
môn, vua nước Gauda (Bengal) sau khi giết Rajyavardhana vào năm 605 sau 
Tây lịch, vị hoàng đế Phật giáo cuối cùng, đã cuồng tín đến nỗi, trong 
cơn giận dữ ông đã chặt bỏ cây Bồ-đề, đào đến tận mạch nước dưới đất, 
nhưng không thể đào đến chỗ rễ tận cùng của nó nên quá tức giận dùng lửa
 đốt và tưới nước mía lên với ý định tiêu diệt nó hoàn toàn và không để 
lại một vết tích nào về sau. Ông cũng đã dời tượng Phật từ ngôi chùa gần
 cây Bồ-đề và thay vào bằng thần Shiva. Ông cũng đã liệng vào sông Hằng 
tảng đá thiêng liêng có dấu bàn chân của Đức Phật ở thành Hoa Thị 
(Pataliputra). Sau đó ông tiêu diệt hết Tăng sĩ trong khu vực Câu Thi 
Na. Ngoài sự đàn áp của vua chúa và tôn giáo,
  Phật
 giáo còn là đối tượng đàn áp và tẩy chay của xã hội. Khi Phật giáo suy 
tàn, người Ấn Độ giáo khinh khi, đàn áp những tín đồ Phật giáo, xem họ 
như là thành phần bẩn thỉu, thấp hèn nhất trong xã hội Ấn Độ. Sau cùng, 
khi người Hồi giáo xuất hiện ở Ấn Độ bắt đầu từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 
thứ 12 thì họ cố gắng thực hiện hai mục tiêu. Thứ nhất là nắm quyền 
chính trị và thứ hai là tiêu diệt những tôn giáo khác rồi truyền bá Hồi 
giáo. Sự xâm nhập của người Hồi giáo đẩy mạnh sự điêu tàn của Phật giáo 
trên đất Ấn. Họ san bằng các tu viện và thủ tiêu hầu hết các Tăng sĩ 
trong tu viện đó. Vua Mahmud Gazinavi đã cướp bóc những chùa chiền và 
vua Bakhtiaruddin đã phá hũy những tu viện Nalanda, Vikramasla và 
Odentapuri. Họ quét sạch tận gốc những tu viện Phật giáo rãi khắp trong 
nước. Cả ngàn Tăng sĩ sống sót phải chạy trốn qua Nepal, Tây Tạng, Tích 
Lan và những nước ngoài Ấn Độ. Hàng chục ngàn tu sĩ Phật giáo đã bị giết
 chết dưới lưỡi gươm bởi những người lính Hồi giáo. Đây là cuộc khủng bố
 lớn nhất làm cho Phật giáo suy tàn ở Ấn Độ.
  
 Đạo
 Phật bị biến mất tại Ấn Độ mãi cho đến khi những người khảo cổ của Anh 
Quốc khám phá vào năm 1860 một cột đá khá cao mà ngày xưa vua A Dục đã 
cho khắc lên đó rằng : ”Đây là nơi sinh ra của đấng giác ngộ” bằng cổ 
ngữ Brami tức là ngôn ngữ của người bản xứ lúc bấy giờ. Tiến trình này 
kéo dài cho đến năm 1890 thì họ mới tìm được nơi Đức Phật đản sinh Lâm 
tì ni và cung thành Ca tỳ la vệ. Đây là một công trình khảo cổ kéo dài 
rất nhiều năm với sự hướng dẫn của tiến sĩ khảo cổ học Cunningham của 
nước Anh.
  
 Nhưng tại sao Phật giáo bị suy yếu?
  
 Chính
 Đức Phật đã vạch ra con đường cho những đệ tử của Ngài, những vị Tỳ 
kheo hay cư sĩ tại gia, là những người không những tìm sự giác ngộ bằng 
thực hành những giới luật đạo đức và tâm linh, mà còn là những người 
phụng sự xã hội, dìu dắt chúng sinh và hướng đạo cho quần chúng. Đức 
Phật là một vị Thầy tôn giáo đầu tiên ở Ấn Độ và là của toàn thế giới đã
 đưa ra lý tưởng hy sinh, quên mình và phục vụ cho kẻ khác (Bồ-tát đạo).
 Ngài khuyến khích chư đệ tử đi và đi khắp mọi nơi vì hạnh phúc và lợi 
ích của chúng sinh. .
  Ngài
 chủ trương rằng một Tỳ kheo phải xin ăn, phải sống bằng vật bố thí và 
phải hạn chế chỉ ăn ngày một bữa. Nhờ áp dụng triệt để lời dạy của Thế 
Tôn, những Tỳ kheo đầu tiên đã đạt đến những tiêu chuẩn cao nhất của 
lòng hy sinh, phụng sự và kính tín. Họ đã biến Phật giáo trở thành một 
tôn giáo phổ biến và được tôn kính nhất ở Ấn Độ. Tiếc thay, con ma vô 
thường cũng không thương xót cho dù đó là Phật giáo. Khi các tu viện trở
 nên giàu có thì việc hoằng dương Phật pháp không còn y theo lời dạy của
 Phật. Các vị Tỳ kheo trở nên xao lãng và thụ động nên họ đánh mất đi sự
 tương quan giao hảo gần gũi với đại chúng. Những khuôn mẫu đem Phật 
giáo đến với đại chúng không còn nữa, mà chúng sinh phải đến tu viện để 
được thọ pháp. Vì thế dần theo thời gian số người đến với tu viện càng 
ngày càng giảm cũng như mối tương giao giữa Phật giáo và đại chúng không
 còn chặt chẽ tha thiết như thời Đức Phật còn tại thế. Họ chỉ lo nghiên 
cứu từ chương thay vì truyền bá giáo Pháp.
  
 Chính nhà khảo cổ, thám hiểm và học giả Cunningham đã nói về vấn đề này như sau :
  
 “Phật
 giáo thực sự đã trở thành một tín ngưỡng già nua và kiệt lực. Những vị 
khất sĩ không còn đi khất thực, nhưng từ lâu đã được hổ trợ bằng đất đai
 dành riêng cho các tu viện. Các vị Sa Môn và Tỳ Kheo không giống như 
những người của thời xưa, những người uyên bác và trí tuệ. Sự tiết độ về
 thân xác và sự nhất tâm thiền quán cộng với những chủ trương thực tiễn 
và gương mẫu trong sạch đã kích thích lòng sung kính của quần chúng. 
Những Tỳ Kheo Phật giáo hiện tại rơi vào tình trạng mục nát, họ bằng 
lòng sống một đời thụ động trong những công việc tẻ nhạt hằng ngày của 
đời sống tu viện, nơi đó còn một vài dấu hiệu tôn giáo bề ngoài, nhưng 
không còn sự tha thiết nồng nhiệt trong sinh hoạt thiếu sinh khí của 
những công việc tẻ nhạt hằng ngày.  Lòng hăng say đã có thời đốt cháy 
trong tim của mỗi người tu sĩ Phật giáo trong việc truyền bá tôn giáo 
của họ đã dập tắt từ lâu”.
  
 Một
 nguyên nhân lớn lót đường cho sự suy tàn của Phật giáo là Ấn Độ giáo đã
 thần thánh hóa Đức Phật và họ còn đưa ra một số thần và nữ thần Ấn Độ 
giáo vào làm các vị thần Phật giáo dưới dạng những Bồ-tát làm cho Phật 
giáo không còn khác biệt với các thần thánh của Ấn Độ giáo. Chính điều 
này đã xóa tan sự khác biệt giữa hai tôn giáo và họ chứng minh rằng Phật
 giáo chỉ là một tông phái của Ấn Độ giáo. Cũng vậy, khi Phật giáo 
truyền vào Trung Hoa đã bị Lão giáo và Nho giáo biến Phật giáo thành 
thần giáo mê tín dị đoan. Tóm lại, tất cả những tôn giáo lớn trên thế 
giới đều là thần giáo duy chỉ có Phật giáo là  tôn giáo không có tín 
ngưỡng mà thôi.
  
  5) Đạo Nho (Khổng Giáo) :
  
 Vào
 thời Đức Phật tức là khoảng thế kỷ thứ 6 trước công nguyên,  trong khi 
châu Âu còn nằm trong bóng tối của sự man rợ duy chỉ có Hy Lạp khởi đầu 
với các triết gia Heraclitus và Pythagoras (571-497 B.C) (nhà triết học 
và toán học nổi tiếng của cổ Hy Lạp), sau đó còn có những triết gia Hy 
Lạp khác là Socrates (469-399 B.C) và Plato (427-347 B.C) (tên thật là 
Aristocles) đã mở rộng ảnh hưởng chính trị và văn hóa của mình thì xã 
hội Trung Hoa tương đối được tổ chức có kỷ cương với nếp sinh hoạt văn 
hóa cao nhất. Đây là thời Xuân Thu kéo dài từ năm 722 tới năm 481 trước 
công nguyên. Trong thời kỳ này mặc dầu nhà Châu vẫn còn đó, nhưng các 
tiểu quốc tranh giành, chém giết triền miên khiến dân tình sống trong 
lầm than khổ sở. Vì sự bất ổn này mà đã xuất hiện rất nhiều “thuyết trị 
quốc” khác nhau nên được gọi là “Bách gia chu tử”. Nhưng nổi bật hơn hết
 là hai nhà hiền triết Khổng Tử và Lão Tử. Lão Tử sinh năm 584 trước 
công nguyên, khoảng 18 hoặc 20 năm trước Khổng Tử và mãi 58 năm sau tức 
vào năm 526 mới gặp Khổng Tử. Khổng Tử ngựa xe bôn ba lục quốc để thuyết
 triết lý an bang trị nước. Triết lý của Khổng Tử có thể được hiểu đại 
để như sau :
  
 1) Tam cương :  vua tôi, cha mẹ, vợ chồng.
 2) Ngũ thường : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
 3) Tứ hạnh : hiếu, đễ, trung, tín.
 4) Tứ duy : lễ, nghĩa, liêm, sĩ.
  
 Nói
 chung đạo Nho là đạo xử thế, đạo làm người vì tu thân, tề gia mới có 
thể bình thiên hạ được. Ông tin vào quỷ thần nên có tục tế Trời, tế Đất 
và tế Quỷ Thần. Khổng Tử xem Trời như là một Chúa Tể càn khôn, sinh hóa 
ra muôn vật và chủ trì vận mệnh của vũ trụ và con người. Khi nói về đạo 
Trời, ông nói rằng : ”Dục tu Tiên Đạo, tiên tu Nhân Đạo; Nhân Đạo bất 
tu, Tiên Đạo viễn hỷ” nghĩa là muốn tu đạo Trời thì trước hết phải tu 
đạo làm người. Nếu không tu đạo làm người thì đạo Trời xa vời, không bao
 giờ đạt được. Thật ra ngày nay đạo Nho không còn thực dụng và chỉ còn 
là môn cổ học vì xã hội phong kiến bất bình đẳng :  “Quân xử thần tử 
thần bất tử bất trung, Phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu, Trai năm thê
 bảy thiếp gái chính chuyên một chồng, trên đội dưới đạp, chồng chúa vợ 
tôi” đã bị cáo chung và được thay thế bằng hệ thống bầu cử khách quan 
dân chủ, bình đẳng dựa theo tinh thần “Dân vi quý”.
  
