Khi người đang ở trong trạng thái dã dượi, bần
thần, ngầy ngật thì tâm trí trở nên lờ đờ, thiếu sinh khí, nặng nề với
sức ỳ tâm lý không hề nhỏ. Do đó, chúng ta có thể hiểu người bị hôn trầm
chế ngự như thể đang bị giam vào một phòng tối, chật chội, không thể di
chuyển tự do, trong khi bên ngoài là trời đầy nắng sáng. Trong khi hành
thiền, nếu bị hôn trầm, hành giả có cảm giác lười biếng, niệm rời rạc,
yếu ớt và từ đó có khoảng trống cho sự ngủ gục xen vào trong lúc thực
hành thiền mà hành giả phải tìm nhiều cách “vật lộn” với cơn buồn ngủ!
Do vậy, chế ngự và chuyển hóa những trạng thái u ám, nặng nề của hôn
trầm là việc cần thiết đối với mỗi con người chúng ta, nhất là người
đang nỗ lực ứng dụng lời Phật dạy vào đời sống thực tế của mình để có an
lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.
Sự cần thiết của giấc ngủ
Ngủ là một hoạt động cần thiết mỗi ngày để đảm bảo sự sống cho cơ thể,
đồng thời tái nạp năng lượng và phục hồi sức khỏe sau một ngày làm việc.
Giấc ngủ còn góp phần giúp cơ thể bài tiết ra hóc-môn tăng trưởng nhờ
đó trẻ em phát triển và lớn lên. Là con người bình thường, chúng ta
không thể sống mà không ngủ. Nếu mất ngủ trong một thời gian dài, cơ thể
chúng ta sẽ rối loạn, suy nhược và có thể dẫn đến chết. Các chuyên gia
cho rằng, hầu hết con người có thể tồn tại trong 2 tháng mà không cần
ăn. Tuy nhiên, con người chỉ có thể sống được khoảng 11 ngày nếu không
ngủ. Vậy đủ biết giấc ngủ quan trọng với đời sống con người đến mức nào!
Một người thiếu ngủ khi tham gia giao thông rất dễ gây ra tai nạn. Trong
thực tế, nhiều tài xế đường dài, do thiếu ngủ đưa đến mất tập trung,
vừa điều khiển xe vừa ngủ gục đã gây ra những tai nạn giao thông để lại
hậu quả nặng nề. Công nhân điều khiển máy móc trong dây chuyền sản xuất
mà ngủ gục, hoặc làm việc không tỉnh táo trong tình trạng thiếu ngủ dễ
gây ra tai nạn lao động. Vậy đủ biết giấc ngủ quan trọng với đời sống
con người đến mức nào!
Các nhà khoa học từ lâu nghiên cứu về giấc ngủ đã chứng minh, khi chúng
ta ngủ, cơ thể tiết ra những hóc-môn cần thiết có tác dụng tăng cường hệ
miễn dịch, từ đó có tác dụng chống lại sự xâm nhập của các vi khuẩn,
vi-rút gây bệnh. Đồng thời, trong khi ngủ, cơ thể chúng ta tiết ra những
hóc-môn quan trọng giúp quá trình chuyển hóa, tích lũy năng lượng cần
thiết cho hoạt động trong ngày và quá trình tăng trưởng cơ thể, giúp não
bộ sắp xếp lại những thông tin một cách có hệ thống, thiết lập và củng
cố khả năng ghi nhớ dài hạn của não bộ. Điều này cực kỳ cần thiết để cho
cơ thể phát triển và thích nghi với môi trường sống. Bên cạnh đó, giấc
ngủ còn góp phần làm chậm tiến trình lão hóa, kéo dài tuổi thọ và duy
trì sự tươi trẻ ở con người.
Thông thường, chất lượng của giấc ngủ được thể hiện rõ nhất sau khi
chúng ta tỉnh giấc. Nếu sau khi thức dậy vào đầu ngày, nếu cảm thấy tinh
thần sảng khoái, thoải mái, dễ chịu, đầu óc tỉnh táo, minh mẫn và đầy
năng lượng để phấn khởi bắt đầu một ngày làm việc nghĩa là chúng ta đã
có một giấc ngủ ngon lành. Giấc ngủ ngon sẽ làm tan đi sự mệt mỏi, khôi
phục lại sức lực đã tiêu hao, giữ cho thần kinh được cân bằng và các tế
bào não được tươi nhuận, nhờ đó có tác dụng khôi phục và tăng cường trí
nhớ, vì thế nâng cao hiệu suất công việc.
