Ngài cho rằng đó
là việc làm chẳng những không lợi ích mà còn có hại vì làm tổn thương
đạo đức và làm giảm thiểu phước báu của những người có niềm tin sai lầm
đó, nghiệp báo của việc sát hại sinh linh có thể khiến cho họ rơi vào
đọa xứ, địa ngục. Hơn nữa, không sát sinh còn thể hiện tinh thần từ bi,
bình đẳng, tôn trọng sự sống của muôn loài. Trong Tương ưng bộ kinh
III có ghi lại, Đức Phật đã can ngăn vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nước
Kosala (Kiều-tát-la) khi vị vua này tổ chức một đại tế đàn có đến 500
con bò mộng, 500 con bò cái, 500 con dê, 500 con cừu… Ngài tâu với vua
rằng, không có tế lễ bằng người hay vật nào đem lại lợi ích. Bậc trí
tránh xa các đại tế đàn có chúng sinh bị giết. Trái lại, các tế đàn
không đẫm máu, không tổn hại chúng sinh và không hao tốn nhiều sẽ có ích
cho người cúng tế và làm vui lòng chư Thiên. Trong Trường bộ kinh, Đức
Phật cũng khuyên can một người Bà-la-môn giàu có tên là Kùtadanta khi
ông ta định tế lễ 700 súc vật mỗi loại. Đức Phật nói rằng, cúng dường
các sa-môn, xây tịnh xá, thọ trì Tam quy, Ngũ giới, hành thiền, tu học
Chánh pháp là những cách tế lễ đem lại nhiều lợi ích thiết thực. Ngài
dạy: “Người nào cầu an vui cho mình mà lại dùng dao gậy não hại kẻ khác
thì sẽ không được an vui”(PC.131), “Ai cũng sợ gươm đao, ai cũng sợ chết, vậy hãy lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết” (PC.129).
Giới luật Phật chế dù của hàng đệ tử xuất gia hay tại gia, từ hàng
Bồ-tát, Nhị thừa trở xuống cho đến Nhân thừa đều nghiêm cấm sát sinh.
Tinh thần từ bi, bình đẳng, tôn trọng quyền sống và niềm an vui hạnh
phúc của kẻ khác luôn xây dựng con đường hòa bình, an lạc, hạnh phúc cho
nhân loại, chúng sinh dù ở bất cứ thời đại nào nếu như tinh thần ấy
được thực thi triệt để.
Một lần, vua Ba-tư-nặc xứ Kiều-tát-la đem quân đánh
nhau với vua Ajatasattu (A-xà-thế) xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) và bị bại
trận. Đức Phật hay tin đã dạy các thầy Tỳ-kheo rằng: “Chiến thắng nuôi
dưỡng hận thù, kẻ thất bại sống trong khốn khổ. Những ai từ bỏ ý niệm
chiến thắng và chiến bại, sẽ sống thanh bình an lạc” (Tương ưng bộ kinh).
Khi vua Pasenadi tái chiến với vua Ajatasattu và
chiến thắng bắt được vua Ajatasattu cùng thâu đoạt toàn bộ binh mã, Đức
Phật đã dạy như sau: “Vì nghĩ đến tư lợi, hận thù nên mới cướp của
người, hại người. Rồi bị người cướp lại, hại lại. Và cướp bóc, chiếm
đoạt trở đi trở lại không ngừng. Ngày nào quả xấu chưa đủ duyên để trổ,
người cuồng si nghĩ rằng: “Đây là một dịp may”. Nhưng khi quả trổ, người
kia phải chịu khốn khổ. Người sát nhân gặp kẻ sát nhân, người xâm lăng
bị chinh phục, kẻ hỗn hào bị chửi mắng, người ưa quấy rầy bị phiền
nhiễu. Theo tiến trình diễn biến của hành vi, kẻ cướp ắt bị cướp” (Tương ưng bộ kinh).
Trong kinh Pháp cú, phẩm Song yếu
(Yamakavagga), Đức Phật đã dạy về tinh thần từ bi, hỷ xả, bất bạo động,
chủ trương hòa bình vô điều kiện, đây là cách chấm dứt chiến tranh, chấm
dứt hận thù, giải quyết các mâu thuẫn, xung đột ngay từ trong bản chất,
đây là con đường chấm dứt sự sinh khởi của những nghiệp duyên bất
thiện, những nguồn gốc khổ đau. Đức Phật dạy:
“Nó làm nhục tôi, tấn công tôi!