 Gần
 đây có một cô gái ở Cần Thơ vừa lấy chồng Đài Loan than thở rằng : ”Nhà
 em không nghèo. Không phải em lấy chồng Đài Loan vì sợ nghèo. Mà em 
không biết lấy ai trong đám trai làng. Từ ông, tới bố, tới các chú các 
bác, tới đám thanh niên, tối ngày nhậu nhẹt, say xỉn. Rồi chửi bậy, đánh
 nhau, rồi mắng mỏ mẹ em khi bà vừa bước ngoài đồng về đã sấp ngửa lo 
nấu bữa cơm chiều. Chị em đi lấy chồng, được vài bữa thì bị chồng đánh 
đập. Nhà em không dám can ngăn. Em sợ cái cảnh đó lắm”. Nhưng cô có biết
 rằng Trung Hoa, cho dù là Đài Loan Trung Hoa, vẫn là cái nôi của phong 
kiến, hy vọng cô tránh vỏ dưa đừng gặp vỏ dừa.
  
 Khi
 nói về giải phóng văn hóa, cải cách xã hội thì nhóm Tự Lực Văn Đoàn có 
lẽ là những người đi tiên phong để thay đổi hệ thống “quân, sư, phụ” 
trên đội dưới đạp, trọng nam khinh nữ, mẹ chồng nàng dâu khắc nghiệt của
 chế độ phong kiến. Năm 1932, nhóm Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh Nguyễn 
Trường Tam sáng lập với chủ trương :
  
 “Lúc
 nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo 
chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng tự
 do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa”. 
Translation : ”It is always new, youthful, life affirming and believes 
in progress. It adheres to a popular ideology and shuns elitism. It 
respects individual freedom. It teaches that Confucianism is no longer 
relevant”.
  
 Nhóm
 Tự Lực Văn Đoàn đã đóng góp rất nhiều cho nền văn chương, thơ phú và đã
 chuyển Việt ngữ trở thành Quốc ngữ như ngày nay. Nhóm này quy tụ những 
ngòi bút đã cách mạng hóa cuộc sống phong kiến của người dân Việt cả 
ngàn năm lệ thuộc Tàu như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo (Nguyễn Tường 
Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mở (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ 
(Nguyễn Thứ Lễ), Xuân Diệu, Trần Tiêu, Trọng Lang, Huy Cận…với những tác
 phẫm như : Hồn Bướm Mơ Tiên bởi Khái Hưng, Đoạn Tuyệt bởi Nhất Linh, 
Tiêu Sơn Tráng Sĩ bởi Khái Hưng, Gánh Hàng Hoa bởi Khái Hưng, Nửa chừng 
Xuân bởi Khái Hưng, Dưới Bóng Hoàng Lan bởi Thạch Lam, Một Người Say 
Rượu bởi Thế Lữ… Hãy lắng nghe bài thơ :
  
 Hẹn Hò của Thi Sĩ Xuân Diệu :
  
 Anh đã nói, từ khi vừa gặp gỡ
 Anh rất ngoan, anh không dám mong nhiều
 Em bằng lòng cho anh được phép yêu
 Anh sung sướng với chút tình vụn ấy
 Em đáp lại: Nói gì đau đớn vậy!
 Vừa gặp anh em cũng đã mến rồi
 Em phải đâu là ngọn nước trôi xuôi
 Chưa hy vọng sao anh liền thất vọng?
 Lời nói đó về sau đem gió sóng
 Cho lòng anh đã định chỉ yêu thôi
 Anh tưởng em là của anh rồi
 Em mắc nợ, anh đòi em cho được.
 Đấy, ai bảo em làm anh mơ ước
 Lúc đầu tiên anh có mộng gì đâu
 Tưởng có nhau ai ngờ vẫn xa nhau
 Em ác quá! Lòng anh như tự xé...
  
 Tháng
 3 năm 1946, chánh phủ Liên Hiệp Kháng Chiến được ra đời đặt thủ đô tại 
Hà Nội mà Chủ tịch là Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch là Nguyễn Hải Thần, một 
người thuộc đảng Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Nguyễn Tường Tam 
thuộc đảng Việt Quốc làm Bộ Trưởng Ngoại giao. Nhắc lại trước đó tháng 5
 năm 1945, tại Trùng Khánh Trung Hoa, Nguyễn Tường Tam sáp nhập Đại Việt
 Dân Chính đảng với Việt Nam Quốc Dân đảng, nhưng mãi đến cuối năm 1945 
tổ chức này ra công khai với danh xưng Mặt Trận Quốc Dân đảng gọi chung 
là Việt Nam Quốc Dân đảng hay Việt Quốc. Thực dân Pháp lúc bấy giờ vừa 
mới chiếm lại miền Nam, vài tỉnh miền Nam Trung phần và đang trên đường 
đến Quảng Nam và Huế.
  Chỉ
 4 tháng sau ngày thành lập chánh phủ Liên Hiệp, tức là tháng 7 năm 
1946, khi tranh chấp giữa Việt Minh (Cộng Sản) và các phe đối lập quốc 
gia xảy ra, Nguyễn Hãi Thần chạy trốn thoát sang Trung quốc, Khái Hưng 
bị bắt giam tại một trại tù ở Việt Bắc. Vì quá ốm yếu, bị đi kiết lỵ và 
bị hành hạ với cuộc sống đầy ải của nhà tù nên Khái Hưng chết ngày 
17-11-1947, Nguyễn Tường Tam vội vượt Trường Sơn vào Nam lánh nạn và 
định cư ở Đà Lạt. Mãi đến năm 1960 ông từ Đà Lạt về Sài Gòn thành lập 
Mặt trận Quốc Dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chánh của Đại tá Nguyễn 
Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Đảo chánh thất bại, ông bị chánh 
quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng. Ngày 8-7-1963, là ngày 
chánh phủ Ngô Đình Diệm đưa ông ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng 
thuốc độc quyên sinh để phản đối chính quyền độc tài của Ngô Đình Diệm. 
Trong tờ di chúc, ông có để lại một câu nói rất nổi tiếng :
  
 “Đời
 tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả…Tôi chống đối sự đó 
và tự hủy mình để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do”.
  
 Nhất Linh tuy ra đi, nhưng :
  
 “Người quay tơ đôi bạn tối tăm,
  
 Anh phải sống chớ sao đoạn tuyệt?
 Đời mưa gió lạnh lùng bướm trắng,
 Buổi chiều vàng đâu nhỉ nắng thu?
  
 Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã viết bài truy điệu cho ông rằng :
  
 “Than ôi! Đời chính trị lông hồng gieo núi Thái
 Ngẩng đầu lên sấm sét vẫn chưa nguôi,
 Việc văn chương một tấc để ngàn thu,
 Ngoảnh mặt lại đá vàng sao khỏi thẹn,
 Muốn gào to hồn phách anh linh,
 Để vọng khắp giang sơn tam biến!”.
  
 Tuy
 cuộc đời chính trị của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam có vẻ phước tạp đầy 
sóng gió, nhưng có lẽ sự quan trọng nhất trong con người của ông và nhóm
 Tự Lực Văn Đoàn là ở tấm lòng tha thiết với sự canh tân đổi mới của văn
 học và văn hóa dân tộc.
  
  6) Đạo Lão :
  
 Lão
 Tử sinh vào ngày 14 tháng 9 năm 604 trước tây lịch (cách nay tức năm 
2010 khoảng 1614 năm). Dựa theo truyện Đông Châu Liệt Quốc thì ông sinh 
vào năm thứ ba đời vua Châu Định Vương thuộc nước Sở tại ấp Khúc Khâu, 
làng Lạc, quận Tần. Tương truyền rằng mẹ của Ngài là một người trinh nữ 
một hôm bà đứng dưới gốc cây “lý” thấy trên cây có một trái lý chín rất 
tươi đẹp và thơm ngon nên bà bèn với tay hái trái lý mà ăn. Từ đó bỗng 
nhiên bà có thai. Phụ thân của bà là một tướng sư đoán biết con gái mình
 đang mang thai thánh nhân nên nuôi dưỡng bà rất kỹ lưỡng. Bà mang Ngài ở
 trong thai 81 năm mà vẫn chưa sinh ra được.
  Một
 hôm bà ra đứng dưới cây lý hóng mát, bỗng nghe ở hông bên trái ngứa 
ngáy nên bà vội ngó xuống xem thì thấy hông ấy da thịt rách ra một đường
 dài. Ngài liền theo đường nứt đó mà chào đời. Lúc ấy trên trời hiện ra 9
 con rồng phun nước xuống tắm gội cho Ngài. Vì ở trong thai 81 năm nên 
khi ra đời tóc, râu Ngài đều bạc trắng cả. Vì vậy mà người đời gọi Ngài 
là Lão Tử (Lão là già, Tử là đồng tử, là đứa con nít. Tuy là con nít mà 
lại là ông già đầu râu, tóc bạc). Vì không có cha, và do ăn trái lý mà 
thọ thai Ngài nên mẹ Ngài lấy chữ Lý làm họ, đặt cho tên là Nhĩ, tự Bá 
Dương. Khi Đức Khổng Tử còn du học ở Lạc Ấp có đến yết kiến Lão Tử thì 
được Ngài dạy rằng : ”Người quân tử gặp thời thì đi xe, không gặp thời 
thì đội nón lá mà đi chân đất”. Ý nói là phải biết an phận, thủ thường.
  