Đam mê ngủ nghỉ:
chướng ngại con đường tu tập
Không ai có thể xác định rõ ràng chúng ta ngủ đến mức nào là đủ! Đức
Phật từng nói “hưởng thọ ngủ nghỉ, này các Tỳ-kheo, không bao giờ thỏa
mãn” (Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm XI, kinh số 104: Không thỏa
mãn). Thế nhưng, không phải vì sự quan trọng của giấc ngủ mà chúng ta
đặt ngủ nghỉ lên hàng đầu đến mức dành phần lớn thời gian của đời người
cho hoạt động này. Một con người bình thường cần ngủ từ 7-8 tiếng một
ngày, có nghĩa là mỗi người dành ngót một phần ba cuộc đời mình để ngủ
rồi! Nếu nuông chiều nhu cầu bản năng của mình mà không biết tiết chế,
cuộc đời ta chỉ xoay vần quanh việc ăn và ngủ. Đức Phật cảnh tỉnh người
hoang phí thời gian như vậy sẽ mãi trầm luân trong vòng sanh tử luân hồi
không thể nào ra khỏi.
Nếu ta cho phép mình ngủ không tiết chế, thì khi ngủ dậy rồi, chúng ta
vẫn có thể ngủ tiếp nữa. Do đó, nếu chìu theo nhu cầu của cơ thể thì
chúng ta còn rất ít thời gian trong ngày dành cho các hoạt động khác.
Người xuất gia tu học, cần phải ngày đêm tinh cần quán chiếu các pháp,
thực hành thiền định hướng đến mục đích giải thoát, giác ngộ, mà ngủ
nghỉ nhiều là một sự chướng ngại. Ham thích ngủ nghỉ là dấu hiệu của
người bị cuốn vào dòng chảy thế gian, nuôi dưỡng các pháp trần hạ liệt.
Do đó, Đức Phật dạy về sự ham ngủ nghỉ như sau: “Ưa ngủ là một trong năm
pháp khiến cho vị Tỳ-kheo hữu học thối chuyển” (Tăng chi bộ kinh,
chương V, phẩm IX, kinh số 89: Vị Tỳ-kheo hữu học). Không chỉ một lần mà
Ngài còn nhắc đi nhắc lại điều này ở nhiều bài kinh: “Ưa thích ngủ nghỉ
là một trong các pháp đưa đến Tỳ-kheo thối đọa” (Tăng chi bộ kinh,
chương VI, phẩm III, kinh số 21: Làng Sama). Hoặc “Thích thú ngủ nghỉ,
và tánh thích thú ngủ nghỉ làm tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai
thuyết giảng” (Tăng chi bộ kinh, chương X, phẩm IX, kinh số 86: Câu hỏi
về chánh trí).
Đức Phật rất thấu hiểu và cảm thông với chư Tăng Ni khi thực hành thiền
trong rừng vắng thỉnh thoảng mệt mỏi và ngủ gục. Dù vậy, Ngài vẫn hoan
hỷ và tán thán việc sống ở nơi thanh vắng vì đây là môi trường tu tập
tốt nhất. Ngài nói rằng, sau khi vượt qua được cơn buồn ngủ và sự mệt
nhọc, vị ấy sẽ tiếp tục thiền quán và sẽ đạt đến mục đích tu tập là nhất
tâm (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm IV, kinh số 42: Tôn giả Nagita).
Người ngủ gục, biếng nhác, ngáp dài thì không thể nào bước trên con
đường thánh. Những pháp tiêu cực và thụ động này không tương ưng và
không liên hệ đến mục đích giải thoát và con đường đưa đến giải thoát:
Ngủ gục, nhác, ngáp dài,
Không vui, ăn quá độ,
Ở đây, đối chúng sanh,
Thánh đạo không hiển lộ.
(Tương ưng bộ kinh, tập I, chương I, phẩm II, kinh số 6: Ngủ gục, biếng
nhác).