Nó chiến thắng tôi, phá hoại tôi, cướp đoạt của tôi!”
Ai chứa trong lòng tư tưởng ấy,
Thì sự oán thù không thể nguôi.
Nó làm nhục tôi, tấn công tôi!
Nó chiến thắng tôi, phá hoại tôi, cướp đoạt của tôi!”
Không chứa trong lòng tư tưởng ấy,
Hận thù, oán hận sẽ dần nguôi”.
(PC.3-4)
“Các mối hận thù trên thế gian
Chẳng hề tiêu diệt bởi lòng sân
Từ bi trừ khử niềm sân hận
Định luật muôn đời của cổ nhân”.
(PC.5)
Đức Phật từng dạy Sa-di Ràhula (La-hầu-la) cũng như
các đệ tử khác như sau: “Bất luận điều gì con muốn làm, phải suy xét thế
này: “Điều mà ta muốn thực hiện có hại cho ta, hay có hại cho kẻ khác,
hoặc có hại cho ta và cho kẻ khác không?” Nếu có, vậy thì hành động này
là bất thiện, hành động này đem lại phiền não và đau khổ. Hành động như
vậy, con phải tránh, không nên làm. Nhưng nếu khi suy xét con nhận định
rằng: Hành động mà ta muốn thực hiện sẽ không có hại cho ta, không có
hại cho ai khác, cũng không có hại cho cả ta và kẻ khác. Như vậy, đó là
hành động thiện, sẽ đem lại an vui và hạnh phúc. Hành động như thế con
nên làm” (Trung bộ kinh).
Trong vòng luân hồi sinh tử, nhiều đời nhiều kiếp
chúng sinh đã từng làm ông bà, cha mẹ, anh em, chồng vợ, con cái của
nhau, vì thế mà Đức Phật dạy phải đối xử với nhau bằng tình thương, tình
thân ái, sống hòa đồng không phân biệt màu da sắc tộc, không phân biệt
đẳng cấp giàu nghèo, không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng… Và trên tinh
thần bình đẳng tánh, Đức Phật cho biết mỗi chúng sinh đều có Phật tánh,
Ngài là Phật đã thành và chúng sinh là Phật sẽ thành, do đó mỗi người
cần phải học hạnh của Thường Bất Khinh Bồ-tát như kinh Pháp hoa đã dạy. Sự làm tổn hại chúng sinh khác chẳng khác nào làm tổn hại ông bà cha mẹ nhiều đời của mình (Kinh Phạm võng Bồ-tát giới), hơn thế nữa là làm tổn hại một vị Phật tương lai (Kinh Diệu pháp Liên hoa, phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát).
Trong hệ thống giáo lý của Đức Phật có Lục hòa kỉnh
pháp là giáo lý giúp xây dựng đời sống hòa bình, an lạc cho tập thể,
cộng đồng xã hội, cho quốc gia, cho thế giới. Nội dung giáo lý Lục hòa
gồm 6 nguyên tắc sống hòa hợp trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau, trên tinh thần từ bi và trí tuệ hay tình thương và hiểu biết:
1. Thân hòa đồng trú: Cùng sống trong một gia
đình, trong một cộng đồng xã hội, một đất nước, cùng sống trên hành tinh
xanh này phải biết tôn trọng, thương yêu nhau, đùm bọc, tương trợ lẫn
nhau, không tranh chấp, làm hại lẫn nhau. Nếu thực thi nguyên tắc này
thì thế giới sẽ không còn bạo lực, chiến tranh, không còn khủng bố, nhân
loại sẽ không còn những bất an vì những mâu thuẫn, xung đột, bất hòa.
2. Khẩu hòa vô tránh: Không dùng lời lẽ phê
phán, chỉ trích, kích bác, buộc tội, không dùng lời khiêu khích, gây
hấn, không dùng lời chia rẽ, ly gián... Tôn trọng nguyên tắc này là
không dùng lời nói gây mâu thuẫn, xung đột, hiềm khích, biết dùng lời từ
ái, có thiện chí, tôn trọng nhau, trọng lẽ phải. Trong giải quyết mâu
thuẫn, tranh chấp, dùng biện pháp thương lượng, hòa đàm.