 Khác
 với Khổng Tử ngựa xe bôn ba lục quốc chư hầu, Lão Tử ẩn dật ở đất Bái 
nước Châu. Thấy nhà Châu suy vi, Lão Tử bỏ đi. Khi đến ải Hàm Cốc, quan 
lệnh là Doãn Hỉ nói:”Ngài sắp đi ẩn, xin cố vì tôi viết sách để lại”. 
Lão Tử nán lại vài ngày soạn xong Đạo Đức kinh với trên 5,000 chữ gồm có
 81 đoạn ca ngắn, để ở đó, rồi cưỡi trâu mà đi. Lão Tử là người đầu tiên
 tại Trung Hoa đưa ra một quan niệm về vũ trụ và những lời trong cuốn 
sách nhỏ này đã thấm sâu vào dân tộc và làm cốt lõi của văn hóa Trung 
Hoa. Về sau, vua nhà Đường đã thỉnh cầu Tam tạng Pháp sư Trần Huyền 
Trang dịch Đạo Đức kinh sang tiếng Phạn để phô trương văn hóa Trung Hoa 
cho người Ấn Độ. Đạo Đức kinh tạo thú sống cho tao nhân quân tử vừa là 
một tôn giáo cho giới bình dân ngưỡng vọng.
  Trọng
 tâm của học thuyết Lão Tử là Đạo và Đức. Theo ông, Đạo là một, một sinh
 hai, hai sinh ba…và sau đó sinh ra vạn vật. Lão Tử đếm vài con số và 
nói như thế, nhưng phải hiểu rằng Đạo thì không thể nói hay định nghĩa 
được. Nhưng Đạo có trước vũ trụ và Đạo là nguồn gốc của vũ trụ. Theo Lão
 Tử trời đất, muôn sinh vạn vật do Đạo mà sinh thành. Đạo là cái hỗn 
mang chưa phân, là cái nguyên thủy và là sự vận động hằng hữu mà ta 
không thể cảm, không thể biết. Đạo vô danh, vô hình và là căn nguyên cốt
 lõi của muôn vật. Do đó muôn vật đều khởi đi từ Đạo, đi theo Đạo và 
quay về Đạo. Phần thứ hai là Đức. Chữ Đức ở đây không phải là đức hạnh 
hiểu theo lối luân lý thông thường, mà dựa theo Lão Tử thì Đức là mầm 
sống ngấm ngầm trong vạn vật. Vì thế Đạo sinh ra còn Đức thì nuôi nấng. 
Cái Đạo “phi thường Đạo” được Lão Tử nói đến là thiên nhiên, năng lượng 
sức sống và sự vận hành của thiên nhiên.
  Còn
 Đức là cứ theo tự nhiên mà sống, thuận theo thiên lý mà lưu hành. Trong
 cái Đạo của vũ trụ đó, thiên nhiên và những quy luật của chúng tập hợp 
thành cái trụ cốt, cái bản thể. Còn trời đất và sinh linh là những thực 
thể có vị trí thích hợp và chức năng thích hợp theo một thể thức tự 
nhiên. Đạo chỉ biết được bằng trực quan chớ không phải bằng lý trí. Lão 
Tử không lập luận về Đạo vì ông chống lý trí. Tư tưởng của Lão Tử là lý 
trí khiến ta nhìn cuộc đời với con mắt nhị nguyên. Trí năng khiến con 
người phân biệt cái hay cái dở nên sinh ra ham muốn. Ông chủ trương bỏ 
trí năng, bỏ văn tự, bỏ việc dạy dỗ dân, để dân chúng sống mộc mạc, tự 
nhiên. Một điểm then chốt khác của Lão Tử là ông nhìn sự vật thường 
xuyên biến đổi và nhận ra luật mâu thuẫn của vạn vật.
  Đó
 là cái yên tĩnh là chủ của cái xao động, cái cao lấy cái thấp lám gốc, 
cái thật đầy thì giống như trống không, con người thật khôn khéo thì 
giống như quá vụng về…Ông còn nhận ra luật phản phục ở bên trong vũ trụ.
 Đó là vật gì phát tới cực điểm thì phản hồi, hễ tăng rồi thì phải hao 
giảm, trăng tròn rồi lại khuyết, hết mùa đông tới mùa xuân…Tất cả đều là
 “Cùng tắc biến, biến tắc thông”. Vũ trụ trong cùng một lúc, bị chi phối
 bởi luật mâu thuẩn và luật phản phục nên vạn vật đều nương tựa với nhau
 mà sinh tồn và tương tác tạo điều kiện cho nhau. Do đó “có” và “không’ 
cùng sinh, khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng hình, cao và thấp cùng
 nghiêng, âm và thanh cùng họa, trước và sau cùng theo.
  Lão
 Tử cho rằng tuy Đạo không thể hiểu, không thể nói, không thể bàn, nhưng
 loài người chỉ cần sống tốt nhất bằng việc đi trên con đường Đạo. Song 
song với Đạo, loài người sống với Đức là sống không phân biệt nhị 
nguyên, không miễn cưỡng mà sống rất tự nhiên, vi vô vi, làm một cách tự
 nhiên và đi đúng con đường vận hành của Đạo. Đối với phép trị nước an 
dân, Lão Tử chủ trương một chính quyền theo thuyết “vô vi nhi trị” nghĩa
 là trị mà như không trị tức là nếu dùng trí thuật mà trị nước tức là 
làm hại quốc gia. Chính quyền dựa theo ông gồm những người chất phác, ăn
 ở giản dị, không xa hoa. Họ không can thiệp vào chuyện của nhân dân, 
không dựa vào thánh nhân để dạy dỗ dân, không tôn quý hiền tài và không 
vận dụng lý trí để ứng xử với dân. Luật pháp phải rộng rãi và uyển 
chuyển vì càng gia tăng luật lệ thì dân càng bị trói buộc, khổ sở. Trọng
 dụng hiền tài chỉ làm dân tranh nhau để được tiếng là người hiền. Lão 
Tử triệt để bát bỏ chiến tranh. Theo ông, nước lớn mà hạ mình trước nước
 nhỏ thì được nước nhỏ thần phục; nước nhỏ mà hạ mình trước nước lớn thì
 tất được nước lớn che chở.
  
 Bài đầu tiên trong Đạo Đức kinh là :
  
 Đạo khả đạo, phi thường đạo.
 Danh khả danh, phi thường danh.
 Vô, danh thiên địa chi thủy;
 Hữu, danh vạn vật chi mẫu.
  
 Cố :
  
 Thường vô dục dĩ quan kỳ diệu;
 Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu.
 Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh.
 Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền.
 Chúng diệu cho môn.
  
 Dịch là :
  
 Đạo có thể gọi là đạo, không phải là đạo thường.
 Tên có thể gọi là tên, không phải là tên thường.
 Không, là tên gốc của trời đất,
 Có, là tên mẹ của muôn vật.
  
 Cho nên,
  
 Phải dẹp ham muốn để thấy chỗ vi diệu
 Phải giữ ham muốn để thấy chỗ biểu hiện
 Cả hai (không và có) cùng sinh một nơi, nhưng khác tên.
 Cả hai cùng huyền diệu, huyền diệu mấy tầng
 Đó là cửa mọi biến hóa huyền diệu.
  
 Sau đó ông viết tiếp :
  
 Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ;
 Giai tri thiện tri vi thiện, tu bất thiện dĩ
  
 Cố :
  
 Hữu vô tương sinh
 Nan dị tương thành
  
 ………………..
  Dịch là:
  
 Khi thiên hạ biết cái đẹp là đẹp, thì đã có cái xấu;
 Biết điều lành là lành, thì đã có không lành
  
 Bởi vậy :
  
 Có và Không cùng sinh ra nhau.
 Khó và dễ cùng tạo hành nhau.
 ……………………
  
 Và sau cùng ông viết :
  
 Thiện giả bất mỹ, mỹ ngôn bất tín
 Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện
 Tri giả bất bác, bác giả bất tri
 Thánh nhân bất tích
 Ký dĩ vi nhân kỷ dũ hữu
 Ký dĩ dữ nhân kỷ dũ đa
 Thiên chi Đạo, lợi nhi bất hại
 Thánh nhân chi Đạo, vi nhi bất tranh.
  
 Dịch là :
  
 Lời thật không hoa mỹ, lời hoa mỹ thì không thật
 Kẻ tốt khỏi cần biện giải, kẻ biện giải khó tốt
 Người hiểu biết không nhất thiết là người học rộng
 Người học rộng không hẳn là người hiểu biết
 Bậc thánh nhân không thâu chứa tích trữ
 Càng giúp người mình càng được thêm nhiều
 Càng cho người, mình lại càng có thêm cho mình
 Đạo của trời, lợi mà không hại
 Đạo của Thánh nhân, làm mà không tranh dành.
  
 Khi Khổng Tử được 51 tuổi mà vẫn chưa nghe được về Đạo, nên Ngài mới từ bắc đi xuống đất Bái ở phương nam để yết kiến Lão Tử :
  
 Lão Tử hỏi :
  
 - Ông lại đấy ư? Tôi nghe nói ông là người hiền phương bắc. Vậy ông có hiểu Đạo không?
  
 Khổng Tử đáp :
  
 - Tôi chưa hiểu.
  
 - Ông tìm Đạo cách nào?
  
 - Tôi tìm Đạo trong độ số, năm năm mà không được.
  
 - Rồi làm sao nữa?
  
 - Rồi tôi tìm nó trong âm dương, mười hai năm mà không được.
  
 -
 Trời có vận chuyển không? Đất có đứng im không? Mặt trời mặt trăng có 
tranh chỗ nhau không? Ai làm chủ tể cái đó? Ai duy trì cái đó? Ai vô sự 
mà đẩy cái đó, khiến nó quay? Hoặc giả có một cái máy bí mật bất đắc dĩ 
chạy hoài chăng? Hay là vũ trụ tự nhiên vận chuyển mà không tự ngừng 
được chăng? Mưa là do mây chăng? Hay mây là do mưa? Ai làm cho mưa đổ? 
Ai vô sự mà cao hứng làm ra cái đó? Gió nổi ở phương bắc, khi thì thổi 
qua tây, khi thì thổi qua đông, có lúc lại xoáy ốc, mà cuốn lên cao? Ai 
hô hấp mà thành như vậy? Ai vô sự mà hướng gió về phía này phía khác và 
làm gió ngừng? Xin hỏi ông nguyên do ở đâu?
  
 Lão Tử lại nói tiếp :
  
 -
 Dĩ nhiên! Nếu Đạo mà có thể dâng cho người khác được thì ai cũng đem 
dâng nó lên vua rồi. Nếu nó có thể tặng được thì ai cũng tặng nó cho cha
 mẹ rồi. Nếu nó có thể bảo cho người khác hay được thì ai cũng bảo cho 
anh em rồi. Nhưng không được. Nguyên do như vầy : Trong lòng không có 
bản chất của Đạo thì Đạo không lưu lại trong đó được. Ngoài không phối 
hợp với đối tượng thì Đạo không vận hành được. Nếu phát động ở trong mà 
ngoài không tiếp thụ được thì thánh đức không hiện. Nếu phát động ở 
ngoài mà trong lòng không có sẵn bản chất của Đạo thì thánh đức không 
lưu lại.
  
 Danh
 vọng là của người khác cho mình, không nên nhận nhiều quá. Nhân và 
nghĩa là quán trọ của tiên vương, chỉ nên ghé đó một đêm, không nên ở 
lâu vì ở lâu thì bị nhiều điều trách móc.
  
 Bậc
 chí nhân thời xưa mượn con đường “nhân” mà đi, ghé quán “nghĩa” mà nghĩ
 chớ không ở đó lâu nên mới có thảnh thơi tiêu dao, sống đạm bạc thì dễ 
được thỏa mãn. Ai nhắm việc làm giàu thì không từ bỏ được lợi lộc. Ai 
nhắm sự vinh hiển thì không từ bỏ được cái danh. Ai ham quyền thế thì 
không muốn nhường quyền binh cho người được. Nắm giữ nó thì run sợ mà 
buông ra thì rầu rĩ. Những kẻ đó không có gì để tự răn mà hãm bớt thị 
dục.
  
 Nói chung, triết lý của ông gồm bốn điểm :
  
 1) Nếu có thông minh thánh trí thì nên sống như kẻ ngu ngơ đần độn.
 2) Đời sống nên ẩn dật không đua tranh với người.
 3) Xử thế nên nhu nhuyễn.
 4) Tánh tình nên giản phác.
  
 Sống
 lặng lẽ với thiên nhiên, không ôm hết vào mình, không tích lũy của cải 
và nên cho người khác những gì mình có. Yếu thắng cương, mềm thắng cứng 
cho nên trong thế gian không có gì yếu bằng nước, nhưng cũng không có gì
 mạnh hơn nước. Vậy cứ thanh tĩnh thì mọi vật đâu sẽ vào đấy cho nên đối
 với Lão Tử không tranh với ai nên không ai tranh được với mình.
  
 Tóm
 lại, nền minh triết của Đạo Đức kinh lúc đầu là món triết học rất cao 
siêu, nhưng rất tiếc về sau cái học thuyết đó bị các đệ tử cộng thêm 
phần phép thuật biến hóa, chế linh đan để được sống trường sinh bất tử, 
thành tiên ngao du sơn thủy và phần thuật số, tu luyện đạo phù thủy rồi 
dần dần biến thành một tôn giáo thần bí. Đồng cốt và Cô Hồn cũng do các 
đệ tử của Lão Tử bày ra. Đồng cốt thờ chư vị như Liễu Hạnh Công Chúa, 
Cửu Thiên Huyền Nữ, các vị hoàng tử, các cô các cậu. Còn cô hồn thờ ông 
Chiêu và bà Dí là hai người có nhiệm vụ đi chiêu âm hồn muốn gọi. Một 
biến thể khác của đạo Lão được nhiều người Việt Nam ưa thích và tin 
tưởng là tục xin xăm bói quẻ. Nói chung những mê tín, dị đoan này được 
giới bình dân là những người ít học tin tưởng. Ngày nay rất nhiều chùa 
Phật giáo vẫn còn tục lệ xin xăm bói quẻ thì đủ biết tinh thần Phật pháp
 sa sút đến chừng nào.
  