Một Tỳ-kheo cần nỗ lực tận dụng thời gian quý báu để thực hành pháp chứ
không được phép tự ý ngủ phi thời. Có lần, một vị Tỳ-kheo ngủ ngày. Thấy
vậy, một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỳ-kheo ấy, muốn vị ấy
được hạnh phúc, vị thiên ấy liền đi đến vị ấy, nói lời cảnh giác, rằng:
Tỳ-kheo, hãy thức dậy,
Sao Ông hãy còn nằm?
Ông được lợi ích gì,
Trong giấc ngủ của ông?
Kẻ bịnh, kẻ trúng tên,
Bị đánh sao ngủ được?
Vì lòng tin, xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
ín ấy cần phát triển,
Chớ để ngủ chinh phục.
(Tập I, chương IX, phần 2: Săn sóc, hầu hạ).
Tuổi trẻ thì thật khó lòng cưỡng lại sự đam mê ngủ nghỉ. Vì lẽ đó, để
ngủ nghỉ không làm chướng ngại con đường tu học của các đệ tử, Đức Phật
thường sắp xếp các Tỳ-kheo trưởng lão đã thuần thục nếp sống của đạo,
khéo điều phục các căn, sống chung trú xứ với các tân học Tỳ-kheo để
nhắc nhở những người này; nếu không, họ sẽ “ngáy và ngủ cho đến trời
sáng!” mà không thể tự giác thức dậy để thực hành pháp (Tăng chi bộ
kinh, chương VI, phẩm II, kinh số 17: Cha mẹ của Nakkula). Như vậy đủ
biết thắng phục ngủ nghỉ đối với người mới xuất gia là cả một thử thách!
Đức Phật dạy
tám cách chế ngự ngủ gục
Dã dượi và buồn ngủ làm cản trở sự phát triển của các tâm sở tốt đẹp
khác nên nó là chướng ngại cho việc hành thiền. Mí mắt bắt đầu nặng, đầu
bỗng nhiên mất thăng bằng và lắc lư, đổ về phía trước là biểu hiện cho
sự hành thiền đang bị hôn trầm, buồn ngủ làm cho đình trệ. Làm thế nào
để chế ngự tình trạng tai hại này? Đức Phật đưa ra một số phương pháp
đối trị như sau:
Tăng chi bộ kinh (tập VII, chương IV, kinh số 58: Ngủ gục) ghi lại rằng,
một lần nọ, khi Tôn giả Mục-kiền-liên đang hành thiền trong rừng bị dã
dượi buồn ngủ xâm chiếm và chế ngự tâm. Tâm của Tôn giả Mục-kiền-liên
lúc bấy giờ co cứng lại và ngưng trệ, bần thần, dã dượi, không tỉnh táo
và tất nhiên, không thể nào tập trung vào đề mục thiền quán. Bằng thần
thông, Đức Phật thấy rõ Tôn giả Mục-kiền-liên đang gặp chướng ngại và
muốn hỗ trợ cho Tôn giả vượt qua cơn ngủ gục này. Ngài liền đến gần Tôn
giả Mục-kiền-liên và hỏi: “Này Mục-kiền-liên, thầy đang dã dượi, đang
buồn ngủ và ngủ gục phải không?” Rất chân thật, Tôn giả Mục-kiền-liên
liền trả lời là đang ngủ gục. Nhân đây, Đức Phật dạy cho Tôn giả
Mục-kiền-liên tám cách để chế ngự dã dượi, buồn ngủ theo mức độ tăng
dần, nếu cách này không có hiệu quả thì sử dụng cách tiếp theo, cụ thể
như sau:
1- Không tác ý đến cơn buồn ngủ
Cách đầu tiên để đối trị buồn ngủ là chuyển sự chú tâm. Tâm lý thông
thường, khi bị cơn buồn ngủ tấn công, đầu óc lúc ấy cứ tập trung vào ý
tưởng “buồn ngủ quá”. Suy nghĩ như vậy là chúng ta mở cửa tâm mình cho
trạng thái dã dượi, hôn trầm “vào nhà” và bắt đầu trao cho nó cái quyền