3. Ý hòa đồng duyệt: Tư tưởng không bất đồng, chống trái. Thống nhất tư tưởng theo chí hướng hòa bình, từ bi, bình đẳng, vô ngã, vị tha.
4. Giới hòa đồng tu: Cùng nhau thực hiện tinh
thần đạo đức vì lý tưởng cao đẹp, vì lợi ích chung của tập thể, cộng
đồng, của nhân loại, chúng sinh, vì hòa bình, an lạc.
5. Kiến hòa đồng giải: Hoà hợp trong nhận
thức, kiến giải. Cùng giao lưu, chia sẻ tri thức, kinh nghiệm, những
thành tựu văn hóa, khoa học, những giá trị tinh thần…
6. Lợi hòa đồng quân: Tôn trọng sự bình
đẳng về quyền lợi giữa các cá nhân, trong quan hệ giữa các tổ chức,
quốc gia trên thế giới. Không tham lam, tư lợi, không vơ vét, chiếm
đoạt, biển thủ, không tranh chấp, lấn lướt, tôn trọng quyền được sinh
tồn, quyền sống, quyền tự do, quyền thụ hưởng thành quả xã hội v.v...
Có thể nói, giáo lý Lục hòa của Đức Phật mang tư
tưởng hết sức tiến bộ mà xã hội hiện đại chúng ta cần phải học tập và
ứng dụng để giải quyết một cách sáng suốt những mâu thuẫn, xung đột,
tình trạng chiến tranh trên thế giới mà từ xưa cho đến nay luôn xem là
một vấn nạn lớn.
Chân lý về Duyên sinh Vô ngã mà Đức Phật đã chứng ngộ
và chỉ dạy, một giáo lý nòng cốt, quan trọng bậc nhất trong hệ thống
giáo lý đạo Phật cho biết rằng, không có sự tồn tại độc lập của một
chúng sinh mà không có mối quan hệ với những chúng sinh khác. Tất cả sự
vật hiện tượng đều nương vào nhau mà tồn tại, cái này có mặt dẫn đến sự
có mặt của những cái khác, cái này thay đổi, biến hoại dẫn đến sự thay
đổi, biến hoại của những cái khác v.v... Sự làm tổn hại chúng sinh khác
cũng chẳng khác làm tổn hại chính mình; sự tác động vào thế giới luôn
tạo ra những phản ứng tiêu cực hoặc tích cực được xem là hậu quả theo
con đường nhân-duyên-quả tất yếu. Đó là quy luật của vạn hữu. Không có
sự tách biệt giữa con người và thế giới, giữa các cá thể; không có một
thực thể có chủ tể tồn tại độc lập, mà tất cả chỉ là điều kiện của nhau.
Khi anh tàn phá, hủy diệt tôi cũng chính là anh đang tàn phá, hủy diệt
chính mình. Nếu mọi người đều ý thức được điều này, cùng chung tay xây
dựng hòa bình bằng tinh thần tương thân tương ái, bình đẳng, vô ngã, vị
tha, xóa bỏ sự phân chia giới tuyến, sự phân biệt kỳ thị, tỵ hiềm, sự
bảo thủ, cố chấp, xóa bỏ cái tôi ích kỷ, tham lam, đố kỵ, hận thù… thì
thế giới sẽ không còn họa chiến tranh, đây đó không còn cảnh nhà tan cửa
nát, máu đổ thịt rơi, đau thương tang tóc.
Có thể nói Đức Phật là vua hòa bình và giáo lý của
Ngài là con đường hòa bình đích thực. Bởi tinh thần hòa bình của Đức
Phật không giới hạn trong phạm vi một dân tộc, một quốc gia, một khu
vực; không giới hạn trong phạm vi nhân loại, mà nó trải rộng khắp tất cả
chúng sinh, từ con người cho đến muôn loài vạn vật. Nó được nuôi dưỡng
bằng lòng từ bi chứ không bằng tình yêu vị kỷ, tình yêu có hạn lượng, có
bến bờ, tình yêu có điều kiện. Con đường hòa bình của Đức Phật không
xây dựng bằng chiến tranh, bằng hận thù, bằng quyền lực và sức mạnh, mà
được xây dựng từ trong bản chất của mỗi con người bằng những chất liệu
từ bi, bình đẳng, vô ngã, vị tha.