 Dựa
 theo sự phân tích ở trên thì đạo Lão gần gũi với đạo Phật hơn đạo Nho. 
Hai tư tưởng Phật giáo và Lão giáo tuy có đôi phần giống nhau về khuynh 
hướng siêu hình và tiêu cực đối với nhân sinh, nhưng về thực chất thì 
Lão giáo và Phật giáo hoàn toàn khác biệt. Đạo Lão lấy bản thể làm Đạo 
và theo pháp Tự Nhiên; và họ coi vũ trụ vạn hữu đều do tự nhiên mà sinh 
ra. Trong khi đó Phật giáo lấy bản thể làm Tâm cho nên vũ trụ vạn vật có
 đều do tâm. Vì không thông hiểu sự dị biệt mới sinh ra trào lưu “Nho, 
Thích, Đạo: Tam giáo đồng nguyên”. Chính trào lưu này đã làm cho Phật 
giáo bị biến thể. Mê tín dị đoan là niềm tin nơi sự tế độ của thần linh,
 nhất là những khi con người gặp phải tai nạn, bệnh tật, hay những điều 
bất trắc xảy ra trong cuộc sống. Người ta coi Phật như một vị thần linh 
có thể ban phước hay cứu độ nên đã cầu Phật như cầu các vị thần linh 
khác. Vì thế, người đệ tử Phật không còn nương tựa vào Chánh pháp, vào 
tam tạng kinh điển, vào tham thiền, niệm Phật, vào khả năng tự giác của 
mình mà chạy theo bùa chú, cờ phướng đèn lồng, đánh trống thổi kèn để 
trừ ma yểm quỷ.
  Mặc
 dù Phật giáo du nhập vào Trung Hoa rất lâu, nhưng người Trung Hoa tin 
tưởng sai lầm rằng Đức Phật và các bậc thánh nhân của Trung Hoa như Lão 
Tử và Trang Tử đã nhận ra cùng chân lý giống như nhau. Tuy Lão Tử và 
Khổng Tử là những vị thánh của thế gian, nhưng duy chỉ có Đức Phật là vị
 thánh của cả thế gian và xuất thế gian. Vào cuối thế kỷ thứ 4, có Ngài 
Huệ Viễn (334-416) sơ tổ của Tịnh độ tông Trung Hoa là một người trước 
kia theo Lão giáo và ngay cả sau khi tin theo Phật giáo vẫn còn dùng 
những tác phẩm của Trang Tử để diễn giải về Phật giáo. Vào thế kỷ thứ 3 
có Vương Phù sống vào đời Huệ Đế nhà Tây Tấn thường tranh luận với vị 
Tăng Phật giáo là Bách Viên, nhưng lần nào cũng thua nên viết một cuốn 
sách khá nổi tiếng, trong đó ông trình bày một cách trơ trẻn rằng Phật 
giáo như là kết quả của “sự giáo hóa những người man rợ” do Lão Tử thực 
hiện. Ngay cả đến thế kỷ thứ 5, rất nhiều người theo Lão giáo vẫn xem 
Phật giáo như một phương pháp được vận dụng thêm để đạt đến mục đích của
 Lão giáo.
  
 Trong
 thời cận đại, bộ phim Tây Duy Ký mà tác giả và đạo diễn Ngô Thừa Ân đã 
dựa vào cuốn Đại Đường Tây Vực Ký của Ngài Huyền Trang làm thành phim, 
nhưng ông ta đã xuyên tạc và bôi bác Phật giáo khiến những vị cao tăng 
như Hòa Thượng Hư Vân phải lên tiếng như sau :
  
 “Trong
 đời Đường, pháp sư Huyền Trang có viết quyển Tây Du Ký. Nội dung của 
quyển này vốn là những lời chân thật. Song, truyện Tây Du Ký được lưu 
truyền trên thế gian hoàn toàn là những lời ma quỷ. Hòa Thượng Bạch Vân ở
 chùa Bạch Vân giảng kinh Đạo Đức, khiến rất nhiều đạo sĩ (tín đồ Lão 
giáo) xuất gia làm tăng sĩ. Do đó, các đạo sĩ tại Trường Xuân Quán, 
không vừa lòng, nên nói dối là theo lệnh quán quân, sửa Trường Xuân Quán
 thành chùa Trường Xuân và chùa Bạch Vân thành Bạch Vân Quán. Các đạo sĩ
 tự viết ra quyển tiểu thuyết Tây Du Ký để phỉ báng Phật giáo.
  Xem
 xét kỹ càng quyển tiểu thuyết Tây Du Ký này thì sẽ thấy chân tướng của 
họ. Sự lợi hại nhất là họ chẳng hề ghi lại việc pháp sư Huyền Trang mang
 kinh vượt qua các bãi sa mạc mà trở về bổn quốc. Họ viết là pháp sư 
Huyền Trang chỉ lưu lại sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Những kinh điển 
do pháp sư Huyền Trang phiên dịch, họ hoàn toàn bỏ qua không nhắc đến. 
Thế nhân rất tin tưởng vào quyển truyện Tây Du Ký giả dối đó, khiến 
quyển Tây Du Ký chân thật lại bị chôn vùi. Để đối đầu lại quyển Tây Du 
Ký giả dối, các Phật tử viết ra bộ Phong Thần để phỉ báng các đạo sĩ. 
Quyển truyện này nói rằng các đạo sĩ, dầu tu bao số kiếp, nhưng vẫn còn 
tâm sân hận chém giết lẫn nhau. Xem hai quyển truyện này, nếu không biết
 rằng chư Phật tử cùng các đạo sĩ phỉ báng lẫn nhau, thì sẽ lầm nhận giả
 thành chân. Vì vậy, khi xem sách vở thế tục, phải phân biệt rõ những 
điều thị phi, đúng sai, tà chánh”.
  
 Nhưng
 nếu bây giờ nhìn bộ phim Tây Du Ký qua lăng kính của Duy thức học thì 
những nhân vật chính như Ngài Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới và
 Sa Tăng là biểu tượng cho bát thức tâm vương. Tôn Ngộ Không có tài 
thiên biến vạn hóa, phân biệt chánh tà quá rõ ràng thì ông là đại diện 
cho “Ý thức”. Trư Bát Giới biểu hiện cho lòng tham đắm dục tình nghĩa là
 đại diện cho bản ngã tức là “Mạt na thức”. Còn Sa Tăng thì thấy sao 
biết vậy tức là đại diện cho tiền ngũ thức : “Nhãn thức, Nhĩ thức, Thiệt
 thức, Tỷ thức và Thân thức”. Tiền ngũ thức tức là cái thấy biết chưa có
 sự phân biệt. Thí dụ như thấy có người vào nhà thì cái thấy này là Nhãn
 thức. Nhưng nếu quan sát kỹ thì thấy người đó là người đàn ông cao lớn,
 ở tuổi 50 thì cái thấy bây giờ là do ý thức phân biệt mà có. Sau cùng 
Ngài Đường Tăng là đại diện cho “A lại da thức”, là cái kho chất chứa 
tất cả. Vậy Ngài chất chứa cái gì? Trong cuộc hành trình dài suốt 17 
năm, phải mất hai năm đi và hai năm về, Ngài ghi nhận rất chi tiết tất 
cả 128 quốc gia lớn, nhỏ khác nhau từ địa dư, phong tục, tôn giáo…Và 
quan trọng hơn hết là Ngài đã thâm hiểu rất tường tận những kinh điển mà
 trong suốt 13 năm Ngài du học ở Ấn Độ.
  
 Ngay
 cả những danh từ Phật học được dịch từ Phạn ngữ cũng bị đệ tử Lão giáo 
bóp méo. Thí dụ chữ “đạo” theo Phật giáo là con đường. Còn theo Lão Tử 
thì “đạo” là căn nguyên cốt lỏi của muôn vật thế thì ý nghĩa hai chữ đạo
 hoàn toàn khác biệt, đâu có dính dấp gì nhau. Phật giáo, Nho giáo và 
Lão giáo tuy khác hẳn nhau về căn bản tín ngưỡng, nhưng người Trung Hoa 
và Việt Nam lại tin tưởng lẫn lộn như là một tín ngưỡng. Sự lẫn lộn này 
đã biến thể đạo Phật khiến Hòa Thượng Thích Thiện Chiếu, một nhà nghiên 
cứu Phật học nổi tiếng của Việt Nam trong Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học
 đã than rằng :
  
 -
 Đau đớn thay! Lạ lùng thay! Muốn bênh vực rằng Phật giáo không phải là 
một đạo mê tín hoang đường, thì sờ sờ ra đó biết bao nhiêu là chuyện 
huyển hoặc hoặc dị đoan. Muốn bào chữa cho Phật giáo không phải là một 
đạo hữu thần, thì nhan nhãn ra đó cũng cầu xin, cũng chuộc tội, có khác 
nào những kẻ ỷ lại thần quyền.
  
 Thượng Tọa Thích Tuệ Giác cũng nói rằng :
  
 -
 Thời kỳ suy đồi. Phật giáo bị phái nhà Nho công kích không được nhà vua
 săn sóc đến nữa, lâu dần thành một tôn giáo của dân chúng, không có tổ 
chức, hệ thống gì nữa. Các tăng ni phần nhiều là ít học, bày ra các mối 
dị đoan, các lễ nghi phiền phức. Còn giáo lý cao siêu của nhà Phật ít 
người hiểu đến.
  
 Ngay cả học giả Trần Trọng Kim cũng thốt lên rằng :
  
 -    Ai đem sự mê tín mà theo đạo Phật là người làm điều trái hẳn với đạo Phật.
  
 Tam
 giáo và mê tín dị đoan đã ảnh hưởng sâu rộng đến tín ngưỡng, văn hóa và
 tập quán của người Trung Hoa cũng như ăn sâu vào cuộc sống của người 
dân Việt Nam cho nên tục thờ thần, thờ cúng ông bà, thần tài, Quan 
Thánh, Phật Bà Quán Âm, Thánh Mẫu, xin xăm bói quẻ…được phổ biến khắp 
nơi.
  