làm chủ. Ví như khi bị đau một chỗ nào trên cơ thể, nếu ta chú tâm thái
quá vào cơn đau thì nỗi đau được khuếch tán, cường điệu thêm lên. Đối
với cơn buồn ngủ cũng vậy. Do đó, cách tốt nhất là ta không để ý đến cơn
buồn ngủ, hãy coi nó là một “khách không mời”. Nếu trạng thái này đến
trong lúc đang hành thiền thì chúng ta đừng để tâm đến nó, tiếp tục chú
tâm nhiều hơn vào đề mục thiền quán. Nếu cơn buồn ngủ ập đến khi ta đang
làm công việc trong sinh hoạt hàng ngày thì đặt sự chú tâm của mình
kiên cố hơn vào công việc đang làm, phớt lờ không bận tâm đến trạng thái
uể oải, dã dượi, bần thần đang dần len lỏi vào tâm mình, thì năng lượng
làm việc sẽ lướt qua sự trì trệ của mệt mỏi và buồn ngủ. Khi ta để tâm
vào việc buồn ngủ, có nghĩa là ta cho phép trạng thái này có mặt và dành
cho nó một sự ưu ái nhất định. Nếu chuyển sự chú ý sang vấn đề khác,
trạng thái dã dượi, hôn trầm không có cơ hội nổi lên trên bề mặt của ý
thức nữa. Do đó, Đức Phật dạy phương cách đầu tiên đối trị buồn ngủ là
không để ý đến sự có mặt của nó.
2- Nhớ lại những đoạn kinh đã biết hay đã thuộc lòng trước đây
Tâm chúng ta không chịu “rảnh rỗi” mà luôn cần có đối tượng để tác ý.
Phương cách đầu tiên để trừ buồn ngủ là không để tâm đến cơn buồn ngủ
đang ập đến và muốn chiếm quyền điều khiển tâm mình chỉ là bước đầu tiên
để hóa giải cơn buồn ngủ, trở về với đề mục thiền quán hoặc công việc
đang làm. Nếu không có hiệu quả khi sự chú tâm không hoạt dụng trên đối
tượng cũ vì tâm lý nhàm, thì phương cách tiếp theo là hướng tâm đến chọn
một đối tượng khác để nương gá theo phương pháp thế. “Thay thế” là một
phương pháp tu tập, khi thay đổi đối tượng bị nhàm, lờn với đối tượng
mới hơn, tương tự cách Đức Phật từng dạy thay thế đối tượng bất thiện
bằng một đối tượng thiện, ví như dùng một cái nêm để đánh bật một cái
nêm khác (kinh Song tầm, Trung bộ kinh số 19). Ở đây, đối tượng để thay
thế mà Đức Phật dạy Tôn giả Mục-kiền-liên là “tùy tâm, tùy tứ, với ý hãy
tùy quán pháp như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng”. Bằng sự
trải nghiệm thực tế, Đức Phật đưa ra một giải pháp đơn giản mà hiệu quả.
Khi hướng tâm về những đoạn kinh, câu kệ và ý pháp mình đã thuộc, thì
ngay lúc đó, tâm lờ đờ, thụ động của mình được đánh thức và kích hoạt.
Nhẩm những câu kinh, kệ này trong tâm, và nhất là suy ngẫm nghĩa lý của
những câu kinh kệ này là công năng của tâm sở “tầm”, làm cho tâm càng
sáng ra. Khi ấy, trong tâm không có chỗ cho những trạng thái trầm nịch,
uể oải, dã dượi, bần thần và nhờ đó, cơn buồn ngủ được hóa giải. Nếu ai
đó từng tập trung suy nghĩ điều mình đang trăn trở đến mất ngủ thì sẽ
hiểu được tác dụng của phương cách thứ hai Đức Phật dạy để chế ngự buồn
ngủ.
3- Đọc to một số đoạn kinh đã thuộc
Phương cách thứ ba để đối trị trạng thái hôn trầm và buồn ngủ là đọc to
một số đoạn kinh đã thuộc. Khi đọc thành tiếng, âm thanh tạo nên sự sống
động làm phá vỡ không gian tĩnh mịch, yên lặng, đồng thời sóng âm có
tác dụng kích hoạt não hoạt động. Thêm vào đó, khi chúng ta bật ra âm
thanh là lúc có một luồng không khí từ buồng phổi đi lên, đi qua thanh
quản và làm rung động dây thanh. Cùng với sự “thức dậy” của một số bộ
phận của cơ thể, đây là lúc cơ thể chuyển từ trạng thái tĩnh (môi trường
phù hợp cho hôn trầm, dã dượi) sang trạng thái động, não được đánh thức
và bắt đầu hoạt động, sự trao đổi chất, trao đổi khí nhờ đó mà thực
hiện tốt hơn, thế là cơn buồn ngủ qua đi.
Người xuất gia thường sống tập thể nên mọi sinh hoạt đều diễn ra trong
tinh thần lục hòa cộng trụ. Do đó, nếu sử dụng phương pháp đọc to để đối
trị buồn ngủ thì cũng chỉ nên ý thức giữ âm lượng ở mức độ vừa phải, đủ
để đánh thức tâm trí mình ra khỏi trạng thái dã dượi, bần thần và trầm
nịch nhưng đừng đọc lớn đến mức làm phiền người khác.
4- Kéo tai, xát hai tay vào nhau, chà xát chân, tay
Nếu dùng những cách trên mà vẫn còn buồn ngủ thì Đức Phật dạy Tôn giả
Mục-kiền-liên cách tiếp theo là “hãy kéo hai lỗ tai của Thầy, và lấy tay
xoa bóp tay chân”. Biện pháp này mạnh hơn khi cử động chân tay và chà
xát tác động vào vành tai. Phương pháp Đức Phật dạy rất khoa học. Khi
massage tai, chỉ cần xoa nhẹ nhàng vành tai khoảng 10-20 lần, mạch được
lưu thông, ô-xy được đưa lên não nhiều hơn và nhờ vậy, máu tuần hoàn tốt
hơn để đưa dòng máu tươi nhuận giàu ô-xy đến các cơ quan và cơn buồn
ngủ được hóa giải. Thêm vào đó, xoa bóp chân tay, tác động các mạch máu,
cử động các chi là cách làm tươi mới các tế bào và nhờ đó, cơn buồn ngủ
cũng tan đi. Chúng ta có thể áp dụng cách này để cơ thể không rơi vào
trạng thái hôn trầm, dã dượi ngay khi bắt đầu một ngày mới bằng cách tập
thể dục đều đặn khoảng 30 phút mỗi ngày. Thói quen này có thể giúp cải
thiện sự tỉnh táo và tăng năng lượng của mình nhằm chống lại các cơn
buồn ngủ “không phải lúc” cho cả một ngày. Nó cũng cải thiện chất lượng
giấc ngủ của chúng ta vào ban đêm để cơ thể được tái nạp năng lượng hiệu
quả nhất chuẩn bị cho một ngày làm việc trọn vẹn và chất lượng.
5- Đứng dậy, lấy nước rửa mặt, phóng tầm nhìn ra xa
Nếu ngồi tại chỗ xoa vành tai và cọ xát chân tay mà vẫn không chế ngự
được tâm trạng dã dượi, bần thần, mất tập trung hay buồn ngủ, Đức Phật
dạy Tôn giả Mục-kiền-liên rời chỗ ngồi, nhẹ nhàng đứng dậy trong chánh
niệm, lấy nước rửa mặt, rồi phóng tầm mắt ra xa nhìn về phía chân trời
và nhìn lên các vì sao lấp lánh. Đây là lời hướng dẫn của Đức Phật dành
cho Tôn giả Mục-liên-liên để đối trị cơn ngủ gục khi đang hành thiền, có
lẽ vào thời điểm trời còn chưa sáng hẳn, khi sao vẫn còn giăng kín trên
bầu trời và bình minh chưa ló dạng. Phương cách chế ngự buồn ngủ Đức
Phật đưa ra ở đây rất hiệu quả, vì đến lúc này, sau khi xoa vành tai và
xoa bóp chân tay vẫn không có tác dụng thì việc thay đổi tư thế để đánh
thức toàn bộ cơ thể là điều cần thiết.