 Tử
 vi bói toán là một khoa chuyên giải đoán về vận mệnh, tình duyên, gia 
đạo, thời vận thịnh suy, chọn ngày giờ tốt để khai trương, động đất, 
chọn hướng nhà tùy theo tuổi, chọn ngày cưới gả hay chôn cất, xem tuổi 
cho hôn nhân cũng như hóa giải xung khắc vợ chồng dựa vào ngày, giờ, 
tháng và năm sinh của họ. Khoa tâm lý học của Tây phương ngày nay xác 
định rằng những người thích tử vi bói toán là những người mê tín dị đoan
 thường tin vào vào những đấng thần linh nếu là Phật tử thì họ xem Đức 
Phật là một đấng linh thiêng tối cao có thể ban vui giáng họa. Đây là 
những người có tâm mong cầu và bất an nghĩa là những người thiếu tự tin 
nơi chính mình và dĩ nhiên không có định hướng cho cuộc sống.
  Đạo
 Phật dạy chúng sinh tin sâu vào nhân quả, tin vào khả năng tự hóa giải 
hết vô minh phiền não của chính mình mà giáo lý Đức Phật chính là con 
đường sáng, là ngọn đuốc tuệ để chúng sinh nương theo đó mà đi. Dựa theo
 đạo Phật thì không có tha nhân nào có thể ban vui hay giáng họa cho ai 
cả. Những bất hạnh khổ đau hay những hạnh phúc chúng sinh thọ báo trong 
đời này chẳng qua chỉ là những quả báo mà họ đã tạo tác từ đời quá khứ 
hiện đến mà thôi. Con người không thể trách trời, oán Phật vì những bất 
hạnh đau khổ của cuộc đời vì nó là quả báo do chính họ đã tác tạo chớ 
Phật trời không can dự vào. Muốn hạnh phúc thì nên làm thiện, bố thí, 
gây nhân đức. Ngược lại làm chuyện bạo tàn, gây nhân ác, lợi mình hại 
người thì phải chịu quả khổ thế thôi. Nếu chúng sinh có thể phá bỏ được 
vị ngã (bớt tham-sân-si) khiến họ bớt tham cầu cho riêng mình thì tâm họ
 được rỗng rang, nhẹ nhàng, thanh thoát cho nên chính họ sẽ có cuộc sống
 an vui tự tại và chuyện gia đạo vợ chồng con cái cũng vì thế mà có hạnh
 phúc và không còn rắc rối.
  Con
 người có khổ cũng bởi vì cố bám víu vào cái bản ngã giả tạo nên cái gì 
cũng vì mình, cho mình làm cuộc sống trở thành bất toại ý bởi vì càng 
tham thì càng khổ cũng như người đang khát mà uống nước muối vậy, càng 
uống càng khát. Nhà cửa, vật dụng là những vật vô tri, vô giác ngay cả 
ngày giờ cũng là giả tạm do con người đặt ra. Phước đức phải tạo mới có,
 phải vun bồi mới được chớ không thể sửa cái giường, cái bếp thì được 
giàu sang phú quý. Phước là làm lợi ích cho người mà có còn đức là cái 
tốt của tự tâm. Tâm có tốt thì việc làm thiện mới được chu đáo và lâu 
bền còn đức có sâu thì phước mới lớn. Vì thế, khi làm việc thiện con 
người nên củng cố thêm chất tốt của nội tâm mình. Ngược lại, nếu có 
người làm phước mà không có đức tức là giúp người với lòng vị kỷ thì cái
 phước sẽ không thể phát triển rộng lớn được.
  Người
 Tây phương đâu có biết phong thủy mà họ có cuộc sống giàu sang sung túc
 vì họ biết bố thí, cúng dường, làm phước trong khi người Trung Hoa thì 
lúc nào cũng tin tưởng phong thủy, cúng sao giải hạn, đốt giấy tiền vàng
 mà tại sao cả tỷ dân, cái nghèo, cái khổ nó vẫn đeo đuổi hoài? Đối với 
Phật giáo, thì ngày nào, giờ nào, tháng nào cũng tốt cả nếu chúng sinh 
có tâm thiện, tâm tốt. Ngược lại tâm không sáng suốt, bất thiện cho dù 
có chọn ngày Thìn, giờ Mẹo cũng gặp bất hạnh như thường. Nhà tỷ phú Bill
 Gates đâu có chọn ngày giờ để mở công ty Microsoft mà ông vẫn thành 
công như diều gặp gió, còn chúng ta thì nay tin theo phong thủy, mai 
chọn hướng, mốt sửa giường sửa bếp mà tại sao cái nghèo, cái khổ cứ đeo 
mãi trên vai? Giàu có là do phước đức chớ không phải do ông thầy bói. Vì
 thế Phật dạy rằng :
  
 Chư ác mạc tác
 Chứng thiện phụng hành
 Tự tịnh kỳ ý
 Thị chư Phật giáo
  
 Nghĩa là :
  
 Tất cả các nghiệp ác chớ có làm
 Nên làm tất cả các việc lành
 Cố gắng làm cho tâm ý được thanh tịnh
 Đó là lời dạy của chư Phật.
  
 Đạo
 Phật phát xuất từ Ấn Độ, tư tưởng Đại thừa cũng phát xuất từ Ấn Độ chớ 
không phải khởi nguyên từ Trung Hoa thế mà khi đạo Phật truyền sang đất 
nước này liền bị quốc hữu hóa và họ biến Phật giáo từ một tôn giáo không
 có tín ngưởng trở thành tôn giáo với vô số thần linh mê tín dị đoan. 
Phật giáo là một tôn giáo tự nó chứa đựng một nền triết lý cao siêu 
nhất, là mẹ đẻ của tất cả những triết lý Đông Tây từ cổ đến kim. Nó bao 
gồm từ tục đế (thế giới hiện tượng) đến chân đế (thế giới bản thể vô vi 
thanh tịnh) là đệ nhất nghĩa đế. Phật giáo khai thị giúp chúng sinh thấu
 biết rõ ràng, rốt ráo, tự mình rời sự tướng mà nhập vào bản thể thanh 
tịnh để có an vui tự tại. Chẳng những thế, giáo lý Đức Phật rất thực tế 
giúp chúng sinh có sự an lạc trong mọi hoàn cảnh, mọi tầng lớp chớ không
 ảo huyền bi quan tiêu cực như Lão giáo. Thế mà những đạo sĩ Trung Hoa 
vì nặng óc phong kiến, tán kỷ hủy tha cho nên họ mới ngông cuồng lý luận
 rằng Phật giáo là do Lão giáo mà ra.
  
  7) Phật Giáo Mật Tông :
  
 Ở
 Ấn Độ, vào thế kỷ thứ 7 được xem như là thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất
 của Mật giáo với sự xuất hiện của bộ kinh Đại Nhật (Mahàvairocana 
sutra) dưới triều đại của vương triều Pàla (750-1150) ở Bengale. Chính 
nhà vua Dharmapala đã nhiệt thành ủng hộ xây dựng tu viện Vikramasilà để
 làm trung tâm truyền bá Mật giáo. Ngài Long Thọ (Nagarjuna) (600-650) 
thuộc dòng Bà la môn, sau nhiều năm tu học tại tu viện Nalanda và sau đó
 đến Vương Xá tu thêm 12 năm thì đắc thành quả Đại thủ ấn tất địa 
(Mahamudrasiddhi). Từ đó ông được xem là vị Tổ sư của Mật giáo. Phật 
giáo Tây Tạng “cho rằng” Long Thọ (thế kỷ thứ 7) và Long Thọ luận sư 
(Bồ-tát Long Thọ tác giả của bộ Luận Đại Trí Độ) của thế kỷ thứ 2 là 
một. Long Thọ có một đệ tử truyền pháp là Long Trí. Long Trí cũng thuộc 
dòng Bà la môn, nhưng lại thường đi ăn trộm. Một hôm, Ngài Long Thọ đang
 ở tịnh xá Suvarna, Long Trí đến rình xem thấy Ngài Long Thọ đang ăn 
bằng một cái bát vàng nên có ý định đánh cắp. Ngài Long Thọ biết tâm ý 
của Long Trí, liền ném cái bát cho Long Trí. Hết sức kinh ngạc và cảm 
phục, Long Trí xin đi theo tu học và được Long Thọ làm phép quán đảnh 
(thọ quy y) nhập môn. Sau 12 năm tu luyện, Long Trí cũng chứng ngộ thánh
 quả.
  
 Ở
 nam Ấn Độ, có Ngài Kim Cương Trí (Vajrabohhi) (663-723) lúc mới 15 tuổi
 đã qua Tây Ấn học về Nhân Minh Luận với Ngài Pháp Xứng, sau đó tham học
 về Luật, Trung Quán Luận, Du Già Luận, Duy Thức Luận và sau cùng đến 
nam Ấn tu học và nghiên cứu Kim Cang Đỉnh (Vajra-Sekhàra) với Ngài Long 
Trí gần 7 năm. Năm 720, Ngài qua Trung Hoa và đến Lạc Dương để truyền bá
 Mật giáo. Ngài là vị Tổ đầu tiên của Mật tông Trung Hoa đồng thời với 
Ngài Thiện Vô Úy.
  
 Ngài
 Kim Cương Trí có một đệ tử rất xuất sắc là Bất Không Kim Cương 
(Amoghavajra). Ngài gốc là người bắc Ấn Độ, thọ Sa di năm 15 tuổi, theo 
thầy đến Lạc Dương và thọ Tỳ kheo giới năm 20 tuổi. Sau 12 năm tu thông 
suốt mật giáo, lúc đó Ngài Kim Cương Trí đã mất, liền cùng với các đệ tử
 qua Tích Lan nghiên cứu giáo lý Kim Cương đỉnh du già và Đại Nhật thai 
tạng. Khi về lại Trường An, Ngài mang theo rất nhiều kinh điển và bắt 
đầu dịch thuật. Ngài còn là Quốc sư của ba triều vua Huyền Tông, Túc 
Tông và Đại Tông.
  
 Ngoài
 Kim Cương Trí, Ngài Long Trí còn có một đệ tử xuất sắc khác nữa là Ngài
 Thiện Vô Úy (Subhakarasimha) (637-735). Trước khi xuất gia và tu học ở 
tu viện Nalanda, ông là một vị vua xứ Orissa. Ông rất thâm hiểu chân 
ngôn và ấn quyết của Du già nên đến năm 716, Ngài đến Trung Hoa vào đời 
vua Huyền Tông trước Ngài Kim Cang Trí 4 năm, đuợc coi là vị Tổ sư Mật 
tông Trung Hoa và được nhà vua trọng đãi. Công trình dịch thuật của Ngài
 gồm có Đại Nhật kinh, Tô Tất Địa Yết La kinh…và những đệ tử xuất sắc 
của Ngài có Ngài Nhất Hạnh, Huyền Siêu, Minh Trí, Nghĩa Lâm…
  
 Mật
 giáo Ấn Độ được khởi xướng và truyền bá do các cao tăng như Long Thọ, 
Long Trí, Kim Cương Trí và Thiện Vô Úy. Trên phương diện giáo nghĩa và 
hành trì thì họ chia mật giáo thành hai phái Chân ngôn thừa (Mantrayàna)
 và Kim Cương thừa (Vajrayàna) dựa theo hai bộ kinh Đại Nhật và Kim 
Cương Đỉnh. Nhưng khi truyền qua Trung Hoa thì hai dòng phái được hợp 
nhất vào thời Ngài Nhất Hạnh. Ở Trung Hoa, tuy không chiếm giữ địa vị 
lớn như Phật giáo Đại thừa, nhưng mật tông cũng phát triển mạnh và đã 
ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn hóa nghệ thuật Trung Hoa.
  
 Triết
 lý của Mật tông dựa trên triết lý Bát nhã Ba-la-mật (Prajnãpàramita) và
 giáo lý Hoa Nghiêm cộng thêm với Duy thức học. Triết lý và phương pháp 
hành trì của Mật tông cơ bản vẫn được xây dựng theo tiến trình 
Giới-Định-Tuệ như tất cả mọi đường lối tu tập khác của Phật giáo để cuối
 cùng thể nhập thực tại của tánh Không và Vô Ngã. Giáo lý của Mật tông 
thì thâm sâu, nghĩa lý quá bí mật và phương pháp tu hành vô cùng phức 
tạp cho nên đòi hỏi hành giả phải nghiên cứu sâu rộng và hành trì nghiêm
 túc may ra mới có cái nhìn chính xác và đầy đủ. Chính sự phức tạp và 
huyền bí nên mật tông chỉ truyền qua Tây Tạng, Trung Hoa và Mông cổ mà 
khó phát triển ở những nơi khác.
 
 8) Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng :
  
 Sự
 phát triển của Phật giáo Tây Tạng có những nét đặc thù mà có lẽ không 
nước nào khác trên thế giới có được. Vào năm 641 vua Đường Thái Tông của
 Trung Hoa gã công chúa Văn Thành cho vua Tây Tạng. Vị công chúa này là 
người thông minh, có học và là một Phật tử thuần thành. Vua Tây Tạng còn
 có một người vợ khác là công chúa Ba-lợi-khố-cơ của nước Ni-bạc-nhĩ 
cũng là người có học thức nên cả hai khuyên nhà vua cử người sang Ấn Độ 
và Trung Hoa để thỉnh các vị Tăng sĩ Phật giáo đến Tây Tạng truyền pháp 
và đồng thời cũng cử một phái đoàn gồm 18 người do đại thần 
Thon-mi-sandhota dẫn đầu sang Ấn Độ du học. Khi học xong, những người 
này về nước bèn chế ra chữ viết riêng cho Tây Tạng dựa theo chữ viết 
tiếng Phạn để có thể phiên dịch kinh điển Phật giáo sang Tạng ngữ. Sự 
hình thành một loại chữ viết và việc phiên dịch kinh điển Phật giáo sang
 Tạng ngữ là một công trình hết sức phức tạp, nhưng chỉ diễn ra trong 
một thời gian ngắn làm mọi người hết sức kinh ngạc. Nữa thế kỷ sau đó, 
năm 710 vua Đường Duệ Tông lại gả công chúa Kim Thành cho vua Tây Tạng 
đời thứ 35 là Khí-lệ-xúc-tán.
  Vị
 công chúa này lại mang đến Tây Tạng rất nhiều kinh thư và sách vở của 
Trung Hoa. Năm 787, ngôi chùa đầu tiên của Tây Tạng có tên là chùa Samye
 (Tang duyên) được xây dựng và hoàn thành về phía đông nam thủ đô L’hasa
 và đây là nơi mà vị cao tăng Ấn Độ Santaraksita (Tịch Hộ) đến hoằng hóa
 trong suốt 13 năm thể theo lời mời của vua Trisong Detsen. Sau đó có 
nhiều ngôi chùa khác được xây dựng khắp nơi và nhiều vị cao tăng Ấn Độ 
được mời sang Tây Tạng để hoằng pháp. Thời gian này được xem là thời kỳ 
phát triển mạnh nhất của Phật giáo Tây Tạng. Với sự hỗ trợ của vua 
Khri-ral-pa-can, Phật giáo đã đẩy lui những ảnh hưởng của tôn giáo thần 
chú, bùa ngãi địa phương Bon Pa. Mặc dù Phật giáo phát triển mạnh, nhưng
 người dân Tây Tạng vẫn ưa chuộng huyền thuật hay phép màu do ảnh hưởng 
lâu đời của đạo Bon Pa để lại. Ảnh hưởng này ngấm ngầm chi phối dân Tây 
Tạng trong việc tiếp nhận các luồng tư tưởng Phật giáo khác nhau. Theo 
chiều dài của lịch sử, Phật giáo Tây Tạng chịu ảnh hưởng của bốn luồng 
tư tưởng; đó là :
  
 1)
 Luồng tư tưởng này đến từ phương Nam và là sự tổng hợp các tư tưởng đại
 thừa do một số học giả bậc nhất của đại học Ma-kiệt-đà truyền đến. Họ 
đã sắp xếp nội dung bộ Bát Nhã Ba-la-mật thành 25,000 bài kệ có đánh số 
rõ ràng và đây được xem như là bước đầu tiên trong việc thiền quán về bộ
 kinh này. Vì đã được chú giải trước ở Ấn Độ nên khi truyền đến Tây Tạng
 thì bộ Hiện Quán Trang Nghiêm Luận đã trở thành nền tảng căn bản để đào
 luyện những tư tưởng cao hơn mà không lệ thuộc hệ thống mật tông.
  
 2)
 Luồng tư tưởng thứ hai đến từ phía Đông là của phái Nhất thiết hữu bộ. 
Tuy được sự thỉnh mời của vua Tây Tạng, nhưng bộ phái này không bao lâu 
đã trở thành mờ nhạt vì người dân Tây Tạng không mấy tích cực về những 
giáo lý mà chỉ thích phép mầu, thần thông.
  
 3)
 Luồng tư tưởng thứ ba cũng đến từ phía Đông do các thiền sư Trung Hoa 
truyền sang. Các vị này đã có rất nhiều nỗ lực để chuyển lối sống của 
người dân Tây Tạng sang theo lối đại thừa, nhưng sau đó vì ảnh hưởng của
 mật tông nên họ đã bị thất bại hoàn toàn và bắt buộc phải rời khỏi Tây 
Tạng. Khoảng năm 775 có cuộc đấu tranh dữ dội giữa những đồ đệ của các 
bậc thầy Trung Hoa (đại thừa) và những đồ đệ của bậc thầy mật tông. Các 
tu sĩ Trung Hoa bị dồn ép ác liệt và kết quả họ bị đuổi ra khỏi xứ này. 
Đây có lẽ đánh dấu cho sự cáo chung của Phật giáo đại thừa bắt đầu 
truyền vào Tây Tạng vào thời công chúa Văn Thành.
  
 4)
 Luồng tư tưởng thứ tư là do Đại sư Liên Hoa Sanh (Padma Sambhava) được 
vua Tây Tạng Ngật Lật Song Đề Tán (755-797) thỉnh từ xứ Udyàna, miền bắc
 Ấn Độ. Khi nhận lời mời đến Tây Tạng, Đại sư còn đem theo 25 vị đệ tử 
rất nổi tiếng có tài thần thông biến hóa, hàng phục ma chướng tà đạo. Ấn
 tượng mà Ngài Liên Hoa Sanh tạo ra với Tây Tạng phần lớn là nhờ vào 
việc thực hiện những phép mầu, có tài chinh phục ma quỷ và khả năng thần
 thông biến hóa rất gần gũi với đạo Bon Pa nên được dân Tây Tạng tiếp 
nhận rất cuồng nhiệt. Những huyền thoại để lại về Ngài có thể là đã vượt
 qua những sự kiện lịch sử vì dân Tây Tạng xem Ngài là Đức Phật Thích Ca
 tái thế.
  
 Sự
 dung hợp và tiếp thu các luồng tư tưởng theo khuynh hướng đặc thù của 
người dân Tây Tạng đã biến Phật giáo Tây Tạng đậm màu sắc của những 
huyền thuật và phép mầu. Ngài Liên Hoa Sanh là người sáng lập ra tông 
phái Ninh Mã (Nyingma) được gọi là Cổ phái và vẫn còn hoạt động cho đến 
ngày nay. Ngài cũng là tác giả của cuốn sách “Tử Thư”, xây dựng tu viện 
Tang Duyên (Samye) và được coi là Tổ sư của Phật giáo Tây Tạng. Vì thế 
Phật giáo Tây Tạng không còn ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa nữa mà được 
xem như là Phật giáo Mật tông đậm màu sắc thần linh, lễ nghi, bùa chú, 
ấn quyết, xuất quỷ nhập thần rất phức tạp.
  
 Tuy
 nhiên, thế gian việc gì bạo phát thì bạo tàn vì thế việc phát triển quá
 nhanh chóng của Phật giáo tại Tây Tạng cũng không ngoài ngoại lệ này. 
Năm 836 khi vua Tây Tạng đời thứ 39 là Lang-dar-ma lên ngôi thì ông cố 
gắng tích cực để tiêu diệt Phật giáo vì ông là một tín đồ thuần thành 
của đạo Bon Pa. Sau khi đàn áp Phật giáo được sáu năm thì ông bị một Lạt
 Ma dùng cung bắn chết vào năm 842. Tuy đã giết chết nhà vua, nhưng tình
 hình Tây Tạng càng ngày càng đi vào chỗ tối tăm vì các nhóm thế lực 
tranh dành quyền lực khiến cho nước Tây Tạng bị chia năm xẻ bảy làm cho 
đời sống dân Tây Tạng cực kỳ khổ sở. Triều đình thẳng tay đàn áp Phật 
giáo và buộc các tăng sĩ phải đi làm thợ săn, đồ tể…và họ đốt phá kinh 
điển cũng như chùa chiền. Để chống lại đạo Bon Pa, Phật giáo Tây Tạng 
tìm cách tái lập quan hệ với Ần Độ để thỉnh mời các tăng sĩ sang truyền 
pháp.
  
 Trong
 khi ở Tây Tạng vua Lang-dar-ma cố tình tiêu diệt Phật giáo thì vào thời
 điểm đó tức là vào năm 845 ở Trung Hoa cũng xảy ra tình trạng đàn áp và
 hủy diệt Phật giáo do vua Đường Vũ Tông đề xướng. Nhà vua đã ra lệnh 
hủy hoại trên 1,600 ngôi chùa lớn và bức bách trên 260,000 tăng ni phải 
hoàn tục. Vua còn ra lệnh đốt hết tất cả kinh điển Phật giáo, đập phá 
tượng Phật, tịch thu ruộng đất nhà chùa và thu góp các chuông đồng để 
đúc thành tiền. Cũng giống như ở Tây Tạng, sau pháp nạn thì nhà Đường 
ngày càng lâm vào cảnh suy vi, u ám và lọa lạc cho đến năm 907 nhà Đường
 bị Chu Toàn Trung diệt mất mà lập ra nhà Hậu Lương.
  
 Một
 trong số những người đã có công chấn hưng Phật giáo Tây Tạng là 
Rin-chen Bzangpo (985-1055). Ông đã sang Ấn Độ và được thọ giáo với 70 
vị danh tăng cho nên khi về nước ông còn mời rất nhiều vị đến Tây Tạng 
giúp ông trong việc phục hưng Phật giáo Tây Tạng. Các vị danh tăng Ấn Độ
 khi vào Tây Tạng có mang theo rất nhiều kinh điển mật tông như: Nhất 
Thiết Như Lai Kim Cang Tam Nghiệp Tối Thượng Bí Mật Đại Giáo Vương…được 
dịch sang Tạng Ngữ. Những yếu tố thiên về Mật tông trong thời điểm này 
khiến cho hầu hết các tông phái Phật giáo ở Tây Tạng đều mang đậm sắc 
thái của Mật tông.
  