Khi dùng nước rửa mặt, con người trở nên tươi tỉnh vì sự thay đổi đột
ngột về nhiệt độ giúp xua tan cảm giác buồn ngủ và làm cho tinh thần dễ
dàng tập trung hơn. Khi khép hờ lim dim một thời gian quá lâu trong tư
thế ngồi thiền, mắt đã bị mỏi. Vì thế, việc phóng tầm mắt ra xa cũng là
cách để mắt đỡ mỏi, điều tiết tốt hơn, khỏe hơn và linh hoạt hơn. Chuyển
đổi đối tượng chú ý của mắt cũng là cách để kích hoạt não bộ hoạt động,
làm hưng phấn hệ thần kinh để giải tỏa cơn buồn ngủ.
Không chỉ trong thiền định mà trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cũng
nên áp dụng cách này để kích hoạt hệ thần kinh hứng phấn, không rơi vào
trạng thái dã dượi, buồn ngủ để có thể tập trung vào công việc bằng
cách tắm nước mát vào buổi sáng sớm. Với cách này, cơn buồn ngủ sẽ được
xua đi và máu lưu thông tốt hơn, thân tâm khỏe khoắn, tràn đầy năng
lượng chuẩn bị cho một ngày mới.
6- Hướng về ánh sáng
Nếu đứng dậy đi rửa mặt, phóng tầm mắt nhìn ra xa mà tâm vẫn còn lờ đờ,
người vẫn dã dượi chưa tỉnh táo thì chúng ta nên hướng tâm nghĩ đến ánh
sáng, nhìn vào nơi có ánh sáng như mặt trời nếu là ban ngày và ánh đèn,
ánh trăng hoặc ánh sao nếu là ban đêm. Ánh sáng có thể giúp con người
tỉnh táo, hệ thần kinh được đánh thức, nhờ đó chúng ta dễ dàng tỉnh ngủ.
Nếu đang ngồi thiền định mà hôn trầm, chúng ta có thể đi ra ngoài phòng
thiền trong giây lát để tiếp xúc với bên ngoài có ánh sáng nhiều hơn.
Cách đối trị này có thể vận dụng để đẩy lùi tâm trạng dã dượi, bần thần
ngay từ đầu ngày bằng việc tắm nắng vào mỗi sáng sớm. Điều này sẽ giúp
cho chúng ta giữ được sự tỉnh táo và tràn đầy năng lượng suốt cả ngày và
chống buồn ngủ phi thời. Trong thực tế, ánh sáng mặt trời giúp điều
chỉnh chu kỳ ngủ-thức vì nó giúp não của chúng ta ghi nhớ thời gian để
thức dậy ngay cả trong lúc ngủ tạo thành một cái nếp của đồng hồ sinh
học.
Ánh sáng mặt trời cũng giúp cơ thể sản xuất vi-ta-min D, một loại
vi-ta-min cần thiết hỗ trợ tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể. Khi thức
dậy vào buổi sáng, đi dạo trong không khí thoáng đãng và tận hưởng những
tia nắng sớm đầu ngày ít nhất khoảng 15 phút để con người sảng khoái và
đầy năng lượng là một thói quen tốt cần thiết.
7- Đi kinh hành trong chánh niệm
Đi kinh hành là một cách hay để trú tâm trong chánh niệm và vận động cơ
thể một cách hài hòa, nhịp nhàng để duy trì nhịp thở đều đặn, giữ cho
tim mạch tuần hoàn điều độ. Đi từng bước chân khoan thai trong chánh
niệm là một hình thức đi bộ đặc biệt, không chỉ giúp cho hệ tiêu hóa làm
việc tốt, mà còn là cách giúp tất cả các hệ cơ quan trong cơ thể vận
hành đều đặn, hỗ trợ chúng ta duy trì thể trạng tốt và dẻo dai. Loại vận
động này nhẹ nhàng, không vội vàng, không rề rà, hết sức điều hòa nhưng
làm cho chúng ta tỉnh táo, có thể đối trị hôn trầm một cách hiệu quả.
Sau một thời gian ngồi thiền lâu liền bị hôn trầm chế ngự, tinh thần
chẳng thể phấn chấn, thậm chí ngủ gà ngủ gật, thì khi chuyển sang trạng
thái kinh hành, sự mệt mỏi, bần thần và thụ động đều được giải phóng. Đi
kinh hành giúp chúng ta cải thiện lưu thông máu, giúp ô-xy đưa tới não
dễ dàng, làm tăng sự tỉnh táo, tươi khỏe và sảng khoái. Đi bộ thường
xuyên có tác dụng thúc đẩy hệ thống miễn dịch làm việc hiệu quả sẽ giúp
chúng ta dễ dàng tránh được các bệnh thông thường như cảm cúm và ho. Do
đó, không chỉ sử dụng kinh hành như một phương pháp đối trị buồn ngủ khi
ngồi thiền mà chúng ta cần duy trì kinh hành hàng ngày trong chánh niệm
để hỗ trợ cho sức khỏe và cải thiện chất lượng cuộc sống được tốt hơn.
8- Ngủ một lát trong chánh niệm
Nếu đã dùng tất cả các cách trên rồi mà vẫn không thể chế ngự cơn buồn
ngủ đang xâm nhập thân và tâm, có nghĩa là chúng ta đang thiếu ngủ trầm
trọng và cần ngủ bổ sung. Cách ngủ an lành và phù hợp với người xuất gia
nhất được Đức Phật mô tả trong bài kinh này cũng như trong nhiều kinh
khác là “hãy nằm như dáng nằm con sư tử, về phía hông bên phải, hai chân
gác lên nhau, chánh niệm tỉnh giác, tác ý với tưởng thức dậy”. Ngủ
trong chánh niệm là cho phép thân nằm thoải mái thư giãn, nghỉ ngơi và
tâm trú trong sự an tịnh, không suy nghĩ, vọng tưởng. Đây được ví như
khi sạc pin không mở nguồn thì pin nhanh đầy vì không hao pin để vận
hành máy. Như vậy, cơ thể sẽ tái nạp năng lượng nhanh chóng, sức khỏe
được phục hồi và không còn uể oải, bần thần, dã dượi nữa.
Nằm ngủ một lát với mục đích cân đối và điều chỉnh lại nhịp sinh học cho
cơ thể, nên khi thức dậy, chúng ta cần thức dậy thật nhanh, dứt khoát
để tiếp tục việc tu học hoặc những hoạt động đang làm, không nằm ráng,
không xoay qua trở lại với tâm thế còn thích ngủ, lười biếng chưa sẵn
sàng dậy. Lúc đó, cần “tự kỷ ám thị” tích cực bằng cách tự nhủ lời Đức
Phật dạy trong bài kinh này là “Ta sẽ trú, không có chú tâm đến lạc nằm
ngủ, lạc nằm xuống một bên, lạc thụy miên”. Chúng ta ngủ trong trường
hợp này là để giúp cơ thể cân đối sự ngủ-thức một cách hợp lý, duy trì
một thể trạng khỏe khoắn, phấn chấn mà tiếp tục tham gia các công việc
của mình, chứ không phải ngủ vì sự đam mê, vui thích, thỏa mãn trong dục
vọng.
Nằm ngủ với tâm chánh niệm trong tư thế cát tường nghiêng về bên phải,
ngủ dậy là khởi thân dậy dứt khoát, không khởi tâm đam mê trong ngủ
nghỉ, không thỏa thích trong ngủ nghỉ, giữ thân và tâm tỉnh táo sau khi
ngủ là điều cần tác ý của người tu học đạo. Cách này không chỉ dùng
trong những lúc “ngủ bù” vào ban ngày (khi cần thiết) mà còn áp dụng cho
giấc ngủ chính vào ban đêm để có được giấc ngủ sâu, ngon và tinh thần
sảng khoái sau khi thức dậy.
Thay lời kết:
để có thể chế ngự hôn trầm hiệu quả
Ngoài những phương pháp đặc trưng Đức Phật dạy Tôn giả Mục-kiền-liên áp
dụng trong lúc đang hành thiền mà buồn ngủ, hôn trầm, dã dượi được ghi
lại trong bài kinh “Ngủ gục” (Tăng chi bộ kinh, tập VII, chương IV, kinh
số 58), Ngài còn dạy chư đệ tử cần hâm nóng tâm nguyện xuất gia, hướng
đến mục đích giải thoát để có thể thực hành chế ngự hôn trầm một cách
hiệu quả trong cuộc sống tu tập.