 Những
 sự đàn áp của triều đình không bóp chết được niềm tin mãnh liệt đã được
 nẫy nở trong lòng người dân Tây Tạng vì thế cho dù Phật giáo Tây Tạng 
chịu đựng sự đàn áp sắp đến chỗ diệt vong đến cuối thế kỷ thứ 10 và mãi 
đến thế kỷ thứ 11 thì mới được khôi phục. Năm 1041 có Đại sư Atisha 
(982-1054) lúc bấy giờ đang trụ trì tại tu viện Vrikamalisa ở miền bắc 
Ấn Độ nhận lời mời của vua Yeshe-O để đến Tây Tạng.
  Ông
 lấy triết học Tánh không và Duy thức làm tư tưởng cho Phật giáo Tây 
Tạng và đã sắp xếp toàn bộ hệ thống kinh sách làm ảnh hưởng rất lớn đến 
các hệ tư tưởng Mật tông Tây Tạng. Ông nghĩ rằng một trong những khó 
khăn của Phật giáo là có quá nhiều pháp môn để tu giải thoát nên ông 
giới thiệu tác phẩm “Minh Đăng Thánh Đạo” để giúp chúng sinh thực hành 
dựa theo ba trình độ phát triển tâm linh. Mức độ thấp nhất là những 
người muốn tìm cầu hạnh phúc trong thế gian này và chỉ nghĩ đến lợi ích 
của riêng mình. Mức độ thứ hai là những người cũng nghĩ đến lợi ích 
riêng của mình, nhưng khôn ngoan hơn là chọn một cuộc sống đạo đức và 
tìm cầu trong sạch. Mức độ cao nhất là những người trong tâm đã hoàn 
toàn thanh tịnh giải thoát. Nhưng tác phẩm này chỉ được phát huy tối đa 
vào khoảng 300 năm sau với sự xuất hiện của Ngài Tông-khách-ba (Tsong 
Khapa). Đại sư Tông-khách-ba (1357-1419) sinh tại Amdo thuộc vùng đông 
bắc Tây Tạng, xuất gia lúc còn nhỏ và tham học với nhiều vị đại sư khác 
nhau. Ông sáng lập ra tông phái Hoàng mạo phái (phái mũ vàng) (Gelugpa),
 một tông phái quan trọng nhất của Tây Tạng hiện nay. Ông chủ trương xét
 lại toàn bộ kinh điển và tổng kết thành hai tác phẩm chính: Bồ-đề đạo 
thứ đệ (Lamrin Chenmo) tiêu biểu cho đường lối tu tập Hiển giáo và Chân 
nhôn đạo thứ đệ (Ngagrim Chenmo) tiêu biểu cho đường lối Mật Giáo. Trước
 khi mất, Ông di chúc lại cho hai đệ tử là Dalai Blama và Panchen Blama 
tức là Đạt-Lai Lạt-Ma (từ bi) và Ban thiền Lạt-Ma (trí tuệ).
  
 Sự
 hình thành của các tông phái Phật giáo Tây Tạng diễn ra khoảng 400 năm 
do chính người Tây Tạng thành lập cho thích hợp với tinh thần và xã hội 
của họ mà yếu tố huyền thuật, phép mầu hay thần thông hầu hết đều mang 
nặng màu sắc của Mật tông đã từng gắn bó lâu dài với người dân bản xứ. 
Để chống lại sự đàn áp của nhóm Bon Pa, Phật giáo Tây tạng đã được tổ 
chức thành những môn phái, giáo hội, nhưng chính sự tổ chức nầy đã đưa 
Phật giáo vào con đường suy vong. Vì có nhiều giáo hội, tông phái dần 
dần các tu sĩ đã trở nên lười biếng, không giữ gìn giới luật và coi việc
 tu hành như một nghề nghiệp hướng dẫn tinh thần cho quần chúng hơn là 
tu thân cầu giải thoát. Tệ hại hơn nữa, các nghi thức hành lễ để suy gẫm
 lời Phật dạy đã biến thành cúng vái, xin xỏ, lên đồng, nhập cốt, giải 
đáp là số tử vi, bùa chú thư phù…Các tinh hoa Phật pháp được cất giữ 
không mang ra giảng dạy mà chỉ đề cao hình thức bề ngoài. Các tu sĩ 
không chịu tu học mà chỉ đặt trọng tâm vào việc sắc tướng như kêu gọi 
Phật tử xây chùa, đúc tượng để được phước. Truyền bá những chuyện mê tín
 hoang đường để lôi kéo tín đồ thay vì giúp họ tu hành để được giải 
thoát giác ngộ. Họ còn cho phép các tu sĩ được lấy vợ và được thừa kế 
tức là nếu cha là Lạt Ma thì con đương nhiên cũng thành Lạt Ma khỏi cần 
tu học. Ở Tây Tạng có rất nhiều tông phái, nhưng đại để có những tông 
phái mà những vị tổ sư đã làm sáng danh Phật giáo Tây Tạng cho đến ngày 
nay là :
  
 1)
 Phái Kadampa là do đệ tử của Đại sư Atisha là Ngài Gyalwa Dromtonpa 
thành lập vào khoảng năm 1050. Tông phái này tiêu biểu cho truyền thống 
trung tâm của Phật giáo Tây Tạng.
  
 2)
 Phái Kagyu do Ngài Marpa Lotsawa sáng lập. Tông phái này dần dần mang 
đậm bản sắc Tây Tạng nhất so với các tông phái khác và không nắm giữ 
hoặc chi phối các quyền lực xã hội như các phái Gelugpa…Hiện nay, phái 
này vẫn còn là một môn phái bảo thủ mạnh nhất và họ xem việc lập gia 
đình không cản trở đến sự tu hành. Trong phái này có sự xuất hiện của 
Milarepa (1040-1123) là bậc thánh giả và cũng là nhà thơ vĩ đại của Tây 
Tạng. Ông nổi tiếng với tác phẩm Thập vạn ca (100,000 bài ca). Trước khi
 theo Phật giáo, ông tu theo ma thuật để tìm giết hại những kẻ thù của 
gia đình bằng cách làm cho nhà sập đè lên họ và làm mưa đá rơi trên 
ruộng của họ. Sau đó nhận biết tội lỗi của mình nên đến tìm gặp Đại sư 
Marpa để Ngài giúp ông trả hết những ác nghiệp đã tạo bằng cách gánh 
chịu những cực hình trong suốt 6 năm. Vào năm 44 tuổi thì ông ngộ đạo 
rồi sống 39 năm còn lại như một nhà ẩn tu trên Hy-mã-lạp sơn gần biên 
giới Nepal cho đến khi ông viên tịch vì uống sửa có pha thuốc độc của 
một người ganh ghét ông.
  
 Truyền
 thống tái sinh của các vị Karmapa thuộc phái Karma Kagyu được khởi đầu 
từ thế kỷ thứ 12 nghĩa là sớm hơn so với các vị Đạt-La Lạt-Ma gần ba thế
 kỷ. Có thể nói họ là những người đầu tiên khởi xướng truyền thống tái 
sinh tại Tây Tạng.
  
 3)
 Phái Shi-byed-pa trước tiên do Phan-dam-pa đề ra là tông phái duy nhất 
chú trọng đến Bát Nhã nên tông phái này chỉ dành cho thiểu số những 
người có trình độ cao. Họ dành trọn tâm trí cho việc thực hành thiền ở 
những nơi cách biệt và không quan tâm đến xã hội nhiều. Họ lấy bộ Trung 
Quán Luận làm nền tảng tu hành. Đây là sự điều chỉnh những điểm cốt yếu 
và mặt tâm linh của Phật giáo cho phù hợp với giáo lý mật tông.
  
 4)
 Phái Saskya có những nét gần gũi hơn với đời sống thế tục. Sau khi chế 
độ quân chủ sụp đổ, Tây Tạng không có chính quyền trung ương nên các 
tăng sĩ của phái này đã nắm lấy chính quyền và truyền ngôi vị lại cho 
con cháu. Hiện nay họ vẫn còn tồn tại nhưng đã từ lâu không còn nắm 
quyền cai trị đất nước.
  
 5)
 Phái Gelugpa là tông phái nổi tiếng nhất ở Tây Tạng được sáng lập bởi 
Ngài Tông-khách-ba (Tsong Khapa) (1357-1419) là nhà tư tưởng vĩ đại của 
Phật giáo Tây Tạng. Ngài là một nhà cải cách và đã tiếp nối công việc 
hoằng pháp của Đại sư Atisha tức là nghiêm về đạo đức, giới luật và giảm
 nhẹ ảnh hưởng của pháp thuật bằng cách nhấn mạnh vào khía cạnh tâm 
linh. Đây chính là phái mũ vàng đã nắm quyền cai trị Tây Tạng cho đến 
năm 1950 khi Trung Cộng xua quân đánh chiếm đất Tây Tạng. Sự thành công 
nhanh chóng của Ngài Tông-khách-ba (Tsong Khapa) là vì nhờ ông có rất 
đông đệ tử, nhờ vào việc thành lập các tự viện và nhờ vào 16 bộ sưu tập 
các tác phẩm Phật học. Trong số đó có hai tập rất nổi tiếng. Một là 
trình bày đầy đủ về sáu phép ba-la-mật của đại thừa và tập kia nói rõ 
những phương thức công phu theo Mật tông. Tập sách đầu có tên là “Từng 
bước đi lên giác ngộ” là dựa theo từ tập sách Minh Đăng Thánh Đạo của 
Ngài Atisha. Ngài là vị học giả luôn cố gắng tìm vị trí trung dung giữa 
những cực đoan, tránh sự thiên lệch và đưa lại sự hòa giải giữa hai phái
 mũ vàng và mũ đỏ.
  
 Mãi
 cho đến vị Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 5 là Lobsang Gyatso (La bốc tạng Gia mục 
thố) thì việc chấn hưng mới được hoàn mãn. Tục lệ thừa kế bị loại bỏ và 
nhiều kỳ thi về Phật học được tổ chức để gạt bỏ những người mượn áo tu 
hành làm điều bất chính. Những kinh điển từ trước vẫn được cất kỹ thì 
nay được mang ra truyền bá sâu rộng để khuyến khích phong trào tu học 
trong nước. Mọi gia đình được khuyến khích gởi con cái vào các tu viện 
để trở thành các vị Lạt Ma. Sau đó họ có thể lập gia đình và sống như 
một người thường. Chỉ khi nào họ phát nguyện xuất gia thì mới được gọi 
là tu sĩ (Trappa). Vào thế kỷ 15, phái Gelugpa đưa ra một “luận thuyết” 
cho rằng các vị Bồ-tát như Đức Quán Thế Âm, Di Lặc và chư Phật như Đức 
Phật A Di Đà chắc chắn đã có hóa hiện ra những hóa thân để làm các vị 
giáo chủ mà hóa độ chúng sinh. Những hóa thân tái sinh này được các vị 
cao tăng tìm kiếm và xác nhận rất cẩn thận dựa trên những quy luật rất 
phức tạp do hội đồng lễ nghi đề ra. Vai trò lãnh đạo của những vị hóa 
thân tái sinh này là nét đặc thù của Tây Tạng trong suốt gần 5 thế kỷ 
qua. Tất cả 14 vị Đạt-Lai Lạt-Ma đều xuất thân từ phái mũ vàng nhưng 
phái mũ đỏ vẫn được tôn trọng và vẫn chiếm số đông.
  
 Trong
 cuốn “Tây Tạng Huyền Bí” có diễn tả về cung điện Potala ở Tây Tạng 
trước khi quân Trung Cộng đánh chiếm đất nước này như sau :
  
 “Tu
 thất của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tọa lạc trên nóc điện Potala, vì theo phong
 tục bản xứ, không ai có quyền được ở chỗ cao hơn Ngài. Một cầu thang vĩ
 đại xây bằng đá rộng gần bằng một đường lộ đưa đến tư dinh của Ngài. 
Điện Potala là một tòa cung điện độc lập  xây dựng trên một ngọn đồi. Đó
 là cơ quan đầu não để giải quyết tất cả mọi công việc chính trị và tôn 
giáo của xứ Tây Tạng. Đó là trung tâm của quốc gia, mục tiêu của tất cả 
tư tưởng, nguồn gốc của tất cả mọi hy vọng. Bên trong vòng thành của 
cung điện, trong những tòa nhà của Ngân Khố Quốc Gia, có dự trữ những 
khối vàng ròng, vô số những bao đựng đầy ngọc ngà châu báu và những bảo 
vật quý giá của thời đại cổ xưa nhất…Tiếp tục bước lên đến một điểm cao 
tột trên nóc điện, tại đây có những lăng tẩm của những vị Đạt-La Lạt-Ma 
của quá khứ, tức tiền thân của đức Đạt-La Lạt-Ma hiện tại.”
  