Đức Phật dạy rằng, hôn trầm, dã dượi và buồn ngủ được vượt qua bằng cách
làm khơi dậy năng lực tinh tấn. Nguồn năng lực này lúc nào cũng có sẵn
trong mỗi cá nhân nhưng ít người biết cách khai thác và duy trì nó trong
một thời gian dài. Ở người xuất gia, nguồn năng lượng tinh tấn rất dồi
dào ở thời gian đầu mới vào đạo, khi mục đích giải thoát sanh tử luân
hồi là lý tưởng sống của mình. Thế nhưng, cùng với thời gian, sự thực
hành giáo pháp, sự chuyển hóa nội tâm diễn ra không như chúng ta tưởng
tượng và mong muốn. Chí nguyện xuất gia ban đầu dần bị phai nhạt và năng
lượng tinh tấn bị bào mòn bởi những phiền não, đau khổ do “cầu không
được”. Từ đó, tâm dễ bị hôn trầm, thụy miên, chán nản và căng thẳng xâm
nhập và chi phối. Do vậy, để vượt qua khỏi những trạng thái tiêu cực ấy,
hâm nóng chí nguyện xuất gia, sợ hãi sanh tử luân hồi, hướng đến giác
ngộ giải thoát sẽ cho chúng ta mục đích và động cơ, nghị lực để kiên trì
phấn đấu. Nên nhớ người ham ăn, ham ngủ là đang tạo nhân sanh tử luân
hồi, “như tằm kéo kén, buộc mình trong tơ” (Pháp cú 347), đó không phải
là người xuất gia hướng đến mục đích giải thoát:
Người ưa ngủ, ăn lớn
Nằm lăn lóc qua lại,
Chẳng khác heo no bụng,
Kẻ ngu nhập thai mãi.
(Pháp cú 325)
Đức Phật khuyến khích chư đệ tử Ngài nên giữ hạnh như tâm người vợ trẻ
mới về nhà chồng (Tăng chi bộ kinh, Chương IV, phẩm VIII, kinh số 74:
Người vợ trẻ) là để nuôi dưỡng sơ tâm trong sáng của thuở ban đầu khi
phát tâm đến với con đường tu học. Khi đặt trọng tâm vào sự chuyển hóa
tâm thức, thành tựu mục đích tu tập, giải thoát giác ngộ thì hành giả sợ
hãi luân hồi sanh tử, không cho phép mình lười biếng, giải đãi. Như vậy
thì không có chỗ cho hôn trầm, dã dượi, để thời giờ trôi đi luống uổng
trong hoang phí. Đức Phật dạy trong số những loại người ngủ ít thì có
một loại người là “những vị Tỳ-kheo thao thức đến ly hệ phược, ban đêm
ngủ ít thức nhiều” (Tăng chi bộ kinh, chương V, phẩm XIV, kinh số137:
Ngủ rất ít).
Khi đã đánh mất phương hướng thì chúng ta không thể nuôi dưỡng năng
lượng tinh tấn và vì thế, sự trì trệ, bất mãn, chán nản dần xâm chiếm
tâm mình, con đường giải thoát trở nên mờ mịt, tăm tối và đây là cơ hội
để các pháp hôn trầm, thụy miên xuất hiện và hoạt động. Đức Phật luôn
cảnh tỉnh chúng đệ tử Ngài rằng “Ta không thấy một pháp nào khác, này
các Tỳ-kheo, đưa đến hôn trầm thụy miên chưa sanh được sanh khởi, và hôn
trầm thụy miên đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỳ-kheo, như
không hân hoan, biếng nhác, chán nản, ăn quá no, tâm thụ động. Với
người có tâm thụ động, này các Tỳ-kheo, hôn trầm thụy miên chưa sanh
được sanh khởi, và hôn trầm thụy miên đã sanh được tăng trưởng quảng
đại” (Tăng chi bộ kinh, chương I, phẩm II, kinh số 1-10: Tịnh tướng). Do
vậy, hướng đến mục đích giải thoát, không đánh mất “sơ tâm” của mình
thì hôn trầm, buồn ngủ không thể chi phối người xuất gia tu học vậy.
Liên Trí
http://giacngo.vn/nguyetsan/chuyende/2017/12/24/56F49B/