 Hãy
 nhìn lại lịch sử Phật giáo vào thời Đức Phật còn tại thế. Sau khi Đức 
Phật thành đạo, Ngài trở về cung thành Ca tỳ la vệ thăm lại phụ vương và
 gia đình. Vua cha khẩn thiết yêu cầu Ngài ở lại cung thành vừa làm vua 
và vừa là vị Phật, nhưng Ngài chỉ chọn một con đường duy nhất là khất 
sĩ. Khất sĩ ở đây là phải chấp nhận từ bỏ tất cả, từ bỏ tiền tài danh 
lợi, vợ đẹp con xinh, uy quyền chức tước. Vì sao? Bởi vì đối với phàm 
nhân thì những thứ đó là hạnh phúc, là niềm vui, là cứu cánh tột đỉnh 
của cuộc sống. Còn đối với bậc đại thánh thì những hạnh phúc này chỉ là 
giả tạm phù du, như sương, như khói, như đám mây có tan có hợp và là 
những sợi dây vô hình cột chặt con người vào vòng hệ lụy khổ đau.
  Có
 thế lực, uy quyền, danh vọng là có tranh dành, có thủ đoạn hại người 
lợi mình và dĩ nhiên tội nghiệp cũng vì thế mà tác tạo. Đây là miếng mồi
 thế tục, là trò chơi của thế gian. Thí dụ làm Tổng Thống Hoa kỳ có thể 
được xem như là ngôi cao, tột đỉnh quyền uy thế giới hiện nay, nhưng hãy
 nhìn lại những Tổng Thống gần đây nhất như Clinton, Bush hay ngay cả 
Obama. Trước khi làm Tổng Thống, tóc da ông nào cũng tươi nhuận, nhưng 
sau một vài năm thì vị nào tóc cũng bạc đầu. Đủ thấy bình trị thiên hạ 
là phiền não, thủ đoạn, tranh giành, chém giết chớ đâu phải  dạo chơi 
chốn hoa viên thanh tịnh an nhàn. Đức Phật xuất thân là một vương tử, 
giàu sang phú quý, nhưng khi xuất gia làm người tu sĩ thì Ngài trở thành
 người Khất sĩ (buông bỏ tận cùng). Vì vậy Ngài mới có vô thượng Bồ-đề 
và vô thượng Niết bàn.
  
 Các
 vị Tổ sư khi thành lập mỗi một tông phái đều thể hiện những đặc tính 
siêu việt của mình trong những yếu tố góp phần tạo nên đời sống thêm 
phong phú cho Phật giáo Tây Tạng. Tuy các tông phái có sự khác biệt về 
việc tổ chức tự viện, về màu sắc y phục, về các vị thần bảo hộ hay 
phương pháp thiền định, nhưng họ luôn có sự tác động và vay mượn lẫn 
nhau. Sự nổi bật của các vị Đạt-Lai Lạt-Ma đã làm cho nhiều người lầm 
tưởng rằng các Ngài là những vị lãnh đạo của toàn thể nhân dân Tây Tạng.
 Nhưng trên thực tế, Tây Tạng có rất nhiều tông phái khác nhau và mỗi 
phái có một vị lãnh đạo tinh thần tối cao của riêng mình. Vì thế tuy Đức
 Đạt-Lai Lạt-Ma được xem là người lãnh đạo cao nhất của Tây Tạng về mọi 
mặt, nhưng mỗi một truyền thống tông phái đều có một vị đứng đầu để dẫn 
dắt họ.
  
 Đối
 với Phật giáo trên khắp thế giới hiện nay, một phần ba thuộc về Phật 
giáo Nam tông (Nguyên thủy) (Tiểu thừa) (Hynayana), hai phần ba thuộc 
Phật giáo Đại thừa Bắc tông (Mahayana). Trong khi đó, Kim cang thừa Phật
 giáo (Vajrayana) chỉ đại diện cho 1/30 số người Phật giáo vì Mật tông 
giới hạn trong các nơi thưa dân như Tây tạng, Bhutan, Nepal và Mông cổ. 
Mặc dù Đức Lạt-Lai Lạt-Ma chỉ đại diện cho 1% tín đồ Phật giáo thế giới,
 nhưng với uy tín của Ngài, người Tây phương vẫn nhìn Ngài như người đại
 diện cho toàn thể Phật giáo.
  
 Bắt
 đầu từ thế kỷ thứ 15, Phật giáo Tây Tạng tôn xưng và thần thánh hóa 
những vị thầy vì họ tin rằng đây là những vị Bồ-tát hay những vị Tổ tái 
sinh. Thí dụ như Đức Đạt-La Lạt-Ma là tái sinh của Đức Quán Thế Âm 
Bồ-tát nghĩa là đại diện cho lòng từ bi. Đây là dựa theo lối giải thích 
“bí truyền” của Mật tông Tây Tạng, nhưng dựa theo Phật giáo Đại thừa thì
 thật ra trong mỗi chúng sinh ai cũng là Quán Thế Âm, ai cũng là Đại Thế
 Chí hay Văn Thù và Phổ Hiền cả vì ai ai cũng đều có Phật tánh như nhau 
cho nên trong tất cả chúng sinh đều có “tự tánh từ bi và trí tuệ”. Nhưng
 con người vì bị cái vỏ cứng vô minh che phủ bao nhiêu đời bao nhiêu 
kiếp nên không thấy cái Phật tánh thiêng liêng sáng suốt huyền diệu 
thanh tịnh nhiệm mầu của mình nên mới cầu Phật, Bồ-tát ở bên ngoài. Vì 
thế khi mê thì thấy có chúng sinh, có Bồ-tát, có Phật đến khi thức tỉnh 
giác ngộ thì thấy tất cả chúng sinh đều là Phật. Vì sao? Khi mê chúng 
sinh chỉ dùng mắt thịt để nhìn cho nên họ chỉ thấy người cao kẻ thấp, 
người sang kẻ hèn, quần là áo lụa, quyền cao chức trọng, nhà cao cửa 
rộng nên tâm vọng động mà sống trong phiền não khổ đau nên mới có trông 
mong cầu nguyện để thỏa mãn tánh tham của mình.
  Đến
 khi thức tỉnh thì nhìn thế gian bằng pháp nhãn thanh tịnh (mắt trí tuệ)
 mà thấy được thật tướng, chơn tâm, Phật tánh của tất cả mọi người nên 
họ thấy ai cũng là Phật, cũng bình đẳng như nhau. Nếu con người biết 
thức tỉnh để phát triển và sống với lòng từ bi vô lượng để thương yêu 
mọi người không phân biệt thân sơ, màu da sắc tộc vì chúng sinh và mình 
là một thì Đức Quán Thế Âm (tâm đại từ đại bi) hiển hiện trong tâm mình,
 ngược lại nếu sống trong vô minh, chạy theo tham đắm dục tình, làm nô 
lệ cho tư kỷ cá nhân thì cho dù có cầu nguyện, van xin, cúng vái thì Đức
 Quán Thế Âm cũng biến mất. Vì thế Đức Quán Thế Âm, Ngài Phổ Hiền là 
tượng trưng cho lòng từ bi của chúng sinh. Ngài Đại Thế Chí, Đức Văn Thù
 là đại diện cho trí tuệ sáng suốt vô phân biệt (căn bản trí) của mọi 
người. Ngài Tông Khách Ba vào thế kỷ thứ 14 đã lập hai vị đệ tử là Ban 
Thiền Lạt Ma và Đạt-Lai Lạt Ma. Ban Thiền tượng trưng cho trí tuệ và 
Đạt-Lai là biểu tượng của từ bi.
  Khi
 Trung Cộng xua quân đánh chiếm nước Tây Tạng năm 1950 thì cả hai Ngài 
Ban Thiền và Đạt-Lai còn kẹt lại Tây Tạng. Tháng 4 năm 1959, sau chín 
năm bị giam lỏng ở Potala, Đức Đạt-Lai trốn thoát và tỵ nạn tại 
Dharamsala tức Little L’hassa gần biên giới Tây Tạng và Ấn Độ cho đến 
ngày nay. Trong khi Đức Đạt-Lai trốn được qua Ấn Độ, Ngài Ban Thiền thứ 
10, Lhundrup Choekyl Gyaltsen, còn bị kẹt lại và đã viết bài kiến nghị 
dài bảy mươi nghìn chữ để tố cáo cho thế giới về cảnh ngộ khốn cùng của 
đồng bào Tây Tạng dưới sự thống trị của Trung Cộng. Ngài đã bị đảng Cộng
 Sản Trung Quốc và Mao Trạch Đông lăng mạ và  kết án 14 năm trong tù hay
 cấm cố tại nhà. Tháng 12 năm 1964, Ngài bị đưa đến Bắc Kinh dưới tội 
danh “phản cách mạng” và bị đánh đập tàn nhẫn. Năm 1978, sau khi được 
trả tự do, Ngài du hành khắp Tây Tạng và tiếp tục phê bình chính sách 
cai trị bạo tàn của Trung Cộng.Chẳng bao lâu sau đó, Ngài bị bắt trở lại
 và ngày 28 tháng giêng năm 1989, Ngài được nói là đã trút hơi thở cuối 
cùng trong hoàn cảnh rất bí mật, hưởng dương 51 tuổi. Để tiếp tục truyền
 thống của Phật giáo Tây Tạng, năm 1995 Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã chứng nhận
 Gendun Choekyi Nima là Đức Ban Thiền thứ 11, nhưng sau đó Bắc Kinh đã 
bắt cóc vị này cùng với cha mẹ và họ bị mất tích cho đến ngày nay. Trung
 Cộng sau đó tự chọn một cậu bé khác tên là Gyaltsen Norbu để ngồi vào 
chức vị Ban Thiền Lạt Ma thứ 11, người mà hầu hết nhân dân Tây Tạng tẩy 
chay. Đức Đạt-Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay đã lớn tuổi, nếu một ngày nào 
đó Ngài viên tịch thì chắc chắn Trung Cộng sẽ chọn một vị Đạt-Lai mới 
cũng giống như Ngài Ban Thiền thứ 11 thì truyền thống Phật giáo Tây Tạng
 sẽ mai một. Vì là biểu tượng cho từ bi nên Đức Đạt-Lai Lạt Ma tuy 
thuyết pháp khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng Ngài chỉ chuyên giảng giải
 và dạy chúng sinh phát huy lòng từ bi, nhân ái mà ít khi nói đến trí 
tuệ Bồ-đề. Nhưng trong đạo Phật, từ bi và trí tuệ phải đi đôi, bổ sung 
cho nhau, thiếu một thì mất thăng bằng. Có Văn Thù thì phải có Phổ Hiền,
 có Đại Thế Chí thì phải có Đức Quán Thế Âm.
   
   
  Tác giả : Lê Sỹ Minh Tùng